Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ DUNG

BåI TH¦êNG THIệT HạI
TRONG PHáP LUậT LAO ĐộNG VIệT NAM

LUN VN THC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ DUNG

BåI TH¦êNG THIệT HạI
TRONG PHáP LUậT LAO ĐộNG VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đinh Thị Dung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG .............................................. 7
1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại trong lao động ............................ 7
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại trong lao động ..................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại trong lao động .............................. 10
1.1.3. Phân loại bồi thường thiệt hại trong lao động .................................... 11
1.1.4. Phân biệt bồi thường thiệt hại trong luật lao động với bồi thường
thiệt hại trong luật dân sự .................................................................. 13
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động ........ 16

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động ............... 16
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động ........ 16
1.2.3. Nội dung về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động ................ 20
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ...... 28
Thực trạng các quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng lao động trong pháp luật lao động và thực tiễn thực hiện ......... 28
2.1.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người sử dụng lao động
2.1.

đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật .................... 29
2.1.2. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người lao động đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật ........................... 45
2.1.3. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người sử dụng lao động
chấm dứt hợp đồng lao động do thay đổi về cơ cấu, cơng nghệ
hoặc vì lý do kinh tế .......................................................................... 48


2.1.4. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đào tạo, học nghề ............ 53
2.2.

Thực trạng các quy định về bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe trong pháp luật lao động và thực tiễn thực hiện ................. 58

2.3.

Thực trạng các quy định về bồi thường thiệt hại về tài sản trong
pháp luật lao động và thực tiễn thực hiện ....................................... 72


2.4.

Bồi thường thiệt hại trong trường hợp khác .................................. 78

Kết luận chương 2 ...................................................................................... 82
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO
ĐỘNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ................................................... 83
3.1.

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật lao động về bồi thường
thiệt hại............................................................................................. 84

3.1.1. Về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động...................... 84
3.1.2. Về bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe................................ 87
3.1.3. Về bồi thường thiệt hại về tài sản ..................................................... 89
3.1.4. Về bồi thường thiệt hại do đình cơng bất hợp pháp .......................... 91
3.2.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quy
định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động....... 92

3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật .......... 92
3.2.2. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý kịp thời các
hành vi vi phạm ................................................................................. 93
3.2.3. Cần tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với
doanh nghiệp và người lao động để nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại ........................................................ 94
3.2.4. Nâng cao vị trí và vai trị của tổ chức đại diện người lao động ........... 95
Kết luận chương 3 ...................................................................................... 97

KẾT LUẬN ................................................................................................. 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BLLĐ:

Bộ luật Lao động

BTTH:

Bồi thường thiệt hại

HĐLĐ:

Hợp đồng lao động

LĐ-TB&XH:

Lao động – Thương binh và Xã hội

NLĐ:

Người lao động


NSDLĐ:

Người sử dụng lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Trong quan hệ lao động, quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa
người sử dụng lao động và người lao động không phải lúc nào cũng được suôn
sẻ và ổn định như đã thỏa thuận. Người lao động phải đối mặt với nhiều rủi ro do
nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan. Vấn đề bồi thường thiệt hại là vấn đề
được người lao động và người sử dụng lao động rất quan tâm. Bởi vấn đề này
liên quan đến lợi ích vật chất, ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động và người
sử dụng lao động. Chính vì vậy, việc thực hiện đúng hoặc khơng đúng thỏa
thuận của bên này có thể gây ảnh hưởng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của
bên kia. Sự vi phạm của một bên trong hợp đồng lao động có thể gây ra thiệt hại
cho bên kia. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc các bên phải
thực hiện bồi thường thiệt hại trên thực tế. Việc giải quyết bồi thường thiệt hại
tốt hay không sẽ dẫn đến các tranh chấp về bồi thường thiệt hại làm ảnh hưởng
đến sự ổn định và phát triển của quan hệ lao động.
Đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ, thực tế cho thấy
nước ta không chỉ hội nhập kinh tế mà còn hội nhập văn hóa, đặc biệt là sự
hội nhập của người lao động Việt Nam về tác phong cơng nghiệp, về tính tự
chủ sáng tạo cũng là vấn đề được quan tâm. Chỉ khi người lao động tự giác
tuân thủ kỷ luật lao động, tuân thủ sự điều hành quản lý của người sử dụng
lao động thì lúc đó tác phong cơng nghiệp, tính sáng tạo trong cơng việc mới
thể hiện giúp cho quan hệ lao động ổn định và phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn
tồn tại những trường hợp người lao động ý thức kỷ luật kém, văn hóa ứng xử
thấp, vi phạm kỷ luật lao động vẫn xảy ra dễ gây tổn thất, phát sinh tranh chấp
giữa hai bên, từ đó, dẫn đến việc bồi thường thiệt hại.

