Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Đề tài "Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ "

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.05 KB, 92 trang )

trường đại học ngoại thương
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài: " một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
hàng dệt may Việt nam vào thị trường mỹ "
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: T.S BÙI NGỌC SƠN
SINH VIÊN : LÊ TÚ ANH
LỚP A1 - CHUYÊN NGÀNH 9
HÀ NỘI - 2003
MỤC LỤC
Lời nói đầu
1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
3
I. Khái niệm, vai trò của xuất khẩu
3
1. Khái niệm
3
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
3
II. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
6
1. Xuất khẩu trực tiếp
6
2. Xuất khẩu uỷ thác
7
3. Buôn bán đối lưu
7
4. Giao dịch qua trung gian
8
5. Gia công quốc tế


8
6. Tái xuất khẩu
9
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
10
1. Các yếu tố thuộc phạm vi quốc gia
10
2. Các yếu tố thuộc phạm vi doanh nghiệp
14
3. Ảnh hưởng của xu hướng biến động về mối quan hệ kinh tế
xã hội thế giới
15
IV. Đặc điểm của sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thị
trường thế giới
16
1. Đặc điểm về sản xuất
16
2. Đặc điểm trong buôn bán
18
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG VÀ THỰC TRẠNG XUẤT
KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
20
I. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngành công nghiệp dệt
may và thị trường hàng may mặc Việt nam
20
1. Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may
Việt Nam
20
2. Thực trạng thị trường hàng may mặc Việt Nam
28

II. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị
trường Mỹ giai đoạn 1997 đến nay
36
1.Tình hình xuất khẩu hàng dệt may nói chung
36
2. Khái quát về thị trường hàng dệt may tại Mỹ
39
3. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường
Mỹ
50
II. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam vào thị trường Mỹ
55
1. Những thuận lợi của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào thị trường Mỹ
55
2.Những khó khăn và thách thức đối với hàng dệt may Việt
Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ
56
CHƯƠNG III.: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT
KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
67
I. Định hương phát triển xuất khẩu nói chung và xuất khẩu
hàng dệt may nói riêng của Việt nam trong những năm tới
67
1. Quan điểm tăng tốc phát triển ngành dệt may
68
2. Mục tiêu tăng tốc phát triển ngành dệt may đến năm 2010
70

3. Chính sách hỗ trợ phát triển của Chính phủ cho ngành
dệt may
73
II. Một số giải pháp chính
76
1. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp
76
2. Một số giải pháp từ phía Chính phủ
82
Kết luận
84
Tài liệu tham khảo
85
Phụ lục
86
LỜI NÓI ĐẦU
Ngành dệt may là một ngành tiên phong của phần lớn các quốc gia khi bước vào
công cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vị trí quan trọng của ngành dệt may
trong nền kinh tế là do ngành này phục vụ nhu cầu tất yếu của con người, giải quyết
được nhiều lao động cho xã hội, đồng thời việc xuất khẩu dệt may giúp cho cán cân
thanh toán quốc tế của nước xuất khẩu ngày càng tốt hơn.
Quá trình phát triển của các nước công nghiệp tiên tiến như Anh, Pháp, Nhật...
trước đây, cũng như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... hiện nay đều đã trải qua bước
phát triển sản xuất, xuất khẩu những sản phẩm dệt may và coi đây là một ngành xuất
khẩu chủ yếu.
Ngành dệt may Việt Nam sớm được phát triển, nó thực sự chiếm vị trí quan trọng
trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động ngoại thương nói riêng từ những năm 90
trở lại đây. Đến nay, ngành dệt may được coi là một trong những ngành có lợi thế nhất
của Việt Nam bởi nó sử dụng nhiều lao động và mang về nguồn ngoại tệ rất lớn cho Việt
Nam (chỉ đứng sau ngành dầu khí). Mấy năm qua kim ngạch xuất khẩu của ngành này

luôn tăng trưởng mạnh, rất khả quan trong việc đạt và vượt mục tiêu xuất khẩu theo quy
hoạch tổng thể của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2005 là 4-5tỷ USD và năm 2010
là 8-9 tỷ USD. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu ngành này phải duy trì mức tăng trưởng
14%/ năm. Muốn đạt được điều đó toàn ngành cần có nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó
việc mở rộng thị trường là vấn đề mấu chốt mà các doanh nghiệp cần quan tâm. Một
trong những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế thế giới nói chung
và nền kinh tế khu vực nói riêng đó là thị trường Mỹ. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
sang thị trường này chẳng những tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế Việt Nam đẩy nhanh
tiến trình hội nhập mà còn gia tăng sự phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng
hoá Việt Nam. Tuy nhiên để thực hiện được việc này thì hàng dệt may Việt Nam phải
vượt qua rất nhiều khó khăn, thách thức nhất là về khả năng cạnh tranh, năng suất, chất
lượng sản phẩm, thị trường tiêu thụ và khả năng vận dụng Marketing vào kinh doanh.
Bài viết này với đề tài "Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam vào thị trường Mỹ " sẽ đi sâu phân tích thực trạng thị trường dệt may tại
Mỹ, đánh giá được chính xác khả năng thực tế của hàng dệt may Việt Nam khi thâm
nhập thị trường này và đề ra một số giải pháp chính nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Luận văn được chia làm ba chương chính như sau:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu.
Chương II: Tình hình thị trường và thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị
trường Mỹ.
Chương III: Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị
trường Mỹ.
Với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế về phương pháp luận, chắc chắn giá trị
thực tế của luận văn này không cao nhưng bằng lòng nhiệt tình và sự say mê được áp
dụng những kiến thức trong quá trình học tập và công tác, tôi hy vọng góp một phần nhỏ
bé giúp các doanh nghiệp dệt may tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất cho doanh
nghiệp mình để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường được đánh giá là tiềm năng nhất
hiện nay, đó là thị trường Mỹ.
Tôi xin chân thành cảm ơn T.S Bùi Ngọc Sơn đã hướng dẫn tôi hoàn thành khoá

