Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

(Khóa luận tốt nghiệp) Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.49 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM
----------------------

TỊNG THỊ KIM
NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC
CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI XÃ PHÚ XUYÊN,
HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGHUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Chính quy

Chun ngành : NLKH
Khoa

: Lâm Nghiệp

Khóa

: 2016 - 2020

Thái Nguyên, năm 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM
----------------------

TỊNG THỊ KIM


NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA SỬ DỤNG CÂY THUỐC
CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI XÃ PHÚ XUYÊN,
HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Chính quy

Chun ngành

: NLKH

Lớp

: K48 - NLKH

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2016 - 2020

Giảng viên hướng dẫn : TS. Đặng Kim Tuyến

Thái Nguyên, năm 2020



i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của bản thân
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hồn
tồn trung thực, chưa cơng bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tơi xin chịu trách
nhiệm hoàn toàn.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 06 năm 2020
XÁC NHẬN CỦA GVHD

Đặng Kim Tuyến

NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thu Hiền

Tòng Thị Kim

Xác nhận của giáo viên chấm phản biện
Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa sai sót sau khi
hội đồng chấm yêu cầu.
(Ký, ghi rõ họ tên)


ii

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Nhà trường, Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, sau 5 tháng thực tập em đã hồn thành khóa
luận tốt nghiệp “Nghiên cứu tri thức bản địa sử dụng cây thuốc của đồng

bào dân tộc thiểu số tại xã Phú Xuyên, Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên”.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản
thân cịn có sự hướng dẫn tận tình của thầy cơ, bạn bè, cô chú, anh chị tại địa
bàn xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
Xin cảm ơn hai cô giáo – TS. Đặng Kim Tuyến, TS. Nguyễn Thị Thu
Hiền, người đã hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực tập đã chỉ dẫn,
định hướng đi cho em để em hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xin cảm ơn sự giúp đỡ
của cán bộ Ủy ban Nhân dân xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
và cán bộ Kiểm lâm Khu bảo tồn thiên nhiên Đại Từ, cùng sự chỉ bảo tận tình
của các thầy lang, bà mế thuộc xã Phú Xuyên.
Đồng thời xin cảm ơn thầy cô giáo Khoa Lâm nghiệp, các bộ phận liên
quan thuộc Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và người thân trong gia
đình cùng bạn bè thân thiết đã giúp đỡ tơi trong q trình hồn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, tuy nhiên do hạn chế về kinh nghiệm cũng
như về thời gian và trình độ nghiên cứu nên khóa luận tốt nghiệp khơng thể
tránh khỏi thiếu sót. Tơi rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của
thầy cô cũng như các bạn đọc khác để khóa luận được hồn thiện hơn nữa.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 30 tháng 06 năm 2020
Sinh viên
Tòng Thị Kim


iii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Mẫu bảng điều tra nguồn cây thuốc được cộng đồng một số dân tộc
thiểu số ở khu vực nghiên cứu sử dụng trong phòng và điều trị bệnh .. Error!
Bookmark not defined.

Bảng 4.1. Số loài cây thuốc đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu .................... 27
Bảng 4.2. Số lượng họ, chi, loài thuộc hai lớp trong ngành Ngọc lan............ 28
Bảng 4.3. Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ........................... 30
Bảng 4.4. Các họ đa dạng nhất ở khu vực nghiên cứu ................................... 31
Bảng 4.5. So sánh các họ có nhiều lồi cây thuốc ở khu vực nghiên cứu (1)
với số loài của từng họ trong hệ thực vật Việt Nam (2) ........................ 32
Bảng 4.6. Đa dạng về dạng sống của nguồn cây thuốc ở khu vực nghiên cứu..... 33
Bảng 4.7. Sự phân bố nguồn cây thuốc theo môi trường sống ở khu vực
nghiên cứu .............................................................................................. 35
Bảng 4.8. Danh lục cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ghi nhận ..................... 37
Bảng 4.9. Đa dạng của các bộ phận cây được sử dụng làm thuốc.................. 40
Bảng 4.10. Tỷ lệ số lồi có cơng dụng chữa các nhóm bệnh cụ thể ............... 42
Bảng 4.11. Danh sách cây thuốc được cả 2 dân tộc Nùng, Dao tại xã Phú
Xuyên sử dụng ....................................................................................... 44
Bảng 4.12. Số lượng thầy thuốc được phỏng vấn theo từng dân tộc ở KVNC ..... 46
Bảng 4.13. Tỷ lệ về độ tuổi và giới tính của các thầy thuốc ở KVNC ........... 46
Bảng 4.14. Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ cây Mã tiền lông và cây
Vẩy ốc .................................................................................................... 48


iv

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1: Các dụng cụ sử dụng cho nghiên cứu trong đề tài .......................... 23
Hình 4.1: Hình ảnh một số loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu .................. 29
Hình 4.2: Tỷ lệ nhóm bệnh chữa trị từ nguồn cây thuốc theo kinh nghiệm sử
dụng trong cộng đồng dân tộc……………………………………………...46
Hình 4.3: Hoạt tính ức chế E. coli và S. aureus của cây Mã tiền lông và cây
Vẩy ốc…………………………………………………………………….....49



v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký hiệu

Cụm từ đầy đủ

(1)