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, đồng thời bảo

1


đảm được quyền của người sử dụng lao động trong quản lý duy trì kỷ luật lao
động và hiệu quả sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp
lao động nói chung và về tranh chấp bồi thường thiệt hại nói riêng địi hỏi
việc giải quyết các tranh chấp phải khách quan, chính xác và đúng pháp luật.
Việc xem xét, đánh giá một cách toàn diện các quy định của pháp luật, cũng
như thực trạng về việc giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại, chỉ ra
những bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng; đồng thời đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết
các tranh chấp về bồi thường thiệt hại là rất cần thiết.
Hệ thống các văn bản pháp luật hiện nay liên quan đến vấn đề bồi thường
thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động tương đối hoàn chỉnh.
Bộ luật Lao động 2012 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đã thiết lập
hành lang pháp lý cho người lao động và người sử dụng lao động thực hiện vấn
đề bồi thường thiệt hại, mang lại sự tương xứng với sự phát triển của xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho các bên trong quan hệ lao động. Tuy nhiên, pháp luật lao
động về bồi thường thiệt hại vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc; nhiều quy định
chưa được hướng dẫn cụ thể; nhiều vấn đề chưa được điều chỉnh một cách thấu
đáo; việc áp dụng không thống nhất các quy định của pháp luật vẫn cịn xảy ra
trên thực tế. Tình trạng vi phạm pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại trong
quan hệ lao động vẫn xảy ra thường xuyên. Những hạn chế cũng đã được phần
nào khắc phục trong Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 sẽ có hiệu lực từ ngày
01/01/2021. Như vậy, để góp phần hồn thiện pháp luật lao động về bồi thường
thiệt hại và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật học viên đã chọn đề tài: “Bồi
thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động là những vấn đề nghiên
cứu có tính thực tiễn cao, có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quan hệ

2


lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong quan hệ lao động. Liên quan đến vấn đề này có thể kể đến các
cơng trình nghiên cứu sau:
- Trần Thị Thanh Hà, Bàn về một số vấn đề liên quan đến hợp đồng lao
động và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động theo Bộ luật
Lao động 2012, Tòa án nhân dân, số 19, năm 2013; Bài báo đã đề cập đến
hợp đồng lao động và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động,
những hạn chế của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng lao động.
- Nguyễn Thị Thu Quyên, Bồi thường thiệt hại cho người lao động khi
chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam, Khóa luận,
trường Đại học luật Hà Nội, 2008. Khóa luận đề cập đến vấn đề chấm dứt hợp
đồng lao động, bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động, các giải
pháp đặt ra hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp
đồng lao động.
- Nguyễn Anh Sơn, Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại vê tài sản,
về tính mạng sức khỏe và thiệt hại ngồi hợp đồng, tình hình thực hiện chế
định bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam tại thời điểm đó.
- Nguyễn Thị Bích Nga, Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động
Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014. Luận văn đã làm
sáng tỏ cơ sở lý luận, chỉ ra những biểu hiện của trách nhiệm bồi thường thiệt

hại trong luật lao động và thực tiễn thực hiện, làm cơ sở để đề xuất các kiến
nghị hoàn thiện.
- Nguyễn Thị Lan Phương, Bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015. Luận

3


văn đã nghiên cứu các vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại trong pháp luật
lao động, nghiên cứu bồi thường thiệt hại theo các quy định pháp luật lao
động Việt Nam, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong
lao động và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
- Vũ Thị Thảo, Bảo hộ lao động theo pháp luật Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013. Luận văn làm rõ những vấn đề lý
luận về bảo hộ lao động, pháp luật về bảo hộ lao động, các quy định về bồi
thường thiệt hại đối với tai nạn lao động theo Bộ luật Lao động.
- Lê Huy Bắc, Chế độ pháp lý về bảo hộ lao động, Khóa luận tốt
nghiệp, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997. Khóa luận nghiên cứu các
quy định về chế độ pháp lý đối với bảo hộ lao động, thực trạng chế độ pháp lý
về bảo hộ lao động, bồi thường thiệt hại tai nạn lao động và thực tiễn thực thi.
- Đỗ Ngân Bình, Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội, 2001.
Luận văn bàn về các vấn đề cơ bản về an toàn, vệ sinh lao động, khái niệm và
đặc điểm của an toàn, vệ sinh lao động; các quy định của pháp luật về an toàn,
vệ sinh lao động; thực trạng bồi thường thiệt hại về tai nạn lao động; thực tiễn
triển khai pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động, bồi thường thiệt hại tai nạn
lao động trên thực tế.
Từ việc kế thừa các cơng trình nghiên cứu trên, luận văn hi vọng có thể
đưa ra một góc nhìn tổng quát, chuyên sâu toàn bộ các trường hợp bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật hiện hành, đánh giá thực trạng thực hiện

chế định bồi thường thiệt hại hiện nay tại nước ta và đưa ra một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại trong lao động.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu tổng quát
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận

4


về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động, đánh giá thực trạng về bồi
thường thiệt hại trong lao động ở nước ta hiện nay từ đó đưa ra những biện
pháp hoàn thiện cả về cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật.
3.2 Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn cần phải
làm rõ một số vấn đề như sau:
- Nghiên cứu nội hàm của khái niệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực
lao động.
- Phân tích, đánh giá các quy định về bồi thường thiệt hại trong luật lao
động, bao gồm: bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại
về tài sản và bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và đánh giá việc thực
hiện các chế định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động trong thực tiễn.
- Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về pháp luật, đảm bảo quá trình
thực hiện các chế định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về bồi
thường thiệt hại và thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong pháp
luật lao động Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật lao động Việt

Nam từ đó, tập trung vào các trường hợp bồi thường thiệt hại trong lao động,
tình hình thực hiện pháp luật bồi thường thiệt hại ở nước ta hiện nay. Luận
văn không nghiên cứu liên quan đến xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp
về bồi thường thiệt hại trong lao động.
5. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
5.1 Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề

5


lý luận cũng như các quy định pháp luật, đặc biệt là quy định pháp luật hiện
hành và thực tiễn thực thi các chế định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực
lao động, từ đó, đưa ra một số giải pháp hồn thiện về pháp luật, bảo đảm q
trình thực thi các chế định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn được dựa trên phương pháp luận phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin xem xét, đánh
giá từng vấn đề cụ thể trong mối tương quan với tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước. Đồng thời, luận văn cũng được nghiên cứu dựa trên các
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về vấn đề
bồi thường thiệt hại trong lao động và các chính sách có liên quan khác.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính khách quan và thực tế, đề tài đã sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, trên cơ sở thu thập thơng tin từ các
nguồn như: Báo chí, internet, truyền hình... Từ đó, làm sáng tỏ những vấn đề
cần nghiên cứu trong đề tài.
6. Bố cục luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại trong pháp
luật lao động.
Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về bồi thường
thiệt hại và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bồi thường thiệt hại.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại trong lao động
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại trong lao động
Theo Từ điển tiếng Việt thì thiệt hại là “bị mất mát về của cải, vật chất
hoặc tinh thần” [33]. Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ thiệt hại được hiểu là
“tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ
chức được pháp luật bảo vệ”. Khoản 1 Điều 361 Bộ luật dân sự năm 2015
quy định: “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần”.
Thiệt hại có thể phân làm hai loại là thiệt hại về vật chất và thiệt hại về
tinh thần. Thiệt hại về vật chất gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Thiệt hại về tinh thần gồm tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc
do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích nhất của nạn nhân phải chịu
đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị
bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... và cần phải được bồi thường một khoản tiền
bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp

nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức)
được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất
đi sự tín nhiệm, lịng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
Mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã
hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp

7


pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây
tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của
mình gây ra. Sự gánh chịu hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người
khác được hiểu là bồi thường thiệt hại (BTTH).
Bồi thường thiệt hại (BTTH) có nghĩa là trả lại tương xứng giá trị hoặc
cơng lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể khác.
Việc bồi thường thiệt hại (BTTH) này có thể vơ hình (xin lỗi) hoặc hữu hình
(bồi thường bằng tiền, bằng vật chất khác, …) có thể do các quy định của
pháp luật điều tiết, hoặc do thỏa thuận giữa các chủ thể. Qua đó, chủ thể bị
thiệt hại được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Những quyền và lợi ích hợp
pháp này có thể bao gồm quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn góp trong doanh nghiệp,...
Quyền và lợi ích hợp pháp cũng có thể bao gồm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự. Những quyền này được bảo vệ thông qua các quy định của nhiều
ngành luật khác nhau như: luật dân sự, luật hình sự, luật lao động, luật thương
mại, … Thông qua các quy định này, nhà nước đảm bảo rằng các chủ thể có
hành vi gây thiệt hại có nghĩa vụ bồi thường, khắc phục hậu quả của những
hành vi mình gây ra đối với các chủ thể bị thiệt hại.
Trong pháp luật dân sự thì vấn đề BTTH được xem là lĩnh vực đặc

trưng của luật dân sự, tuy nhiên đây là chế định có phạm vi rộng, liên quan
đến nhiều loại quan hệ pháp luật khác nhau. Khi có thiệt hại xảy ra sẽ đồng
thời phát sinh quyền lợi và nghĩa vụ của người gây thiệt hại, người bị thiệt hại
và các chủ thể khác có liên quan. Vấn đề giải quyết BTTH và trách nhiệm
BTTH trong quan hệ dân sự được nhà nước quy định cụ thể, rõ ràng.
Trong pháp luật lao động, vấn đề bồi thường thiệt hại phát sinh khi
quyền, lợi ích của các bên trong quan hệ lao động bị xâm phạm đến, bởi khi