luận này. Tôi cũng xin cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè tại Hiệp hội dệt may Việt nam
(Vitas) đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành bài viết này. Tuy còn nhiều hạn chế và thiếu kinh nghiêm thực
tiễn, bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong được bạn đọc và các
thầy cô giáo góp ý.
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
I. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
1. Khái niệm:
Xuất khẩu hàng hoá là việc bán, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho bên nước
ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ
đối với một bên hay hai hoặc nhiều bên đối tác. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt
động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô
hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi,
hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia hoặc thị trường nội
địa và khu chế xuất ở trong nước. Xuất khẩu nhằm khai thác được lợi thế so sánh của
từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu
đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban
đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nó đã rất phát
triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra
trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là
hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu:
Xuất khẩu là một bộ phận chính trong hoạt động ngoại thương, là hoạt động chủ
yếu trong thương mại quốc tế. Nó đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp
nói riêng, đối với sự phát triển kinh tế quốc gia nói chung.
2.1 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp:
Mở rộng thị trường là nhu cầu tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn phát
triển bền vững và có vị thế trên thương trường, việc mở rộng này được thực hiện phần

lớn thông qua hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích
sau:
 Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh
nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
 Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác
quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
 Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ
kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng
doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động
kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
 Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp,
chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất,
marketing... cũng như sự phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép.
 Xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao giúp doanh nghiệp bù đắp chi phí, có lãi, tích luỹ
nhằm nâng cấp xây mới cơ sở vật chất, bảo dưỡng hoặc trang bị kỹ thuật công nghệ hiện
đại, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
 2.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu của tiến trình phát triển kinh tế xã
hội đặc biệt đối với các nước đang và kém phát triển, nó khắc phục tình trạng nghèo nàn
lạc hậu. Tuy nhiên nó đòi hỏi một lượng vốn đủ lớn để đầu tư, nhập khầu máy móc, thiết
bị... Xuất khẩu là một trong những hình thức thu hút vốn quan trọng của mỗi quốc gia,
xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô, tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế.
 Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất
Tuỳ thuộc vào chính sách hướng ngoại hay hướng nội của mỗi quốc gia mà xuất
khẩu có mức độ tác động đến chuyển dịch cơ cấu và phát triển sản xuất khác nhau
+ Với chính sách hướng nội, việc xuất khẩu chỉ được thực hiện đối với những

sản phẩm thừa so với nhu cầu xã hội.Vì vậy xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm
vi nhỏ, tăng trưởng chậm, không phát huy được lợi thế so sánh của quốc gia, các
ngành sản xuất kinh doanh không có cơ hội phát triển.
+ Với chính sách hướng ngoại, thị trường thế giới được coi là mục tiêu để tổ
chức sản xuất và xuất khẩu thì việc xuất khẩu hàng hoá có tác động tích cực đến
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển, đó là:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nhóm ngành hàng có liên quan có cơ hội phát
triển.
- Xuất khẩu có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của
từng quốc gia.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản
xuất sản phẩm công nghiệp, tạo lợi thế kinh doanh nhờ tăng qui mô.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở
rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho hàng hoá của một quốc gia thâm nhập và cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
- Xuất khẩu giúp mở rộng ảnh hưởng của quốc gia đó trên trường quốc tế.
 Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời
sống nhân dân.
Xuất khẩu kích thích phát triển sản xuất trong nước qua đó tạo việc làm cho lao
động xã hội, tăng thu nhập, tăng khả năng chi tiêu của họ, từ đó giảm thất nghiệp trong
nước. Mặt khác, xuất khẩu còn tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng làm cho
người dân trở nên sung túc hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ.
 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn
nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu, cơ bản, là hình thức ban đầu của
hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế,
bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế... phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của
các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Như vậy xuất khẩu có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự tăng trưởng phát

triển của nền kinh tế mà nó còn giúp bình ổn xã hội của một quốc gia, tuy nhiên muốn
phát huy vai trò của nó cần phải tìm hiểu sâu hơn ở nội dung và các hình thức xuất khẩu
II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU
1. Xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ do chính doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước
ngoài thông qua tổ chức của mình.
Xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh nhưng nó lại có
ưu điểm:
- Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường
nước ngoài từ đó nắm bắt ngay được nhu cầu, xu hướng biến động của thị trường, tình
hình của khách hàng nên có thể đưa ra những chính sách linh hoạt về sản phẩm sao cho
phù hợp. Nhờ đó việc mở rộng thị trường cho sản phẩm sẽ thuận lợi hơn.
Xuất khẩu trực tiếp thường được áp dụng ở những doanh nghiệp có nguồn vốn đủ
lớn, đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực và trình độ chuyên môn cao đồng thời
sản phẩm được xuất khẩu thường đã có vị thế trên thị trường trong nước và quốc tế.
2. Xuất khẩu uỷ thác:
Xuất khẩu uỷ thác là hình thức mà trong đó đơn vị kinh doanh xuất khẩu đóng
vai trò là người trung gian cho đơn vị sản xuất đứng ra ký kết hợp đồng mua bán ngoại
thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất để qua
đó hưởng "phí uỷ thác"(thường tính theo % giá trị lô hàng).
Hình thức này có ưu điểm là dễ áp dụng, doanh nghiệp không phải bận tâm việc
đàm phán ký kết hợp đồng, các thủ tục xuất nhập khẩu do đó tiết kiệm được thời gian,
giảm rủi ro và chuyên tâm vào sản xuất. Tuy nhiên nó có hạn chế là lợi nhuận bị chia sẻ,
việc thu thập thông tin thị trường gặp khó khăn do đó khó có phản ứng linh hoạt với
những biến động của thị trường.
Hình thức này được áp dụng chủ yếu ở những doanh nghiệp có tiềm lực hạn chế,
chưa có chỗ đứng thật vững chắc trên thị trường.
3. Buôn bán đối lưu:

Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất
khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng
giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất khẩu
không phải nhằm thu về ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương
đương.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về biến động tỷ giá hối
đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để
thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn
bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán. Tuy
nhiên buôn bán đối lưu làm hạn chế quá trình trao đổi hàng hoá, việc giao nhận hàng
hoá khó tiến hành được thuận lợi.
Hình thức này thường áp dụng ở tầm quốc gia hoặc những tập đoàn công ty lớn, các
bên tham gia thường đã có quan hệ buôn bán với nhau từ trước.
4. Giao dịch qua trung gian
Giao dịch qua trung gian là phương thức giao dịch mà mọi việc thiết lập quan hệ
giữa người bán và người mua đều phải thông qua người thứ ba còn gọi là người trung
gian buôn bán. Trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là môi giới hay còn gọi là
đại lý.
Do quá trình trao đổi giữa người bán với người mua phải thông qua một người thứ
ba nên tránh được những rủi ro như: do không am hiểu thị trường hoặc do sự biến động
của nền kinh tế.Tuy nhiên phương thức giao dịch này cũng phải qua trung gian và phải
mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nó làm cho lợi nhuận giảm xuống.
Hình thức này thường áp dụng ở những doanh nghiệp mới vươn ra thị trường
nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu thường là những sản phẩm mới hoặc những sản phẩm
có tính cạnh tranh cao.
5. Gia công quốc tế:
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận
gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (bên đặt gia công)
để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu lại một khoản phí
gọi là phí gia công.

Hình thức này áp dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển
có nhiều tài nguyên, lao động dồi dào với giá rẻ nhưng lại thiếu vốn yếu kém về công
nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Gia công quốc tế đem lại lợi ích cho cả hai bên. Bên đặt gia công tận dụng được
giá rẻ về nhân công, nguyên phụ liệu của nước gia công. Bên nhận gia công tạo được
việc làm cho lao động trong nước, nhập được máy móc thiết bị, công nghệ mới. Tuy
nhiên họ dễ bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về số lượng, chủng loại, mẫu mã hàng
hoá gia công và đặc biệt là dễ bị ép giá gia công.
6. Tái xuất khẩu:
Tái xuất khẩu là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập
khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ có thể thu được
lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất.Tuy nhiên nếu không được kiểm soát tốt,
việc lưu chuyển hàng hoá nhập về nước tái xuất nhằm tránh thuế có thể sẽ gây thông tin
nhiễu về cung cầu trên thị trường, điều này tác động trở lại các doanh nghiệp dễ có
những quyết định sai. Hình thức này được áp dụng rất phổ biến, nhất là với những
nước, những doanh nghiệp chuyên kinh doanh buôn bán quốc tế.
Trên đây là những hình thức xuất khẩu chủ yếu, ngoài ra còn nhiều hình thức khác
như: xuất khẩu gia công uỷ thác, xuất khẩu theo nghị định thư, xuất khẩu tại chỗ... Việc
phân định trên đây sẽ giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương thức phù hợp với khả
năng của chính mình sao cho đạt hiêụ quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn
nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá
trình xuất nhập khẩu của mình. Ngoài ra các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cũng cần
được quan tâm đúng mức.
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Các yếu tố thuộc phạm vi quốc gia.
1.1. Các yếu tố kinh tế.
1.1.1. Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia.
Tuỳ thuộc vào mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế theo từng giai đoạn của
mỗi quốc gia, Chính phủ quốc gia đó có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn

chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn chiến lược phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải khuyến khích xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu
nhập khẩu các trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất hoặc với mục tiêu bảo hộ sản
xuất trong nước đưa ra chính sách hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, đồng thời tìm cách
đưa sản phẩm trong nước ra thị trường thế giới...
1.1.2. Các chính sách liên quan đến hoạt động ngoại thương :
A. Các chính sách thuế và phi thuế:
*Thuế quan: Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị
hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất
khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ
kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản
xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và mức tiêu dùng trong nước lại giảm
xuống. Nhìn chung, công cụ này thường chỉ áp dụng đối với một số ít mặt hàng nhằm
hạn chế số lượng xuất khẩu và bổ sung cho nguồn thu của ngân sách.
* Hạn ngạch: được coi là một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan, nó
được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng tối đa của một mặt hàng hay một
nhóm hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua việc cấp giấy
phép. Sở dĩ có công cụ này vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất
khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng hay nhóm hàng
như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu...
* Trợ cấp xuất khẩu: Trong một số trường hợp Chính phủ phải thực hiện chính sách
trợ cấp xuất khẩu để tăng mức độ xuất khẩu hàng hóa của nước mình, tạo điều kiện cho
sản phẩm có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm
tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng sản lượng và
mức xuất khẩu.
B. Chính sách về tỷ giá hối đoái và lãi suất ngân hàng .
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị
tiền tệ của nước kia. Chính sách về tỷ giá hối đoái là một công cụ điều tiết vĩ mô nền
kinh tế hết sức nhậy cảm nhất là đối với hoạt động xuất khẩu, việc điều chỉnh tỷ giá giữa
đồng tiền trong nước và nước ngoài sao cho có lợi cho nhà xuất khẩu sẽ khuyến khích