Dân tộc Nùng

(2)

Dân tộc Dao

Cc

Cả cây

Ha,Ho

Quả, hoa

HTKK

Hoạt tính kháng khuẩn

KBT


Khu bảo tồn

KVNC

Khu vực nghiên cứu

KH&CN

Khoa học & công nghệ

L



Lp

Dây leo

Me

Cây gỗ trung bình

Mi

Cây gỗ nhỏ

Na

Cây bụi


NCTN & MT

Nghiên cứu tài ngun & mơi trường

NĐ - CP

Nghị định Chính phủ

R

Rễ

R

Sống ở rừng

ST & TNSV

Sinh thái & tài nguyên sinh vật

Th

Thân thảo/thân

UBND

Ủy ban nhân dân

V


Vỏ

Vs

Sống ven sông ven suối

Vu

Sống ở vườn


vi

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................................. iii
DANH MỤC CÁC HÌNH ................................................................................ iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... v
PHẦN 1. MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài ................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học .................................................................................... 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 2
PHẦN 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................... 3
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu...................................................... 3
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ..................................... 3
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới....................... 3
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước ..................... 7
2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu................................................................ 17

2.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu ................................................ 17
2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu ..................................... 19
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP . 20
NGHIÊN CỨU............................................................................................... 20
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 20
3.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 20
3.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 21
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................... 27


vii

4.1. Đa dạng các bậc taxon nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong
cộng đồng các dân tộc thiểu số xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên ............................................................................................................ 27
4.1.1. Đa dạng các bậc taxon .......................................................................... 27
4.1.2. Đa dạng về dạng sống của thực vật làm thuốc...................................... 33
4.1.3. Đa dạng về môi trường sống của thực vật làm thuốc ........................... 35
4.2 Những cây thuốc thuộc diện cần bảo tồn ở Việt Nam đã ghi nhận được tại
xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh thái Nguyên ............................................. 37
4.3. Vốn tri thức bản địa trong việc sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc
thiểu số ở xã Phú Xuyên, Huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên ........................ 39
4.3.1. Kinh nghiệm sử dụng bộ phận làm thuốc của cộng đồng dân tộc thiểu
sốở xã Phú Xuyên ........................................................................................... 39
4.3.2. Kinh nghiệm về nhóm bệnh chữa trị của cộng đồng dân tộc thiểu số ở
xã Phú Xuyên .................................................................................................. 42
4.3.3. Ảnh hưởng của sự giao thoa giữa các dân tộc đến vốn tri thức bản địa
trong việc sử dụng cây thuốc ở xã Phú Xuyên ............................................... 44
4.3.4 Vấn đề truyền thụ kiến thức về cây thuốc trong cộng đồng các dân tộc ở
xã Phú Xuyên .................................................................................................. 45

4.4. Đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của một số loài cây thuốc được sử dụng
trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở khu vực nghiên cứu .......................... 47
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................... 50
5.1. Kết luận .................................................................................................... 50
5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 53
PHỤ LỤC


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi, là nơi có nguồn tài
nguyên cây thuốc đa dạng và là nơi cư trú của 54 dân tộc mà phần lớn là dân
tộc thiểu số với khoảng 24 triệu người, chiếm hơn 1/3 dân số quốc gia (Trần
Thúy và cs., 2005) [21]. Chính sự đa dạng về dân tộc người cùng với sự khác
biệt về điều kiện, thổ nhưỡng, khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa từng cộng
đồng dân tộc thiểu số đã tạo nên sự đa dạng và phong phú trong vốn tri thức
dân gian về kinh nghiệm sử dụng cây cỏ xung quanh mình làm cây thuốc
chữa bệnh.
Đại Từ là huyện có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng so
với các huyện khác của tỉnh Thái Ngun. Huyện Đại Từ có diện tích rừng là
24.469 ha chiếm khoảng 23.94% tổng diện tích rừng tồn tỉnh, chủ yếu là
rừng hệ thứ sinh. Hệ sinh thái ở Đại Từ còn tương đối tốt, nhiều động thực vật
quý hiếm còn tồn tại đặc biệt là ở vùng cao Quân Chu , Phúc Lương, Phục
Linh, Quân Chu, Tân Linh, Tân Thái và Phú Xuyên. Huyện Đại Từ có 30 đơn
vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn và 28 xã. Người dân ở đây
chủ yếu là các đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán

Dìu ,Thái, Hoa . Trong đó đời sống người Sán Dìu và người Dao có quan hệ
mất thiết với tài nguyên thiên nhiên. Mỗi dân tộc lại mang bản sắc và kinh
nghiệm chữa bệnh bằng thực vật làm thuốc rất đa dạng. Trong đó, cộng đồng
dân tộc thiểu số ở xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cũng có
nhiều kinh nghiệm độc đáo về việc chữa bệnh bằng cây thuốc. Tuy nhiên,
hiện nay tình trạng khai thác tài nguyên rừng (Cây thuốc, cây cảnh, rau
rừng,…) của người dân địa phương bán cho các khách du lịch, tham quan dẫn
đến nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng bị suy giảm. Mặt khác những bài