8


thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, người lao động (NLĐ) khó có thể
tránh khỏi những thiếu sót gây thiệt hại cho người sử dụng lao động
(NSDLĐ) hoặc NSDLĐ vì một lý do nào đó như lợi nhuận mà vi phạm những
thỏa thuận trong hợp đồng lao động (HĐLĐ) gây ra thiệt hại NLĐ.
Trong giáo trình Luật lao động của Đại học Luật Hà Nội không đưa ra
một định nghĩa toàn diện về BTTH trong pháp luật lao động mà chỉ đưa ra
định nghĩa về bồi thường thiệt hại về vật chất trong quan hệ lao động, một
trường hợp của BTTH trong lao động như sau:
Bồi thường thiệt hại về vật chất trong quan hệ lao động là nghĩa vụ
của người lao động phải bồi thường những thiệt hại về tài sản cho
NSDLĐ do hành vi vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm hợp đồng
trách nhiệm gây ra [21, tr.336].
Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí thì:
Bồi thường thiệt hại trong luật lao động là một loại trách nhiệm pháp
lý phát sinh khi một bên trong quan hệ lao động có hành vi vi phạm
nghĩa vụ, gây thiệt hại cho bên kia nhằm khơi phục tình trạng tài sản,
bù đắp tổn thất về tinh thần, sức khỏe cho người bị thiệt hại [3, tr.45].
Trong các quan hệ được pháp luật lao động điều chỉnh cũng có thể xảy ra
những hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích của các bên trong quan hệ đó, bởi

khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, NLĐ khó có thể tránh khỏi những sơ
suất, vô ý gây thiệt hại cho NSDLĐ hoặc NSDLĐ vì một lý do nào đó như lợi
nhuận mà vi phạm những thỏa thuận trong HĐLĐ gây ra thiệt hại cho NLĐ.
Để ngăn chặn và khắc phục hậu quả của những hành vi gây ra thiệt hại,
Nhà nước sử dụng các biện pháp khác nhau trong đó BTTH có thể được coi là
một phương tiện pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quan hệ lao động, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao động.
Như vậy, có thể hiểu BTTH trong lao động là một loại trách nhiệm

9


pháp lý phát sinh khi một bên trong quan hệ lao động có hành vi vi phạm
nghĩa vụ thiệt hại cho bên kia nhằm khơi phục tình trạng tài sản, bù đắp về tổn
thất, tinh thần và sức khỏe cho người bị thiệt hại.
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại trong lao động
Bồi thường thiệt hại trong lao động là một loại trách nhiệm pháp lý phát
sinh từ quan hệ lao động nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
như: Do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng; áp dụng đối với chủ thể có
hành vi vi phạm pháp luật; luôn mang đến hậu quả bất lợi cho chủ thể bị áp dụng
và được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước… thì bồi
thường thiệt hại trong lao động cịn mang những đặc điểm riêng sau đây:
- Chủ thể chịu bồi thường thiệt hại
Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là các bên trong quan hệ
lao động, đó là NLĐ và NSDLĐ. Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
trên cơ sở hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hay các thoả thuận
khác, NLĐ khó có thể tránh khỏi những sơ suất, vô ý gây ra thiệt hại về tài
sản cho NSDLĐ và ngược lại NSDLĐ vì mục tiêu của mình hoặc do điều
kiện nào đó khơng thuận lợi mà khơng đảm bảo an tồn, vệ sinh lao động gây
thiệt hại cho NLĐ về tính mạng, sức khoẻ.

- Bồi thường thiệt hại gắn liền với quan hệ lao động, phát sinh trong
quan hệ lao động
Bồi thường thiệt hại trong lao động phát sinh trên cơ sở tồn tại một qan
hệ lao động, dưới hình thức là một hợp đồng lao động. Tức là điều chỉnh quan
hệ lao động giữ NLĐ làm công ăn lương với NSDLĐ trên cơ sở thuê mướn và
trả công sức lao động theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác và đame
bảo quyền, lợi ích của các bên.
- Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường:
Bồi thường thiệt hại trong lao động chỉ được đặt ra khi thỏa mãn các