được xuất khẩu và ngược lại, tuy nhiên tỷ giá hối đoái như con dao hai lưỡi nhiều khi nó
lại có tác động tiêu cực: làm đội giá nguyên vật liệu nhập khẩu gây khó khăn cho nhà
sản xuất, làm lệch mục tiêu của nhà hoạch định chính sách.
Lãi suất cũng là yếu tố có tác dụng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu, chính
sách giữ bình ổn lãi suất sẽ tạo tâm lý tốt cho các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh
xuất khẩu, nhất là với những mặt hàng cần huy động vốn lớn.
1.1.3. Tăng trưởng GDP và lạm phát.
Tăng trưởng kinh tế thường đi liền với gia tăng lạm phát, tăng trưởng dẫn đến thu
nhập tăng, điều này làm cho nhu cầu tiêu dùng tăng nhanh hơn khả năng cung ứng dẫn
đến giá tăng và điều này sẽ dẫn đến lạm phát. Nếu lạm phát quá cao các nhà xuất khẩu
sẽ bị thiệt và họ sẽ không hứng thú trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu, điều này
làm cho sản xuất bị ngừng trệ hoặc thu hẹp dẫn đến tăng trưởng chậm. Nếu lạm phát quá
thấp sẽ không khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh dẫn đến không mở rộng được
quy mô sản xuất, không mở rộng được thị trường xuất khẩu. Một chính sách điều chỉnh
lạm phát phù hợp từ phía Chính phủ sẽ khuyến khích được sản xuất trong nước và hoạt
động xuất khẩu cũng được đẩy mạnh.
1.2. Yếu tố xã hội.
Hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định.
Chính vì vậy, các yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu
tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này ta có thể
nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng.
Nền văn hóa tạo nên cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định cách thức tiêu dùng,
thứ tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thoả mãn và cách thoả mãn của con người
sống trong đó. Điều này có nghĩa là các nhà xuất khẩu luôn luôn phải quan tâm tìm hiểu
những đặc điểm văn hóa riêng có ở mỗi thị trường mà mình tiến hành hoạt động xuất
khẩu, nhằm thâm nhập và mở rộng thị trường một cách có hiệu quả. Văn hoá trong ký
kết hợp đồng ở mỗi quốc gia cũng rất khác nhau, các nhà xuất khẩu cần phải biết điều
này để việc đàm phán và ký kết hợp đồng được thuận lợi, có hiệu quả.
1.3. Yếu tố chính trị, luật pháp
Các yếu tố chính trị pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu. Các

doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của các
Chính phủ có liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế:
- Các quy định của luật pháp quốc gia xuất khẩu đối với hoạt động xuất khẩu (thuế,
thủ tục quy định về mặt hàng xuất khẩu, quy định quản lý về ngoại tệ...)
- Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà quốc gia xuất khẩu tham gia.
- Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn.
- Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới việc xuất khẩu (ví dụ Công
ước Viên 1980; Incoterm 1990,2000...)
- Ngoài những vấn đề nói trên, Chính phủ còn thực hiện các chính sách ngoại thương
khác như: hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan...
Chính sách ngoại thương của Chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi. Sự thay
đổi đó có thể là những bất lợi lớn đối với các nhà kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy, họ phải
nắm được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để biết được xu hướng vận động
của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước.
1.4. Điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ liên quan đến hoạt động xuất
khẩu
* Điều kiện tự nhiên.
 Đặc điểm về khí hậu ở những thị trường khác nhau sẽ quyết định đặc điểm riêng của
sản phẩm xuất khẩu, điều này kéo theo một loạt các điều khoản trong hợp đồng ngoại
thương.
 Khoảng cách địa lý giữa các Bên tham gia hợp đồng ngoại thương sẽ ảnh hưởng đến
chi phí vận tải, tới thời gian thực hiện hợp đồng vận tải, tới thời gian thực hiện hợp
đồng, thời điểm ký kết hợp đồng do vậy nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn hàng,
mặt hàng xuất khẩu, lựa chọn thị trường tiêu thụ.
 Điều kiện bất khả kháng như bão, động đất...có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện
hợp đồng xuất khẩu, hạn chế giao dịch buôn bán.
* Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu.
Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, bao gồm:
Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: mức độ trang bị, hệ thống xếp
dỡ, kho tàng... Hệ thống cảng biển nếu hiện đại sẽ giảm bớt thời gian bốc dỡ, thủ tục

giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hóa xuất khẩu.
Hệ thống ngân hàng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép các nhà kinh
doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là
một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng.
Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng hàng hóa cho phép các hoạt động xuất khẩu
được thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt được mức độ thiệt hại khi có
rủi ro xảy ra...
2. Các yếu tố thuộc phạm vi doanh nghiệp .
2.1 Tiềm lực tài chính.
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng
(nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối (đầu
tư) có hiệu quả các nguồn vốn. Vốn có thể là vốn tự có, vốn huy động (từ bên ngoài
hoặc từ các thành viên thuộc doanh nghiệp), vốn tích luỹ từ tỷ lệ chiết khấu hàng năm.
Một doanh nghiệp có nguồn tài chính mạnh, được quản lý có hiệu quả sẽ có khả năng
cung ứng tốt các nguồn hàng, có khả năng đảm nhận những đơn đặt hàng lớn, do đó khả
năng chiếm lĩnh thị trường sẽ tốt hơn.
2.2. Yếu tố công nghệ.
Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật liệu và thông
tin, nó bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản
xuất, chế tạo, dịch vụ, quản lý và thông tin. Như vậy công nghệ gồm phần cứng là
những yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: nhà
xưởng, máy móc thiết bị... Phần này giúp tăng năng lực cơ bắp và trí lực của con người
và phần mềm gồm: (1) phần con người là đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, có kỹ năng, kỹ
xảo, kinh nghiệm sản xuất, làm việc có trách nhiệm và năng suất cao, (2) phần thông tin
gồm các dữ liệu, thuyết minh, dự án, mô tả, sáng chế, chỉ dẫn kỹ thuật, điều hành sản
xuất, (3) phần tổ chức gồm những liên hệ, bố trí, sắp xếp, đào tạo đội ngũ cho các hoạt
động như phân chia nguồn nhân lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch, kiểm tra điều hành.
Công nghệ của doanh nghiệp càng hiện đại thì năng suất sản xuất, chất lượng hàng
hóa càng được nâng cao, chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm giảm. Điều này làm tăng

khả năng cạnh tranh của sản phẩm và uy tín doanh nghiệp trên thị trường trong nước,
khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường đồng thời giúp doanh
nghiệp tăng khả năng nắm bắt thông tin, việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất
khẩu cũng thuận tiện và có hiệu quả hơn.
2.3. Nhân tố con người.
Nhân tố con người là nhân tố quyết định thành bại trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Con người với cương vị là người lãnh đạo họ có trình độ về tổ chức, quản
lý, điều hành doanh nghiệp hoạt động bình thường và có hiệu quả. Với cương vị là
người sản xuất kinh doanh họ có trình độ chuyên môn tốt có kỷ luật lao động cao khiến
cho trang thiết bị trở nên có ý nghĩa. Tuy nhiên để có được điều đó con người cần phải
được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo. Con người hay lao
động trong một doanh nghiệp có trình chuyên môn tốt, kỷ luật lao động cao thì năng
suất lao động của doanh nghiệp đó mới cao. Năng suất lao động cao sẽ giảm chi phí sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm uy tín doanh
nghiệp giúp cho doanh nghiệp phát triển bền vững.
3. Ảnh hưởng của xu hướng biến động về mối quan hệ kinh tế - xã hội thế giới.
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng.
Mỗi biến động của tình hình kinh tế- xã hội trên thế giới đều ít nhiều trực tiếp hoặc gián
tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Hoạt động xuất khẩu hơn bất cứ một hoạt
động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất, bởi đây là hoạt động chủ yếu trong giao lưu
kinh tế giữa các nước với nhau giữa các thành viên trong khu vực và giữa các khu vực
với nhau. Khi xuất khẩu hàng hóa từ nước này sang nước khác, người xuất khẩu thường
phải đối mặt với các hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Mức độ lỏng lẻo hay chặt chẽ
của các hàng rào này phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước
nhập khẩu và xuất khẩu.
Ngày nay, đã và đang hình thành rất nhiều liên minh kinh tế ở các mức độ khác
nhau, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương được ký kết với mục tiêu
đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế. Những quốc gia tham gia vào các liên minh
kinh tế này hoặc kí kết các hiệp định thương mại thì sẽ gặp nhiều thuận lợi trong hoạt
động xuất khẩu của mình. Ngược lại, đó chính là rào cản đối với việc thâm nhập vào thị

trường khu vực đó.
Tất cả những yếu tố trên đây có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động
xuất khẩu nói chung, những yếu tố này ngày càng đa dạng, phức tạp, tác động ngày càng
nhiều chiều đến hoạt động xuất khẩu theo đà phát triển của hoạt động ngoại thương nói
chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Dưới đây sẽ đề cập đến đặc điểm riêng của
ngành dệt may.
IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA SẢN XUẤT VÀ BUÔN BÁN HÀNG DỆT MAY TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ
GIỚI.
1. Đặc điểm về sản xuất .
Với một quốc gia, khi có nền công nghiệp phát triển thì ngành công nghiệp dệt may
sẽ không đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế mà các ngành công nghiệp khác có hàm
lượng kỹ thuật cao sẽ chiếm lĩnh thị trường. Bởi ngành công nghiệp dệt may là một
ngành sử dụng nhiều lao động đơn giản, vốn đầu tư ban đầu không lớn, nhưng có tỷ lệ
lãi khá cao. Chính vì vậy sản xuất dệt may thường phát triển mạnh và có hiệu quả. ở các
nước đang phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Khi
đã có công nghiệp phát triển, có trình độ kỹ thuật cao, giá lao động cao thì sức cạnh
tranh trong sản xuất dệt may sẽ giảm. Thực tế cho thấy, lịch sử phát triển ngành dệt may
thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu
vực kém phát triển hơn do tác động của các lợi thế so sánh. Tuy nhiên, điều này không
có nghĩa là ngành dệt may không còn tồn tại các nước phát triển mà nó đã phát triển cao
hơn với những sản phẩm cao cấp, thời trang để phục vụ cho một nhóm người.
Cụ thể của sự chuyển dịch này là vào năm 1840 từ nước Anh sang các nước Châu
Âu khác, khi các ngành công nghiệp dệt may đã trở thành động lực phát triển chính cho
sự phát triển thị trường sang các khu vực mới khám phá ở Châu Mỹ. Tiếp theo là từ
Châu Âu sang Nhật Bản vào những năm 1950. Từ năm 1960, khi chi phí sản xuất ở Nhật
tăng lên và thiếu nguồn lao động thì công nghiệp dệt may lại chuyển dịch tới các nước
mới công nghiệp hoá (NIC
S
) như Hồng Kông, Đài loan, Nam Triều Tiên... Quá trình
chuyển dịch được thúc đẩy mạnh bởi nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác

lợi thế về nguồn nguyên liệu tại chỗ và giá nhân công rẻ. Tuy hiện nay công nghiệp dệt
may không còn thống trị trong nền kinh tế nhưng nó vẫn còn đóng góp về nguồn thu
ngoại tệ thông qua xuất khẩu ở các nước này.
Theo quy luật chuyển dịch của ngành công nghiệp dệt may thì đến năm 1980 lợi
thế so sánh của ngành dệt may mất dần đi, các quốc gia này chuyển sang sản xuất và
xuất khẩu các mặt hàng có công nghệ và kỹ thuật cao hơn như điện tử, ô tô... Ngành dệt
may lại tiếp tục chuyển dịch sang các nước Đông Nam Á, Trung Quốc rồi tiếp tục sang
các quốc gia khác, trong đó có Việt nam.
Việt Nam là một quốc gia thuộc ASEAN và cũng đã đạt mức xuất khẩu cao về sản
phẩm dệt may trong thập kỷ qua góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
2. Đặc điểm trong buôn bán.
2. Đặc điểm trong buôn bán.
Sản xuất ngành dệt may có vai trò và ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán
quốc tế. Trong lịch sử của nền mậu dịch thế giới, sản phẩm ngành dệt may là một trong
những sản phẩm đầu tiên tham gia vào thị trường và nó có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Sản phẩm dệt may có nhu cầu rất phong phú, đa dạng tuỳ theo đối tượng tiêu dùng.
Người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khác nhau về khu
vực địa lý, tuổi tác... sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục.
- Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã,
kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng tâm lý thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng
của người tiêu dùng.
- Nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với tiêu thụ sản phẩm. Người tiêu dùng
thường căn cứ vào nhãn mác để đánh giá chất lượng sản phẩm. Tên tuổi của các hãng
nổi tiếng trên thế giới đều gắn liền với nhãn mác sản phẩm. Tập quán và thói quen tiêu
dùng là một yếu tố quyết định nguyên liệu và chủng loại sản phẩm.
- Yếu tố thời vụ liên quan chặt chẽ tới thời cơ bán hàng. Điều này có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với những nhà xuất khẩu trong vấn đề giao hàng đúng thời hạn.
- Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ. Trước
đây có hiệp định về hàng may mặc, việc buôn bán các sản phẩm dệt may được điều

chỉnh theo những thể chế thương mại đặc biệt mà nhờ đó, phần lớn các nước nhập khẩu
thiết bị hạn chế số lượng để hạn chế hàng dệt may nhập khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ
biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với những hàng hoá công nghiệp khác. Bên
cạnh đó, từng nước nhập khẩu còn đề ra những điều kiện đối với hàng dệt may nhập
khẩu. Tất cả những hàng rào đó ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán hàng dệt
may trên thế giới trong thời gian qua.
Chương II
TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG VÀ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT
MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
I- ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VÀ
THỊ TRƯỜNG HÀNG MAY MẶC VIỆT NAM.
1- Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam .
1.1 Đặc điểm hoạt động kinh doanh:
Ngành công nghiệp dệt may có một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế của nhiều
quốc gia vì nó phục vụ nhu cầu cần thiết của con người, đó là nhu cầu về mặc , vì vậy từ
rất lâu trên thế giới ngành công nghiệp này đã hình thành và đi lên cùng với sự phát
triển ban đầu của công nghiệp tư bản.
Công nghiệp dệt may là ngành thu hút nhiều lao động với kỹ năng không cao, có
điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, vốn đầu tư ban đầu cho một cơ sở sản xuất
không lớn như một số nghành công nghiệp khác. Do vậy trong quá trình công nghiệp
hoá diễn ra rất sớm ở các nước phát triển Anh, Pháp... cho đến các nước công nghiệp
mới như Hàn quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, ngành dệt may đều giữ vị trí
hết sức quan trọng.
Việc sản xuất trong lĩnh vực dệt may rất phong phú, phối hợp từ công nghệ đơn
giản nhất ( thợ may ráp nối không cần phải được huấn luyện quá công phu) , đến những
kỹ thuật tiên tiến nhất ( thiết kế mẫu, giác mẫu, cắt... bằng hệ thống máy điện toán), hay
kỹ thuật thông tin phối hợp sản xuất ở nhiều nơi trên thế giới. Điều này cho thấy sự phối
hợp của nhiều trình độ công nghệ dẫn đến hiện tượng phổ biến là các nưóc phát triển
nắm được những kỹ thuật cao, thu nhiều lợi nhuận nhất, và giao lại cho các nước đang
phát triển (với mức lương nhân công rẻ mạt ) những khâu kỹ thuật thấp , đa số là gia