2

thuốc được cộng đồng dân tộc thiểu số sử dụng từ lâu đời trong việc phòng và
trị một số bệnh nhưng hoạt tính sinh học và cơ sở khoa học của các bài thuốc
chưa được nghiên cứu, chứng minh bằng con đường khoa học. Vì vậy, để
cung cấp các cơ sở khoa học góp phần bảo vệ nguồn gen cây thuốc, bảo tồn
và phát triển các bài thuốc của một số cộng đồng dân tộc thiểu số tại xã Phú
Xuyên, huyện Đại Từ, tôi đề xuất ý tưởng đề tài: “Nghiên cứu tri thức bản
địa sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Đánh giá được tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh
nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao,Nùng tại xã Phú
Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
- Đánh giá được hoạt tính kháng khuẩn của một số lồi cây thuốc có giá
trị cao được của cộng đồng dân tộc Dao,Nùng tại xã Phú Xuyên, huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên sử dụng trong phòng và trị bệnh.
- Xác định được những cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam,
hiện có ở khu vực nghiên cứu.
1.3. Ý nghĩa của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Xác định được tri thức bản địa sử dụng các loài cây thuốc của cộng
đồng dân tộc tại xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định được hoạt tính kháng khuẩn của một số lồi cây thuốc có giá
trị cao tại khu vực nghiên cứu.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả thu được sẽ là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất công tác bảo
tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc của của cộng đồng dân tộc tại xã Phú
Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.


3

PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Phòng và chữa bệnh bằng các loài thảo dược đã được con người sử
dụng từ hàng ngàn năm nay. Nó vẫn đang tồn tại và ngày càng phát triển
mạnh mẽ. Hàng năm, con người đã tìm ra được những hoạt chất q trong các
lồi thảo dược có thể phịng và chữa trị được những căn bệnh từ đơn giản
hàng ngày như cảm cúm, ho sốt đến những căn bệnh nan y như ung thư, bệnh
tim, suy thận,... hay những căn bệnh nhiệt đới nguy hiểm như dịch cúm A
H5N1, H1N1,... Các cây thuốc và bài thuốc có được nhờ kinh nghiệm tích lũy
qua nhiều thế hệ giờ đây đang dần mất đi theo thời gian. Do đó việc gìn giữ
vốn kiến thức q báu trong việc sử dụng cây thuốc và bài thuốc từ thảo dược
là việc hết sức cần thiết. Theo tổ chức y tế thế giới WHO, khoảng 80% dân số
hiện nay trên thế giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm
sóc sức khỏe cộng đồng (Nguyễn Hồng Sơn, 2014) [51]. Trong tuyên ngôn
Alma Ata năm 1978 và “Hướng dẫn đánh giá y học cổ truyền” năm 1991,
WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ truyền vào chăm sóc sức khỏe ban

đầu (Nguyễn Hoàng Sơn, 2014) [51]. Vậy, nghiên cứu về các loài cây thuốc
là hết sức cần thiết cho việc bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc và bài
thuốc cho thế hệ hôm nay và mai sau.
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới
Tổ tiên loài người từ khi xuất hiện đã gắn bó với thiên nhiên, trải qua
q trình đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật để sinh tồn. Trong q trình
đó, tổ tiên chúng ta ngay từ khi còn là các tộc người đã sớm phát hiện ra
những cây cỏ trong tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc, đồng thời trong cuộc


4

sống lao động, đấu tranh với bệnh tật đã sáng tạo ra những bài thuốc và
phương pháp chữa bệnh.
Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về sử dụng cây thuốc cho
mục đích chữa bệnh của người dân bản địa ở các khu vực, các quốc gia được
các nhà khoa học thực hiện trên khắp các châu lục trên thế giới:
Ở Châu Á:
Châu Á là châu lục có nhiều dân tộc bản địa sinh sống, với vốn tri
thức bản địa về việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc phong phú và đa
dạng, đã có những nghiên cứu cụ thể ở các cộng đồng người, các khu vực
khác nhau như:
Arshad Abbasi và cs. (2012) [37] khi thẩm định về thực vật học và các
giá trị văn hóa của các loại rau ăn được hoang dã quan trọng trong y học
của Lesser dãy Hymalaya đã ghi nhận 45 loại rau ăn được hoang dã thuộc
38 chi và 24 họ đã được người dân sử dụng để điều trị các bệnh khác nhau
và tiêu thụ.
Auemporn Junsongduang và cs. (2013) [38] nghiên cứu về cây thuốc từ
nương rẫy và rừng thiêng của dân tộc Karen và Lawa ở Thái Lan đã chỉ ra

365 loài thực vật thuộc 244 chi và 82 họ được sử dụng làm thuốc, trong đó
các cây thuộc họ Euphorbiaceae và Lauraceae được người dân sử dụng
nhiều nhất.
Homervergel G. Ong và Young - Dong Kim (2014) [49] nghiên cứu về
thực vật học định lượng của các cây thuốc được sử dụng bởi các nhóm bản
địa Ati Negrito ở đảo Guimaras, Philippin đã tìm thấy 142 lồi cây dược liệu
thuộc 55 họ được sử dụng trong 16 loại bệnh.
Dol Luitel và cs. (2014) [44] khi nghiên cứu cây thuốc được sử dụng
bởi cộng đồng người Tamang ở quận Makawanpur của Trung tâm Nepal đã