10


điều kiện nhất định như: Có thiệt hại xảy ra; có hành vi vi phạm pháp luật lao
động gây thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và sự
thiệt hại xảy ra; có lỗi của người vi phạm. Đây là những điều kiện phải chứng
minh khi áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động.
1.1.3. Phân loại bồi thường thiệt hại trong lao động
Phân loại bồi thường thiệt hại trong lao động có nhiều căn cứ, tiêu chí
như: căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm BTTH, căn cứ vào quan hệ làm phát
sinh quan hệ BTTH, căn cứ vào thiệt hại xảy ra ...
- Căn cứ vào chủ thể bồi thường thiệt hại
Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có ba loại:
Bồi thường do NLĐ thực hiện khi NLĐ có hành vi vi phạm nội quy,
quy định của NSDLĐ hoặc vi phạm HĐLĐ gây thiệt hại cho NSDLĐ.
Bồi thường do NSDLĐ thực hiện, phát sinh khi NLĐ bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp hoặc vi phạm HĐLĐ gây thiệt hại cho NLĐ;
Bồi thường thiệt hại do người thứ ba gây ra. Đây là trách nhiệm của cá
nhân, cơ quan có thẩm quyền khi có hành vi trái với quy định của pháp luật
gây ra thiệt hại cho các chủ thể trong quan hệ lao động. Dù không trực tiếp

tham gia vào các quan hệ lao động nhưng các cơ quan này có những hoạt
động có liên quan đến quan hệ lao động và khi gây thiệt hại trong một số
trường hợp cũng phải bồi thường thiệt hại theo quy định của luật lao động và
các ngành luật khác.
- Căn cứ quan hệ làm phát sinh quan hệ bồi thường
Quan hệ làm phát sinh quan hệ bồi thường có hai loại: phát sinh trong
quan hệ lao động và phát sinh trong các quan hệ khác.
Bồi thường phát sinh trong quan hệ lao động là trách nhiệm bồi thường
do hành vi vi phạm gây thiệt hại liên quan đến quan hệ lao động như hành vi
chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, hành vi vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt
hại cho NSDLĐ.

11


Bồi thường phát sinh trong các quan hệ khác là trách nhiệm bồi thường
do hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại nhưng không phải trong quan hệ lao
động mà trong các quan hệ khác có liên quan tới quan hệ lao động, ví dụ như
trong học nghề.
- Căn cứ vào ý chí của các bên trong quan hệ lao động
Căn cứ vào ý chí của các bên trong quan hệ lao động, các bên có thể
bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của hai bên,
trong đó:
Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại phát sinh trong những trường hợp được pháp luật quy định
trước. Trên cơ sở các quy định này là căn cứ để tính toán, xem xét việc thực
hiện bồi thường theo những điều kiện nhất định như: thiệt hại xảy ra; mức độ
thiệt hại; ý thức vi phạm; hành vi vi phạm; lỗi…
Bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận của hai bên là trường hợp bồi
thường thiệt hại do các bên trong quan hệ lao động thỏa thuận trước hoặc sau

khi thiệt hại lao động khi xảy ra tai nạn lao động hoặc xảy ra tranh chấp…
- Căn cứ vào thiệt hại xảy ra
Căn cứ vào thiệt hại xảy ra, có thể chia BTTH thành những loại sau:
Bồi thường thiệt hại do chấm dứt hợp đồng trái pháp luật: Khi giao kết
HĐLĐ, các bên có quyền tự do thỏa thuận các yêu cầu, nội dung theo ý chí
của mình trên cơ sở quy định của pháp luật. Nhưng sau khi HĐLĐ đã có hiệu
lực thì nội dung của hợp đồng lại ràng buộc quyền, nghĩa vụ các bên; mỗi bên
tham gia vào trong quan hệ lao động phải tuân thủ những thoả thuận mà họ đã
cam kết. Do đó, bên nào có hành vi vi phạm HĐLĐ gây ra thiệt hại sẽ phải có
nghĩa vụ bồi thường cho bên kia theo những nội dung mà mình đã thoả thuận
căn cứ vào mức độ thiệt hại, hành vi vi phạm gây thiệt hại, yếu tố lỗi và trong
một số trường hợp cịn có thể căn cứ vào điều kiện kinh tế của bên gây thiệt
hại nhất là NLĐ trong quan hệ lao động để thực hiện việc bồi thường.

12


Bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe: Là trách nhiệm của
NSDLĐ đối với NLĐ khi xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong quá
trình sử dụng sức lao động ảnh hưởng tới tính mạng, sức khoẻ của NLĐ. Pháp
luật đưa ra các quy định bắt buộc để đảm bảo an toàn, vệ sinh trong lao động;
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho NLĐ nhằm ngăn ngừa, hạn chế các rủi ro,
phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Bồi thường thiệt hại về tài sản: Là trách nhiệm bồi thường thiệt hại chủ
yếu của NLĐ khi có hành vi vi phạm kỷ luật lao động hoặc thiếu tinh thần
trách nhiệm trong thực hiện công việc gây ra làm tổn thất, hư hỏng, mất mát
về tài sản của NSDLĐ. Quy định này nhằm đảm bảo và tăng cường kỷ luật
lao động trong đơn vị; nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật lao động đối với
NLĐ. Đồng thời, cũng đảm bảo quyền sử dụng hợp pháp đối với vốn và tài
sản trong doanh nghiệp.