công hàng may mặc với mẫu mã và nguyên phụ liệu được cung cấp sẵn . Các nước
tham gia vào hệ thống sản xuất hàng may mặc quốc tế ở dạng gia công với giá trị đóng
góp rất thấp vào nền kinh tế quốc gia.
Ở Việt Nam, sản phẩm dệt may là ngành hàng có truyền thông lâu đời. Nghề trồng
dâu, nuôi tằm , xe tơ, dệt vải đã xuất hiện và tồn tại trong suốt quá trình lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Hình ảnh những người phụ nữ Việt Nam miệt mài suốt
đêm bên khung cửi, dệt vải kiếm tiền cho chồng đèn sách chờ ngày ứng thi đã đi vào thơ
ca như biểu tượng cho tính cần cù, chịu khó, yêu chồng, thương con, thuỷ chung son sắt
của người phụ nữ Việt Nam. Ngày nay, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam tiếp tục
đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước vì nó không chỉ
phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là ngành giải quyết được nhiều
việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, góp phần cân bằng cán cân
xuất nhập khẩu của đất nước. Là ngành đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu không quá lớn, công
nghiệp dệt may thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia, từ những công ty dệt may lớn
của nhà nước đến các công ty liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài, các hợp
tác xã, các hộ gia đình... Hầu như ở các tỉnh , thành phố, cho đến các thị xã, thị trấn, các
huyện lỵ, từ trung ương đến các địa phương, mỗi nơi đều có các nhà máy, các xí nghiệp,
các cơ sở sản xuất sản phẩm .
Trong nhiều năm qua, ngành may Việt nam đã phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng
trung bình hàng năm cao, thâm nhập ngày càng sâu vào các thị trường lớn là EU, Mỹ,
Nhật Bản, các nước SNG và Đông Âu... Hiện nay chúng ta đang tiếp cận thị trường
Trung Cận Đông và Mỹ La tinh. Với chi phí sản xuất thấp, công nhân cần cù sáng tạo,
cùng với việc nâng cao chất lượng, đặc biệt là quan tâm đến thị hiếu, mẫu mốt thời trang
của thị trường thế giới, Việt Nam sẽ phát triển sản phẩm may mặc của mình trong quá
trình tự do hoá mậu dịch và thích ứng được với xu thế chuyển dịch hàng dệt may thế
giới.
Bảng dưới đây cho ta thấy mức độ chênh lệch về thu nhập quốc dân, mức tiêu dùng sản
phẩm dệt may cũng như giá tiền công sản phẩm dệt may Việt Nam so với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
BẢNG 1: MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ DỆT MAY THẾ GIỚI

Nước Lương (USD/giờ) Tiêu dùng ( kg/ người) GNP
(USD /Người)
Việt Nam 0,48 0,8 250.00
Thái Lan 0,87 3,0 2.315
Philippin 0,67 1,8 1.010
Indonexia 0,23 1,9 780
Malayxia 0,95 6,5 3.530
Singapore 3,16 29,0 22.520
Trung Quốc 0,34 5,7 435
Hông Kông 3,39 12,8 21.558
Ấn Độ 0,54 2,5 310
Hàn Quốc 3,60 14,0 8.520
Nhật Bản 16,37 20,3 38.750
Mỹ 10,33 27,1 25.900
Anh 10,16 18,5 16.600
Pháp 12,63 15,0 24.150
( Nguồn : Tổng Công ty Dệt may Việt Nam - năm 1998)
Các so sánh cho thấy chúng ta còn tiềm năng rất lớn để nâng cao hơn nữa năng lực sản
xuất và tiêu thụ hàng dệt may khi chúng ta tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng thị
trường. Tăng trưởng là tiền đề phát triển tiêu dùng thông qua khả năng thanh toán của
sức mua ngày một tăng thêm: trong đó đáng chú ý là sự gia tăng các sản phẩm về may
mặc sau khi đã giải quyết tốt các nhu cầu cơ bản về ăn uống.
Trong tương lai gần ( 2005) chúng ta có thể đạt đến mức tiêu dùng các sản phẩm về
dệt may khoảng 5-6 kg/ người năm , tương đương với mức sử dụng hiện nay của Trung
Quốc, hay tương đương với mức của Hồng Kông và Hàn Quốc hiện nay vào năm 2010.
Điều đó sẽ cải thiện đáng kể vào việc tạo thêm nhiều công ăn việc làm và tăng thu nhập
cho người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia để tái đầu tư phát triển trong
đó có ngành công nghiệp dệt may trên cơ sở cao hơn về trình đô công nghệ , thiết bị và
các điều kiện cần thiết khác.
1.2 Qui mô sản xuất :

Trong hơn 10 năm qua, ngành dệt may nước ta nói chung và ngành may nói riêng
đã có những bước phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên,
nhiều năm liền đứng thứ hai trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo thêm hàng
trăm nghìn lao động , uy tín chất lượng sản phẩm may mặc Việt nam được đánh giá cao
trên thị trường thế giới.
Có sự tăng trưởng liên tục và vững chắc như vậy là nhờ đường lối đổi mới của
Đảng , tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, sự nỗ
lực của nhiều cấp, nhiều ngành trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường và sự năng
động, sáng tạo của các doanh nghiệp.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm dệt may đạt 1,892 tỷ USD, tăng
8,3% so với năm 1999, thấp hơn so với kế hoạch ban đầu. Nguyên nhân chủ yếu là do
tình hình thị trường năm 2000 có những diễn biến phức tạp, đồng EURO của Châu Âu
sụt giá trên 20% so USD đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá
nói chung, và hàng dệt may nói riêng tại thị trường này - một thị trường chiếm khoảng
40% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Mặc dù từ đầu năm 2000, Việt
Nam và EU đã thoả thuận tăng mức hạn ngạch lên 20% và Liên Bộ Thương mại -
Công nghiệp - Kế hoạch và Đầu tư đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích tận dụng
hạn ngạch, kể cả những mặt hàng nhạy cảm nhưng cũng không đạt được kết quả mong
muốn. Một yếu tố khác mà ta không thể bỏ qua là sau cuộc khủng hoảng khu vực 97-
98, các nước xuất khẩu dệt may lớn như Indonexia, Ấn Độ , Thái Lan , Pakistan ... đã
phục hồi, cùng với Trung Quốc bắt đầu các chương trình phát triển mới, mạnh mẽ hơn
trước đây bằng việc đổi mới công nghệ , thiết bị , khuyến khích đầu tư, chú trọng đào
tạo nguồn nhân lực nên đã góp phần nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tăng sức cạnh
tranh cho các sản phẩm của họ. Đây là một thách thức lớn và lâu dài cho ngành dệt may
nước ta.
Vì vậy trong những năm tới ngành dệt may Việt Nam cần phải được nhanh chóng
đầu tư đổi mới công nghệ , nâng cấp quản lí chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh hoạt động
tiếp thị ... Các doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng Công ty Dệt may Việt Nam phải
khẩn trương xây dựng và triển khai các dự án phù hợp với chiến lược chung của toàn
ngành dựa trên những thế mạnh riêng về thiết bị công nghệ , trình độ cán bộ, tay nghề