5

tìm thấy 161 lồi thực vật thuộc 144 chi và 86 họ đã được người dân sử dụng
để điều trị các loại bệnh khác nhau.
Ở Châu Âu: Y học dân gian châu Âu có một lịch sử lâu dài, những tri
thức dân gian bản địa được truyền lại cho các thế hệ sau bằng việc ghi chép
lại và thông qua truyền miệng qua nhiều thế kỉ. Những năm gần đây, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về việc sử dụng các loài thực vật để
điều trị các loại bệnh của người dân bản địa được thực hiện:
Behxhet Mustafa và cs. (2012) [40] nghiên cứu về các loài thực vật
được sử dụng làm thuốc của dãy núi Alps Albania ở Kosovo đã ghi nhận 98
loài thực vật thuộc 39 họ được người dân sử dụng để điều trị các loại bệnh
khác nhau, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các họ
Rosaceae, Asteraceae và Lamiaceae.
Gorka Menedez-Baceta và cs. (2014) [48] nghiên cứu về cây dược liệu
truyền thống được sử dụng ở phía Tây Bắc của xứ Basque, bán đảo Iberia đã
chỉ ra 139 loài thực vật thuộc 58 họ được người dân sử dụng để điều trị bệnh,
trong đó các cây được sử sụng nhiều nhất thuộc họ Asteraceae.
Ở Châu Mĩ:

Việc nghiên cứu về việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa cũng
được thực hiện:
Cecilia Almeida và cs. (2006) [42] nghiên cứu cây thuốc phổ biến được
sử dụng trong các khu vực Xingo – một khu vực khô hạn ở Đông Bắc Brazil
đã tìm thấy 187 lồi thực vật thuộc 128 chi và 64 họ được người dân sử dụng
để điều trị các bệnh: cảm lạnh thông thường, viêm phế quản, bệnh tim mạch,
bệnh thận, viêm và an thần.
Gabriele Volpato và cs. (2009) [46] nghiên cứu sử dụng cây thuốc của
người nhập cư Haiti và con cháu của họ ở tỉnh Camaguey, Cuba đã chỉ ra 123


6

loài thực vật thuộc 112 chi và 63 họ được người nhập cư Haiti sử dụng để
điều trị các bệnh khác nhau.
Gaia Luziatelli và cs. (2010) [47] nghiên cứu cây thuốc của cộng đồng
Ashaninka (một nghiên cứu từ các cộng đồng bản địa của Bajo Quimiriki,
Junin, Peru đã tìm thấy 402 loài thực vật được cộng đồng sử dụng để điều trị
các loại bệnh, trong đó các cây được sử dụng nhiều nhất chủ yếu thuộc các
họ: Asteraceae, Araceae, Rubiaceae, Euphorbiaceae, Solanaceae và
Piperaceae.
Theo nghiên cứu “Thực vật dân tộc của người dân Rayones, Nuevo
León, Mexico” năm 2014, đã ghi nhận 252 loài thực vật thuộc 228 chi và 91
họ được người dân Rayones sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó các họ
được sử dụng chủ yếu là: Asteraceae và Fabaceae (Eduardo Estrada Castillón và cs., 2014) [45].
Ở Châu Phi:
Người dân Châu Phi đã sử dụng cây thuốc bản địa hàng nghìn năm nay
để bảo vệ sức khỏe của họ, những nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng
cây thuốc của những người dân bản địa ở châu Phi rất đa dạng và phong phú
(Cây thuốc Châu Phi, 2013) [36].

Theo nghiên cứu của David J Simbo “Một cuộc khảo sát về các loài
thực vật được sử dụng làm thuốc trong Babungo, khu vực Tây Bắc,
Cameroon”, đã xác định và ghi nhận 107 loài thực vật thuộc 98 chi và 54 họ
được người dân địa phương sử dụng để điều trị các bệnh, trong đó họ được sử
dụng chủ yếu là họ Asteraceae (David J Simbo, 2010) [43].
“Nghiên cứu về thực vật học và kiến thức bản địa về sử dụng cây thuốc
của các thầy lang trong khu vực Oshikoto, Namibia”, đã tìm thấy 61 lồi cây
thuốc thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử dụng để điều trị các