1.1.4. Phân biệt bồi thường thiệt hại trong luật lao động với bồi
thường thiệt hại trong luật dân sự
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh
Pháp luật dân sự điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản của cá
nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự
do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan
hệ dân sự) thì pháp luật lao động điều chỉnh quan hệ lao động giữa NLĐ làm
công ăn lương với NSDLĐ và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan
hệ lao động, trong đó quan hệ lao động được coi là nền tảng, tiền đề của nhiều
quan hệ khác có liên quan.
Các quan hệ lao động có được thiết lập dưới hình thức hợp đồng lao
động. Mặc dù đều là mối quan hệ thiết lập trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện,
bình đẳng nhưng điểm khác biệt cơ bản giữa HĐLĐ với hợp đồng dân sự là ở
chỗ đối tượng của HĐLĐ khơng phải hàng hóa, dịch vụ thông thường mà là

13


việc làm, là sức lao động, đó được coi là một thứ hàng hóa đặc biệt trong nền
kinh tế thị trường. Việc ký kết hợp đồng lao động gắn liền với tư cách cá
nhân, có tính chất đích danh nên các chủ thể không thể chuyển giao quyền và
nghĩa vụ lao động của họ cho người khác [11, tr.33].
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động chỉ phát sinh trên cơ sở
quan hệ lao động, dưới hình thức HĐLĐ. Trách nhiệm BTTH trong pháp luật
dân sự không chỉ dựa trên quan hệ dân sự (hợp đồng dân sự) mà có thể phát
sinh từ hành vi gây thiệt hại ngồi hợp đồng, có nghĩa là giữa các bên khơng
cần tồn tại một quan hệ hợp đồng nào cả cũng có thể phát sinh trách nhiệm
BTTH nếu như hành vi đó trái pháp luật và gây thiệt hại cho chủ thể khác.
Mặt khác, chủ thể trong quan hệ BTTH trong pháp luật lao động chỉ có thể là
NLĐ, NSDLĐ trong khi đó chủ thể tham gia quan hệ BTTH trong pháp luật

dân sự có thể là cá nhân, tổ chức bất kỳ thỏa mãn điều kiện của Luật Dân sự.
Thứ hai, về chế độ bồi thường thiệt hại
Xuất phát từ những đặc trưng nêu trên nên vấn đề BTTH trong quan hệ
lao động cũng mang những nét tương đồng và khác biệt so với BTTH trong quan
hệ dân sự. Phát sinh trong quan hệ hợp đồng gắn liền với hành vi vi phạm và lỗi
của người vi phạm là những đặc điểm chung của BTTH trong tất cả các ngành
luật. Bên cạnh đó, BTTH trong quan hệ lao động cịn có một số điểm khác biệt
so với trách nhiệm BTTH trong các quan hệ khác. Cụ thể như sau:
- BLLĐ năm 2019 được ban hành với rất nhiều quy định được sửa đổi,
bổ sung theo hướng bảo vệ quyền lợi của NLĐ, đề cao quyền con người.
Thông thường, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH theo quy định của luật lao
động cũng như trong Luật dân sự đều đòi hỏi bốn yếu tố: Hành vi vi phạm;
thiệt hại về tài sản; quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại xảy ra
và có lỗi của người vi phạm.
Tuy nhiên, căn cứ để xác định hành vi vi phạm trong Luật lao động chỉ

14


bao gồm các cam kết trong hợp đồng, quy định của pháp luật mà còn là quy
định trong nội quy đơn vị sử dụng lao động. Đặc biệt là khi NSDLĐ áp dụng
trách nhiệm vật chất đối với NLĐ, nếu khơng có nội quy lao động quy định
trước thì NSDLĐ không thể áp dụng trách nhiệm vật chất với NLĐ mặc dù có
thể NLĐ có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho NSDLĐ. Đây là quy định thể
hiện nguyên tắc đặc thù của Luật lao động là bảo vệ NLĐ.
- Trong trách nhiệm bồi thường do vi phạm Luật dân sự hầu như tất cả
các trường hợp thì lỗi cố ý hay vô ý đều không ảnh hưởng đến việc xác định
trách nhiệm cũng như mức độ BTTH. Còn đối với quan hệ BTTH trong Luật
lao động thì việc xác định lỗi cố ý hay vố ý có ảnh hưởng lớn đến việc xác
định trách nhiệm BTTH. Trừ một số trường hợp cụ thể Luật lao động quy