công nhân, sản phẩm truyền thống và thị trường. Đến năm 2005 nếu không làm được
điều này ngành dệt may Việt Nam sẽ mất thời cơ, không còn khả năng phát triển và hội
nhập.
Dưới đây là một vài nét cơ bản về tình hình tổ chức cũng như năng lực sản xuất của
riêng ngành may mặc Việt Nam :
1.2.1 Về tổ chức:
Theo thống kê năm 2000 cả nước hiện nay có khoảng 177 doanh nghiệp may quốc
doanh, gần 600 công ty TNHH, cổ phần , tư nhân hoạt động trong lĩnh vực may mặc.
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam ( VINATEX) có 22 doanh nghiệp may, trong đó có
11 doanh nghiệp thuộc khu vực phía Bắc còn lại là trong Nam. Các doanh nghiệp may
ngoài Bắc có các công ty lớn như May 10, Công ty may Hưng Yên , Công ty may Chiến
Thắng, May Thăng Long, trong Nam có các công ty lớn như may Việt Tiến, May Nhà
Bè... Các công ty thuộc VINATEX chiếm hơn 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng may mặc Việt Nam ra thị trường thế giới.
1.2.2 Về năng lực sản xuất:
Tổng năng lực sản xuất toàn ngành năm 1998 đạt khoảng 380 triệu sản phẩm (qui
đổi sơ mi), năm 1999 con số này là khoảng 470 triệu sản phẩm, đến năm 2000 đạt 580
triệu sản phẩm (qui đổi sơ mi). Như vậy trung bình mỗi năm tăng khoảng 21% ( khoảng
100 triệu sản phẩm) .
Trong đó kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may (chủ yếu là ngành may) luôn
giữ vị trí thứ 2 sau dầu khí chiếm tỉ trọng trên dưới 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 1450 triệu USD , năm 1997 đạt
1747 triệu USD, năm 2000 con số này là 1892 triệu USD, năm 2001 là 1975,4 triệu
USD và đến năm 2002 là 2750 triệu USD, góp phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước.
Tính đến hết tháng 12/2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang tất cả
các thị trường đạt 2,751 triệu USD. Trong đó kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt 540
triệu USD, chiếm 19,5% tổng kim ngạch: Nhật đạt 485 triệu USD, chiếm 17,5%: Mỹ đạt
975 triệu USD, chiếm 35,5%: các nước khác đạt 751 triệu USD, chiếm 27,5%. Như vậy
năm 2002 là năm có mức tăng trưởng xuất khẩu lớn nhất của hàng dệt may kể từ năm

1997 trở lại đây.
1.3 Thực trạng về thiết bị công nghệ may:
Thiết bị công nghệ dệt may nước ta nói chung và ngành công nghiệp may nói
riêng vừa lạc hậu vừa thiếu đồng bộ, dẫn đến sản phẩm làm ra kém năng lực cạnh tranh.
Theo đánh giá của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) ngành dệt may Việt
Nam đang ở trình độ công nghệ bậc 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ
đặc biệt là công nghiệp dệt. Điều này làm cho việc phát huy năng lực sản xuất của ngành
dệt may Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Có thể nói một trong những nguyên nhân cơ bản hạn chế sự phát triển của ngành
công nghiệp dệt may Việt Nam là tình trạng thiếu vốn đầu tư ở các doanh nghiệp. Đặc
biệt trong lĩnh vực dệt, do thiếu thiết bị và công nghệ hiện đại nên ngành dệt nước ta
không có khả năng sản xuất các loại vải cao cấp phục vụ nguyên liệu cho ngành công
nghiệp may. Vì vậy các doanh nghiệp may không có nguồn nguyên liệu trong nước đáp
ứng yêu cầu chất lượng cho sản phẩm sản xuất ra, mặt khác nếu nhập nguyên liệu từ
nước ngoài thì sẽ đội giá thành sản phẩm lên, khiến cho sản phẩm mất khả năng cạnh
tranh và đó là một trong những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp may của chúng
ta buộc phải lựa chọn phương thức an toàn là gia công hàng xuất khẩu.
Nhận thức được tầm quan trọng của máy móc và công nghệ hiện đại, trong những
năm gần đây, ngành may đã liên tục tiến hành đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới trang
thiết bị để có thể kịp thời đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm ngày một cao.
Trong 5 năm gần đây toàn ngành đã trang bị thêm gần 20000 máy may hiện đại
các loại để sản xuất các mặt hàng sơ mi, Jacket, đồ bảo hộ lao động, áo phông các loại...
cải thiện một bước chất lượng hàng dệt may của nước ta.
1.4 Cơ cấu sản phẩm:
Sản phẩm ngành may rất đa dạng, nó vừa mang tính chất thời trang nên đòi hỏi luôn
luôn được đổi mới, lại vừa có tính dân tộc, mang sắc thái truyền thống nên cần phải
được giữ gìn và bảo tồn.

×