7

bệnh khác nhau như: Tâm thần, nhiễm trùng da, vết thương ngoài da, rắn cắn
và các vấn đề tim mạch (Ahmad Cheikhyoussef và cs., 2011) [36].
Nghiên cứu “cây thuốc được sử dụng bởi phụ nữ từ rừng ven biển
Agnalazaha Đông Nam Madagascar”, đã thống kê được 152 loài cây thuốc
được sử dụng bởi người dân địa phương để điều trị các bệnh, trong đó ghi
nhận 8 lồi được sử dụng bởi những người phụ nữ để điều trị các biến chứng
trong khi sinh, các bệnh nhiệt đới như: sốt rét, giun chỉ và các bệnh liên quan
đến tình dục như bệnh lậu và giang mai.
Nghiên cứu về “sử dụng và quản lý cây thuốc truyền thống của cộng
đồng dân tộc Maale và Ari, ở miền nam Ethiopia”, đã ghi nhận 128 loài cây
thuốc thuộc 111 chi và 49 họ được cộng đồng người Maale và Ari sử dụng để
điều trị các loại bệnh khác nhau (Berhane Kidane và cs., 2014) [41].
Kết quả nghiên cứu về cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền
bởi những người Oromo, quận Ghimbi, Tây Nam Ethiopia đã thống kê được
49 loài cây thuốc thuộc 31 họ và 46 chi được người Oromo sử dụng để điều
trị các loại bệnh khác nhau (Balcha Abera, 2014) [39].
Như vậy, việc điều tra và thống kê các lồi cây thuốc đã để lại
những cơng trình mang tính khoa học, tính dân tộc sâu sắc, cho thấy vốn

tri thức dân gian bản địa về sử dụng cây thuốc trên thế giới là vô cùng đa
dạng và phong phú.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở trong nước
Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ rất lâu đời. Trải qua
hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua các
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật.
Từ những buổi đầu sơ khai, từ khi con người còn sống theo lối ngun thủy,
trong q trình tìm tịi thức ăn, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra công dụng và
tác hại của nhiều loại cây. Suốt một quãng thời gian dài như vậy, tổ tiên


8

chúng ta đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của
các lồi cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh (Trần Thúy và cs.,
2005) [21].
Thế kỷ thứ XI (TCN), Người dân Việt Nam ta có tục ăn trầu cho ấm
người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát và nụ vối cho dễ tiêu,…
điều đó nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc
(Lê Trần Đức, 1997) [9].
Từ xa xưa, thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã biết nấu rượu, biết dùng
Thủy ngân để ướp xác và sử sách đã ghi chép về một lương y tên là Thôi Vỹ
đã biết chữa bệnh lao hạch ở thời An Dương Vương (257 – 207) (Trần Thúy
và cs., 2005) [21].
Thời nhà Lý (1010 – 1221) đã có tổ chức Ty Thái Y chăm lo và bảo vệ
sức khỏe cho nhà vua, có nhiều thầy thuốc chuyên lo việc chữa bệnh cho nhân
dân và phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý liệu pháp phát triển. Trong sử
sách còn ghi lại năm 1136, vua Lý Thần Tông khi bị điên đã được lương y
Nguyễn Chí Thành người Gia Viễn – Ninh Bình dùng tâm lý liệu pháp và tắm
nước Bồ hòn chữa cho khỏi bệnh. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông

(Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc (Trần Thúy và cs., 2005)
[21]. Ở thời này, làng Đại Yên là một làng thuốc nổi tiếng, chuyên trồng và
bán các loại cây thuốc Nam phục vụ công tác chữa bệnh (Viện dược liệu,
1993) [27].
Thời nhà Trần (1224 – 1399), y học cũng khá phát triển, đã có kế hoạch
tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở
Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo – Chí Linh – Hải Dương) để cung cấp
cho quân y (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Nổi bật ở thời này là nhà sư Tuệ Tĩnh
(Nguyễn Bá Tĩnh) – được nhân dân tôn trọng, gọi là “Ơng thánh thuốc Nam”.
Tuệ Tĩnh đã xây dựng 74 ngơi chùa chữa bệnh cho nhân dân không lấy tiền


9

và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ơng là một đại sư nước Việt dùng
thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với
phương châm: “thuốc Nam chữa bệnh người Nam” ông đã truyền bá y dược
cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Thời kỳ
nhà Lê (1428 – 1876) đã có những chủ trương tiến bộ trong việc chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tổ chức Thái Y Viện, có lương y chăm lo việc
chữa bệnh cho quân đội, hàng năm tổ chức các đợt phòng và chống dịch bệnh
cho nhân dân. Trong giai đoạn này có làng thuốc ở thơn Nghĩa Trai, huyện Văn
Lâm, hiện nay vẫn còn tồn tại và phát triển (Trần Thúy và cs., 2005) [21].
Thế kỷ XVIII, Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông (1729 –
1791) đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập “Lĩnh Nam bản thảo”
nội dung gồm 496 vị thuốc Nam của “Nam dược thần hiệu” và phát hiện thêm
hơn 300 vị nữa. Tác giả đã để lại bộ sách thuốc rất có giá trị là: “Tân Hoa Hải
Thượng Lãn Ơng y tơng tâm lĩnh dương an tồn trạch” gọi tắt là “Lãn Ông Y
Nghiệp” hay “Lãn Ông Y Tập” gồm 66 quyển (Nguyễn Nhân Thống, 2008)
[19]. Suốt 30 năm của cuộc dời mình, tác giả đã xây dựng được nền móng cho

nền y học cổ truyền Việt Nam toàn diện cả về lý luận, phương pháp điều trị
và dược liệu.
Ngồi các bộ sách nêu trên, cịn kể đến tập “Vạn phương thập nghiệm”
của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập “Nam bang
thảo mộc” của Trần Nguyệt Phương mơ tả 100 lồi cây thuốc Nam, xuất bản
năm 1858 (Lê Trần Đức, 1997) [9].
Thời kỳ Tây Sơn (1788 – 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập “Nam
dược” với 620 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền (Lê
Trần Đức, 1997) [9].
Thời kỳ từ năm 1802 – 1883, nhà Nguyễn cũng tổ chức Thái Y Viện, tổ
chức điều trị bệnh phong tập trung, mở trường dạy thuốc ở Huế (Trần Thúy