định khi khơng có yếu tố lỗi nhưng NSDLĐ vẫn phải bồi thường cho NLĐ.
Thứ ba, về nguyên tắc bồi thường
Nguyên tắc BTTH theo quy định của Luật lao động có sự khác biệt cơ
bản so với các quy định của Luật dân sự. Trong quan hệ dân sự thì chủ thể
gây thiệt hại trái pháp luật phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra,
bao gồm cả những thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp, trong khi đó BLLĐ
quy định người gây thiệt hại có thể bồi thường một phần thiệt hại hoặc toàn
bộ thiệt hại. Đồng thời, người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường những thiệt
hại trực tiếp từ hành vi vi phạm của mình chứ không phải bồi thường những
thiệt hại gián tiếp.
Thứ tư, về thủ tục áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Về thủ tục áp dụng trách nhiệm BTTH, trong Luật dân sự ngun tắc
có tính xun suốt chỉ đạo trong quá trình giải quyết BTTH là đơn giản,
nhanh gọn, … trong khi thủ tục áp dụng trách nhiệm BTTH trong Luật lao
động lại theo một trình tự phức tạp, trong đó có sự tham gia của tổ chức đại
diện NLĐ. Việc thực hiện trách nhiệm bồi thường cũng có sự đặc biệt, đối với

15


NSDLĐ, nguyên tắc là bồi thường toàn bộ thiệt hại và bồi thường một lần,
cịn đối với NLĐ thì có thể bị trừ dần vào lương hàng tháng với tỷ lệ không
quá 30% lương tháng.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là một bộ phận của
pháp luật lao động. Nó bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội
phát sinh về bồi thường thiệt hại và giải quyết các tranh chấp về bồi thường
thiệt hại trong lao động.

Về phương diện pháp lý, trong quan hệ lao động, khi NLĐ và NSDLĐ
xác lập một quan hệ lao động thì giữa họ xuất hiện quan hệ nghĩa vụ. Nghĩa
vụ này có thể do pháp luật quy định hoặc do các bên tự thỏa thuận với nhau
trong hợp đồng lao động. Do đó, khi một bên vi phạm nghĩa vụ (không thực
hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ) gây thiệt hại cho bên kia về
tính mạng, sức khỏe, tài sản… thì phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi mà
pháp luật đã dự liệu trước đó, đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Như vậy, pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là cơ sở pháp
lý để mọi cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế đều được bình đẳng trong quan
hệ lao động. Đối với NLĐ, bồi thường thiệt hại giúp bảo đảm về quyền và lợi
ích cho bản thân NLĐ và gia đình họ khi tham gia vào quan hệ lao động. Nội
dung của pháp luật về BTTH trong lao động bao gồm tổng thể các quy định
của pháp luật có liên quan như: Các trường hợp BTTH trong lao động; căn cứ
áp dụng trách nhiệm BTTH trong lao động…
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động
Nguyên tắc BTTH trong pháp luật lao động được hiểu là những tư
tưởng chỉ đạo có tính chất bắt buộc, xuyên suốt các quy phạm pháp luật lao

16


động về BTTH trong các quan hệ pháp luật lao động. Những nguyên tắc này
cũng là những tư tưởng có tính chất định hướng đối với hoạt động giải quyết
tranh chấp về BTTH trong thực tế. Cụ thể là những nguyên tắc sau đây:
- Bồi thường thiệt hại thực tế và kịp thời
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết vấn đề
BTTH nói chung, vấn đề BTTH theo Luật lao động nói riêng bởi căn cứ đầu
tiên đề xác định trách nhiệm bồi thường là phải có thiệt hại về tài sản hoặc
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe … về mặt thực tế, để xác định chính xác mức
độ bồi thường nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên.

Trong quan hệ pháp luật lao động, khi một bên gây thiệt hại cho bên
kia về tài sản, tính mạng, sức khỏe, bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu được bồi
thường theo đúng những thiệt hại thực tế mà họ phải gánh chịu. Nghĩa là bên
gây thiệt hại làm tổn hại, mất mát, hư hỏng hoặc giảm sút về giá trị vật chất ở
mức độ nào thì phải bồi thường theo thời giá trị trường những thiệt hại thực tế
mà tại thời điểm xảy ra thiệt hại đã xác định. Việc xác định ngun tắc bồi
thường này nhằm đảm bảo tính cơng bằng của pháp luật, tạo niềm tin cho mọi
công dân về công lý và công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong trường hợp NLĐ
bị thiệt hại sức khỏe, tính mạng, việc xác định mức thiệt hại thực tế rất khó
chính xác. Do đó, việc bồi thường của NSDLĐ trong trường hợp này chỉ là
một biện pháp nhằm bảo vệ người lao động trong quan hệ lao động như: Bố
trí việc làm phù hợp; trả lương trong thời gian điều trị tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp; bồi thường theo mức luật định …
Cũng theo nguyên tắc này, việc giải quyết bồi thường theo Luật lao
động cần được thực hiện nhanh chóng, kịp thời. Có như vậy mới kịp thời khơi
phục các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bên bị thiệt hại. Bồi
thường kịp thời có ý nghĩa to lớn trong việc giúp người bị thiệt hại nhanh
chóng khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống hay sản xuất, đặc biệt đối với