10

và cs., 2005) [21]. Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Kinh,… là những danh y
nổi tiếng thời này, đã góp phần phát triển nền y học với quyển: “Nam dược
tập nghiệm quốc âm” bằng chữ Nôm của Nguyễn Quang Lượng về phương
thuốc dân gian.
Thời kỳ Pháp thuộc (1848 – 1945), y học cổ truyền nước ta có một số
hoạt động như: Thành lập các hội y học ở Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ; mở các
lớp huấn luyện y học cổ truyền, mở các phòng chữa bệnh, tổ chức triển lãm y
học cổ truyền,… (Trần Thúy và cs., 2005) [21]. Đến đầu thế kỷ XX, đã cho
xuất bản một số sách Y học cổ truyền bằng chữ quốc ngữ như “Việt Nam
dược học” của Phó Đức Thành. Nhiều nhà thực vật học người Pháp và người
Việt góp cơng nghiên cứu cây thuốc Việt Nam, như: bộ “Trung Việt dược
tính hợp biên” của Đinh Nho Chân với 1.600 vị thuốc Nam Bắc. Công trình
nghiên cứu của Crévót, Pétélot. Pétélot đã cho xuất bản bộ “Catalogue des
produits de L’Indochine” (1928 – 1935), trong đó tập V (Produits
medicinaux, 1928) đã mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc là các lồi thực vật có

hoa. Năm 1952, tác giả đã cho bổ sung và xây dựng thành bộ “Les plantes de
médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam”, gồm 4 tập và thống kê
được 1.482 vị thuốc thảo mộc ở ba nước Đông Dương (Lê Thị Thanh Hương,
2007) [12].
Sau cách mạng tháng 8 – 1945, y dược học cổ truyền đạt được những
thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe
của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn. Chỉ thị số 210
TTG/VG ngày 06/12/1966 của thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau:
“Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có
nhiều lồi q, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ
sở cho nền y học dân tộc mà cịn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện
đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc


11

Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị… phải coi trọng
dược liệu như cây cơng nghiệp cao cấp” (Võ Văn Chi, 1996) [5].
Chính vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở
nước ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tịi
và phát hiện thêm nhiều lồi cây thuốc mới. Tiêu biểu có thể kể đến bộ sách
“Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập, do Đỗ Tất Lợi biên
soạn năm 1957 và đến năm 1961, cuốn sách này được tái bản in thành 2 tập.
Trong đó, tác giả đã mô tả chi tiết và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc
nam (Nguyễn Tập, 2007) [15]. Đỗ Tất Lợi đã tiếp tục dày công nghiên cứu và
trrong những năm từ 1962 – 1965, tác giả cho xuất bản bộ “Những cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập, năm 1969 tái bản trong 2 tập. Cuốn sách
này của tác giả đã đề cập đến trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động
vật và khống vật. Tác giả đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các lồi
cây thuốc trong các cơng trình nghiên cứu của mình và sách đã được tái bản

nhiều lần và các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995, 1999, 2001 và năm 2003.
Lần tái bản thứ 7 vào năm 1995 số cây thuốc của ơng nghiên cứu đã
lên tới 792 lồi và gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 13 (dẫn theo Lê Thị
Thanh Hương, 2007) [12]. Bộ sách của ông đã mang lại giá trị khoa học và
giá trị thực tiễn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp giữa khoa học dân gian và
khoa học hiện đại.
Trong những năm này, nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa
học đã được xuất bản thành các tập sách như: “Tài Nguyên cây thuốc Việt
Nam” vào 1993 của Viện Dược liệu, với khoảng 300 loài cây thuốc (Phạm
Hoàng Hộ, 2006) [11]; Trần Đình Lý với cuốn “1900 lồi cây có ích” năm
1995, đã thống kê ở Việt Nam có khoảng 76 loài cho nhựa thơm, 260 loài cho
dầu béo, 160 loài có tinh dầu, 40 lồi tre nứa, 40 lồi song mây (dẫn theo Lê
Thị Thanh Hương, 2007) [12]. Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần


12

Đức với cuốn: “Cây thuốc Việt Nam” năm 1995 đã giới thiệu hơn 830 lồi
cây thuốc chính, phụ (Lê Trần Đức, 1997) [9]. Võ Văn Chi là một nhà thực
vật lớn của Việt Nam, đã đóng góp rất nhiều trong q trình nghiên cứu về
các lồi thực vật ở Việt Nam và ông đã biên soạn cuốn “Từ điển cây thuốc
Việt Nam”, trong đó ơng mơ tả rất tỷ mỷ về các cây được sử dụng làm thuốc
ở Việt Nam bao gồm 3.200 cây (Nguyễn Thượng Dong và cs., 2006) [8].
Ngồi ra, cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” tập I, II đề cập đến rất nhiều cây
cỏ có ích như làm gỗ, làm lương thực, làm thuốc (Nguyễn Thượng Dong và
cs., 2006) [8].
Từ những năm 2000 cho đến nay, đã có nhiều cuốn sách và các tài liệu
về cây thuốc được xuất bản nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều người quan tâm
tới cây thuốc trên khắp đất nước Việt Nam như: “577 bài thuốc dân gian gia
truyền” (Âu Anh Khâm, 2001) [13]; “Thuốc Nam, thuốc Bắc và các phương

thang chữa bệnh” (Tào Duy Cần, 2001) [1] và cuốn “Thuốc bệnh 24 chuyên
khoa” (Tào Duy Cần, 2006) [2]; “Nghiên cứu cây thuốc từ thảo dược”
(Nguyễn Thượng Dong và cs., 2006) [8]; “Cây có vị thuốc ở Việt Nam” do
Phạm Hoàng Hộ nghiên cứu và tập hợp (Phạm Hoàng Hộ, 2006) [11]; “cây
thuốc, bài thuốc và biệt dược” của Phạm Thiệp và cs. (2000) [16] đề cập tới
327 cây thuốc phổ biến,… Đồng thời, có nhiều cơng trình nghiên cứu về cây
thuốc trên cả nước công bố trên các tạp chí về cây thuốc như: Đặng Quang
Châu đã cơng bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện
Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau
(Đặng Quang Châu, 2011) [4]. Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải khi điều tra
các loài cây của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93
loài thuộc 7 chi, 42 họ (Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải, 2003) [3].
Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh
ngồi da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bệnh về xương… Lưu Đàm


13

Cư và cs. (2004) [7] khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H’mơng ở
vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo cơng dụng: cây lương
thực – thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả.
Trong nhóm này cây làm thuốc đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà
người H’mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc. Nguyễn
Thị Thủy và Phạm Văn Thỉnh (2004) [20] đã xây dựng các mơ hình vườn bảo
tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia
đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó có
nhiều lồi đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Trong Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 4 năm 2011 tại Hà Nội, đã
có nhiều báo cáo khoa học về tài nguyên cây thuốc và cách sử dụng các loài
cây thuốc trong điều trị các bệnh của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam được

công bố như: một số kết quả nghiên cứu “Các loài thực vật được đồng bào
dân tộc Mường tại Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò sử dụng làm
thuốc trị bệnh thận” của các tác giả Đỗ Sĩ Hiến và Đỗ Thị Xuyến đã chỉ ra 65
loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường sử dụng làm thuốc chữa bệnh về
thận (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Đánh giá
đa dạng nguồn gen cây thuốc của người Sán Chí ở xã Tức Tranh, huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và cs. đã xác định
được 90 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 82 chi, 50 họ thực vật của 2
ngành thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộc Sán Chí ở xã Tức
Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên dùng làm thuốc (dẫn theo Hội
nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Những cây thuốc được sử
dụng thay thế mật gấu theo kinh nghiệm dân gian và đông y ở một số địa bàn
tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Lê Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Thuận đã
thu được 35 loài thuộc 27 chi, 21 họ của 2 ngành thực vật bậc cao được sử
dụng làm thuốc chữa bệnh thay thế mật gấu ở một số địa bàn tỉnh Thái


14

Nguyên (dẫn theo Hội nghị Khoa học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. “Điều
tra các loài cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở một số xã thuộc huyện
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của tác giả Võ Thị Phượng và Ngô Trực Nhã đã
điều tra và thống kê 232 loài cây được sử dụng làm thuốc thuộc 186 chi, 90
họ tại các xã của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (dẫn theo Hội nghị Khoa
học toàn quốc lần thứ 4, 2011) [25]. Nguyễn Xuân Hoà, Nguyễn Thị Thanh
Thuỷ, Nguyễn Nhật Như Thuỷ (2013) khi nghiên cứu hiện trạng hệ sinh thái
rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở khu vực đầm thuỷ triều tỉnh Khánh Hoà đã
cho thấy thành phần loài cây khá nghèo nàn với 26 lồi được xác định, trong
đó có 16 lồi cây ngập mặn thực sự và 10 loài cây tham gia rừng ngập mặn.
Nguyễn Thị Kim Oanh (2015) [28], khi nghiên cứu tri thức bản địa và

sử dụng tài nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao tại khu rừng du lịch
văn hóa xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã xác định được 73
loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được
tương đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học, gồm 43 họ thực vật
thuộc 3 ngành thực vật. Tác giả còn thống kê được 15 bài thuốc với 36 loài
cây được sử dụng trong bài thuốc xác định được bộ phận cây thuốc mà người
dân thường dùng và cách pha chế của mỗi bài thuốc. Trong đó xác định được
8 bài thuốc cần được lưu giữ bảo tồn: chữa bệnh tim, chữa băng huyết, tắm
cho bà đẻ, chữa khớp và tối hóa cột sống, trị cảm và đau bụng, giúp dễ sinh,
chữa mất ngủ, chữa sỏi thận và đái vàng, đây là các bài thuốc được người dân
sử dụng phổ biến và có hiệu quả cao trong chữa trị bệnh.
Bùi Thị Ngân (2018) [29] khi nghiên cứu tri thức bản địa trong sử
dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Tày
tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được
108 loài cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Tày và đã được xác


15

định tương đối về tên phổ thông, tên địa phương, tên khoa học của các loài
thực vật.
Khi nghiên cứu về nguồn tài nguyên cây thuốc được sử dụng trong
cộng đồng dân tộc Dao ở xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
của Nguyễn Minh Hiếu và cs. (2018) [30] đã thu được 71 lồi thực vật bậc
cao có mạch thuộc ngành Ngọc lan có 67 lồi thuộc 60 chi và 42 họ, thuộc
ngành Dương sỉ với 2 loài thuộc 2 chi và 2 họ , ngành Mộc tặc có 1 loài thuộc
1 chi và 1 họ , thuộc ngành Thạch tùng có 1 lồi thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc
ngành Dây gắm có 1 lồi thuộc 1 chi và 1 họ có cơng dụng làm thuốc.
Nơng Thái Hịa (2018) [31] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt
tính kháng khuẩn của một số lồi cây thuốc tại xã Hồng Nơng, huyện Đại

Từ, tỉnh Thái Ngun xác định được 137 lồi thực vật bậc cao có mạch thuộc
ngành Ngọc lan thuộc 129 chi và 72 họ có cơng dụng làm thuốc. Số họ thực
vật làm thuốc là 72 họ, Trong đó, họ nhiều lồi nhất là họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae) với 10 lồi; họ Cúc (Asteraceae) và họ Hịa thảo (Poaceae)
với 7 lồi. Trong 129 chi, có tới 13 chi có 2 lồi được sử dụng làm thuốc.
Dương Văn Hưng (2018) [32] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá
hoạt tính kháng khuẩn của một số lồi cây thuốc tại xã Yên Ninh, huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên đã thu được 149 lồi thực vật bậc cao có mạch,
thuộc ngành Thơng có 1 lồi thuộc 1 chi và 1 họ, thuộc ngành Dương xỉ có 3
lồi thuộc 3 chi và 3 họ, thuộc ngành Mộc lan có 145 lồi thuộc 133 chi và 70
họ có cơng dụng làm thuốc.
Ma Văn Khiêm (2018) [33] khi nghiên cứu tri thức bản địa trong sử
dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao
tại xã Tân An, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã thống kê được 73 loài
cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được tương
đối về tên địa phương, tên phổ thông, tên khoa học. Phát hiện được 18 bài


16

thuốc trong tổng số hơn 22 loài cây được sử dụng trong bài thuốc, xác định
được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng và cách pha chế của mỗi
bài thuốc.
Vàng A Lả (2018) [34] khi nghiên cứu cây thuốc và đánh giá hoạt tính
kháng khuẩn của một số loài cây thuốc tại xã Yên Lạc, huyện Phú Lương,
tỉnh Thái Nguyên đã xác định được 183 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc
ngành Dương xỉ có 2 lồi thuộc 2 họ và 2 chi. Thuộc ngành Nấm có 1 loài
thuộc 1 chi và 1 họ, Thuộc ngành Mộc Lan có 180 lồi thuộc 156 chi và 87 họ
có công dụng làm thuốc chữa bệnh.
Lục Thanh Sắc (2018) [35] Khi nghiên cứu về tri thức bản địa trong sử

dụng, bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc của cộng đồng dân tộc Dao
tại xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tun Quang đã thống kê được 85
lồi cây thực vật làm thuốc tại cộng đồng dân tộc Dao và đã xác định được
tương đối về tên địa phương, tên phổ thơng, tên khoa học. Ngồi ra, Tác giả
cịn phát hiện ra 22 bài thuốc trong tổng số hơn 57 loài cây được sử dụng
trong bài thuốc, xác định được bộ phận cây thuốc mà người dân thường dùng
và cách pha chế của mỗi bài thuốc.
Việt Nam là một nước có tài nguyên rừng rất đa dạng và phong phú
nhưng vì ở trong những khu rừng hay gần rừng lại thường tập trung nhiều
cộng đồng các dân tộc sinh sống, có nhiều nền văn hóa đặc sắc khác nhau, tri
thức bản địa trong việc sử dụng cây làm thuốc cũng rất đa dạng và phong phú,
mỗi dân tộc có các cây thuốc và bài thuốc riêng biệt, cách pha chế và sử dụng
khác nhau. Nên hiện nay, nguồn tài nguyên rừng của chúng ta đang bị giảm
sút nghiêm trọng, kéo theo sự đa dạng sinh học cũng bị suy giảm trong đó có
cả một số cây thuốc bản địa có giá trị chưa kịp nghiên cứu cũng đã mất dần,
vậy việc nghiên cứu phát hiện và bảo tồn sử dụng tài nguyên cây thuốc bản
địa là một việc rất cần thiết. Các cộng đồng dân tộc thiểu số, họ có những bài


×