17


những trường hợp BTTH về sức khỏe đối với người bị tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp – là những người gặp khó khăn do mất thu nhập và phải
điều trị thương tật. Nguyên tắc bồi thường nhanh chóng, kịp thời đối với các
thiệt hại cịn thể hiện tính chất dân chủ và cơng bằng. Trên cơ sở đó tạo cho
bên gây thiệt hại ý thức trách nhiệm và tơn trọng quyền lợi của phía bên kia.
- Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi của
người gây thiệt hại
Lỗi được xem là thước đo của trách nhiệm pháp lý, nó là kết quả của sự

tự lựa chọn và quyết định của một chủ thể trong khi chủ thể đó có đủ điều
kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn một xử sự khác phù hợp hơn với
yêu cầu của xã hội. Nhưng vì chủ thể đã lựa chọn và thực hiện hành vi gây
thiệt hại nên chủ thể đó sẽ bị coi là có lỗi trong hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại của mình. Lỗi trong trách nhiệm BTTH của pháp luật lao động cũng như
trong Luật dân sự được chia làm hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý là lỗi
của một bên nhận thức rõ hành vi của mình vi phạm pháp luật lao động và sẽ
gây thiệt hại cho phía bên kia mà vẫn thực hiện dù mong muốn hoặc khơng
mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho thiệt hại xảy ra. Lỗi vô ý là lỗi của
một bên không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại
cho bên kia dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra nhưng cho
rằng thiệt hại sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Tuy nhiên pháp luật lao động với điểm đặc thù là bảo vệ NLĐ nên
những quy định về chế độ BTTH sẽ có nhiều điểm khác biệt so với các ngành
luật khác. Trong một số trường hợp người sử dụng lao động dù khơng có lỗi
nhưng về ngun tắc vẫn phải bồi thường cho NLĐ hoặc có trường hợp NLĐ
vi phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại nhưng NSDLĐ không thể áp dụng
trách nhiệm vật chất đối với họ.

18


- Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào khả năng
kinh tế, ý thức, thái độ của người gây thiệt hại
Thông thường, khi xác định trách nhiệm BTTH theo pháp luật lao động
cần dựa trên các căn cứ luật định đề xác định mức bồi thường của bên gây
thiệt hại. Tuy nhiên, không phải bao giờ bên gây thiệt hại cũng phải bồi
thường toàn bộ những thiệt hại do mình gây ra. Trong thực tế, trách nhiệm bồi
thường cịn được xác định dựa vào hồn cảnh kinh tế của bên gây thiệt hại.
Nguyên tắc này được khuyến khích áp dụng đối với trách nhiệm bồi thường

theo pháp luật lao động do xuất phát từ tính chất xã hội của quan hệ lao động.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong trường hợp người phải bồi thường là NLĐ,
bởi họ là người khơng có khả năng về tiền bạc, là người làm thuê, bán sức lao
động để có thu nhập ni sống bản thân và gia đình.
Mặt khác, nếu người gây thiệt hại đã thấy được lỗi của mình và tỏ ra ăn
năn, hối lỗi thì trách nhiệm bồi thường cũng không nên xác định quá nghiêm
khắc nhằm tạo cơ hội để tự ý thức được trách nhiệm, điều chỉnh hành vi khi
tham gia quan hệ pháp luật lao động. Điều này cịn có tác dụng làm dịu đi
những bất đồng giữa các bên trong quan hệ lao động, giúp cho các bên thân
thiện hơn nếu tiếp tục hợp tác với nhau.
- Bồi thường toàn bộ, kịp thời, ngang giá hoặc bồi thường một phần
thiệt hại gây ra
Trách nhiệm BTTH vừa theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ, kịp thời,
ngang giá những thiệt hại xảy ra, vừa theo nguyên tắc bồi thường một phần
thiệt hại xảy ra. Thơng thường, nếu bên bồi thường là NSDLĐ thì thường áp
dụng theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại theo thời giá thị trường;
ngược lại, bên bồi thường là NLĐ thì mức bồi thường có thể là một phần hoặc
toàn bộ thiệt hại tùy từng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, trong quan hệ lao
động, pháp luật chỉ quy định trường hợp BTTH về tính mạng, sức khỏe cho

19


×