Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐẠI LỘC, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.8 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH TẤN NGUYÊN

GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN
DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN ĐẠI LỘC, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH TẤN NGUYÊN

GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN
DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN ĐẠI LỘC, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ LÂM THI

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Giám sát của nhân dân trong thực hiện dân
chủ cơ sở ở cấp xã từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam” là cơng trình
nghiên cứu của riêng tơi.
Được sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Thị Lâm Thi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Những số liệu trong Luận văn phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá
được chính tác giả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, có ghi rõ trong phần tài
liệu tham khảo.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
NGƯỜI CAM ĐOAN

Huỳnh Tấn Nguyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN
DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ .......................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ
cơ sở ở cấp xã ......................................................................................................... 7
1.2. Nội dung, hình thức giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở
cấp xã....................................................................................................................18
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ
sở ở cấp xã ............................................................................................................23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN TRONG
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐẠI
LỘC, TỈNH QUẢNG NAM .............................................................................28

2.1. Đặc điểm địa bàn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam liên quan đến hoạt động
giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã ...........................28
2.2. Quá trình triển khai và kết quả thực hiện giám sát của nhân dân trong thực
hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam........35
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN
TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐẠI LỘC, TỈNH QUẢNG NAM.......................................................59
3.1. Các quan điểm về giám sát của Nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở
cấp xã....................................................................................................................59
3.2. Các giải pháp về giám sát của Nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp
xã trên địa bàn huyện Đại Lộc. ............................................................................61
KẾT LUẬN .........................................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Nghĩa đầy đủ

STT

Từ viết tắt

1

CNH, HĐH

2

GSXH


Giám sát xã hội

3

HĐND

Hội đồng nhân dân

4

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

5

PBXH

Phản biện xã hội

6

QCDC

Quy chế dân chủ

7

UBND


Ủy ban nhân dân

8

UBTV

Ủy ban thường vụ

9

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện quyền giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở
cấp xã tiếp tục trở thành mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới và phát
triển của đất nước hiện nay nhằm phát huy vai trò làm chủ, tinh thần sáng tạo
của nhân dân, củng cố và nhân nguồn sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và tổ chức thành viên
các cấp đã quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn và phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa
phương triển khai thực hiện QCDC, gắn với hoạt động giám sát, phản biện xã
hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền theo luật định.
Nhân dân đã thể hiện sự quan tâm đến việc góp ý kiến về xây dựng chính

sách, pháp luật, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia giám sát hoạt động
của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư. Nhiều khó khăn trong q trình
phát triển và thực hiện được nhân dân bàn bạc, tháo gỡ, giải quyết có hiệu quả.
Qua đó đã góp phần đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, triển khai hiệu
quả hơn cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, tạo sự đồng
thuận trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Tuy nhiên, ở một số địa phương, cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị,
việc phát huy vai trò giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp
xã còn mờ nhạt, hiệu quả chưa rõ. Việc xây dựng và ban hành các quy chế, quy
định, quy trình thực hiện cơng khai, nhân dân tham gia ý kiến, hoạt động của
một số Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng thực hiện
quyền giám sát dân chủ cơ sở ở địa phương chưa hiệu quả; Một số chủ trương,
chương trình, dự án chưa thực hiện tốt việc công khai lấy ý kiến nhân dân, nên
chưa tạo được sự đồng thuận, nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, bảo vệ tài

1


nguyên, môi trường, đầu tư xây dựng cơ bản, bồi thường, tái định cư dẫn đến
khiếu kiện đông người, bức xúc kéo dài ở một số địa phương.
Vấn đề giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã
đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức lớn, địi hỏi phải hồn thiện xây dựng
pháp luật về thực hiện dân chủ và nâng cao hơn nữa vai trò giám sát của nhân
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tại các địa phương. Xuất phát từ lý do
trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ
cơ sở ở cấp xã từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam” làm Luận văn tốt
nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Luật Hành chính và Hiến pháp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu và vấn đề giám sát của nhân dân trong

thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã đã được rất nhiều tác giả và nhóm tác giả
nghiên cứu. Sau đây là một số cơng trình tiêu biểu:
Nghiên cứu về dân chủ, dân chủ ở cơ sở có những cơng trình nghiên cứu
sau:
- Hương Diệp – Hải Nhi (2019), “Khẳng định vai trò của Mặt trận trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở”, Cổng thông tin trang báo điện tử của Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội;
- Hà Thị Thùy Dương (2019), “Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông
đến thực hiện dân chủ cơ cở ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học,
chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chỉ nghĩa duy vật lịch sử;
- Bùi Thị Hường (2010), “Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt
Nam hiện nay – Thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2010;
- Lại Thế Nguyên (2014), “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sỹ Luật học;
- Nguyễn Anh Tuấn (2016), “Nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và
xây dựng nên dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án

2


Tiến sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
Các cơng trình khoa học trên đã nghiên cứu khá sâu sắc lý luận chung về
dân chủ, thực hiện QCDC và thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở;
vai trò hoạt động giám sát của nhân dân ở cơ sở và đề xuất những giải pháp nâng
cao hiệu quả giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã.
Nghiên cứu về hoạt động giám sát thực hiện dân chủ cơ sở có những cơng
dưới đây:
- Bùi Thị Nguyệt Thu (2018), Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đối với hoạt động của chính quyền cấp xã, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2018;

Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu chuyên sâu giám sát của nhân dân
trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã chưa nhiều, đặc biệt chưa có cơng trình
nào nghiên cứu chun sâu “Giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ
cơ sở ở cấp xã từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam”. Trên cơ sở
nghiên cứu, Luận văn có sự kế thừa, học hỏi những thành quả khoa học của các
công trình nghiên cứu đi trước và tiếp tục giải quyết, hiến kế những vấn đề cịn
để ngỏ, nhằm hồn thiện lý luận giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ
cơ sở ở cấp xã trên địa bàn huyện Đại Lộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của nhân dân trong thực hiện
dân chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam nói riêng và
cả nước nói chung.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động giám sát của nhân dân trong
thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng giám sát của nhân dân trong thực hiện
dân chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn huyện Đại Lộc từ năm 2016 đến 2019
+ Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của nhân dân

3


trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn huyện Đại Lộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã. Luận văn
không nghiên cứu hoạt động giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ
sở ở các cơ quan, doanh nghiêp, tổ chức kinh tế, sự nghiệp thuộc các bộ quản lý

ngành, lĩnh vực.
- Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài Nghiên cứu thực trạng giám sát của nhân dân trong
thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Về thời gian: Phạm vi khảo sát của luận văn được thực hiện từ năm 2016
– 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận:
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí minh; quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
vấn đề dân chủ, giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở.
Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, bao gồm:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích các cơng
trình khoa học nhằm làm rõ các vấn đề lý luận về giám sát của nhân dân trong
thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã, từ đó tổng hợp, rút ra những kết luận khoa học
về vấn đề này. Phương pháp này cũng được sử dụng để phân tích làm rõ thực
trạng giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn
huyện Đại Lộc; tổng hợp, đánh giá rút ra những thành công, hạn chế, nguyên
nhân của những hạn chế trong những năm qua.

4


+ Phương pháp thống kê, so sánh: được sử dụng để thống kê, so sánh tình
hình giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn .
+ Phương pháp chuyên gia: tác giả tham khảo, xin ý kiến của lãnh đạo
UBND, UBMTTQVN huyện, thông qua tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm để
tham khảo, xin ý kiến của chuyên gia, các nhà khoa học và giảng viên trên địa

bàn tỉnh và huyện.
+ Phương pháp điều tra khảo sát: tác giả tiến hành khảo sát tình hình thực
hiện dân chủ cơ sở và thực tiễn công giám sát của nhân dân trong thực hiện dân
chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn huyện Đại Lộc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
Góp phần hệ thống hóa, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về giám sát
của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Luận văn cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách,
pháp luật về phát huy vai trò giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ
sở ở cấp xã hiện nay.
+ Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để các cá nhân, cơ quan ban
ngành trong việc nghiên cứu tình hình việc giám sát của nhân dân trong thực
hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã của Quảng Nam; hồn thiện chính sách, xây dựng
pháp luật, tăng cường việc giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở
ở cấp xã của cả nước.
7. Cơ cấu luận văn:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về giám sát của nhân dân trong thực
hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã.
Chương 2. Thực trạng về giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ
cơ sở ở cấp xã từ thực tiễn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp tăng cường giám sát của nhân dân

5


trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã trên địa bàn huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng
Nam.


6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN
TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở CẤP XÃ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò giám sát của nhân dân trong thực
hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã
1.1.1. Khái niệm giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở
ở cấp xã
Giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động thường xuyên của
cơ quan, tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự
giám sát và sự tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt
động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được
xác định từ trước, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm
chỉnh.
Giám sát là một hình thức hoạt động quan trọng, đồng thời là quyền của
cơ quan nhà nước thể hiện ở việc xem xét đối với hoạt động của các đối tượng
chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật nhằm bảo đảm
pháp chế hoặc sự chấp hành những quy tắc chung nào đó.
Từ Cách mạng Tháng Tám - 1945, nhất là từ Đại hội VI (1986) đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức nhất quán về dân chủ và tập trung xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN với đầy đủ tính chất “Nhà nước của dân, do
dân, vì dân”. Nhìn lại hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta cho rằng: “Nền dân chủ
XHCN ở Việt Nam phải vừa thể hiện các giá trị dân chủ phổ quát của nhân loại,
vừa thể hiện những giá trị đặc trưng phản ánh bản sắc, đặc điểm văn hóa….gắn
với trách nhiệm và nghĩa vụ cơng dân …trong đó nhân dân là chủ thể của các
thiết chế chính trị và Nhà nước theo đúng nguyên lý chủ quyền nhân dân được
quy định trong Hiến pháp 2013” [Bài viết “Thế nào là dân chủ”, Trang thông


7


tin điện tử Cựu chiến binh Việt Nam, cập nhật ngày 24/10/2019 của Tác giả
Nguyễn Hồng (2019),].
Khái niệm dân chủ có một nội hàm hết sức phong phú với một lịch sử
phát triển trên hai nghìn năm qua nhưng nếu hiểu vắn tắt và cơ bản thì có thể
nói: dân chủ là khái niệm dùng để chỉ quyền làm chủ của Nhân dân.
Dân chủ là giá trị chung của nhân loại. Khi nói về vai trị của dân chủ, ít
nhất chúng ta phải nhớ ba điều sau đây: Thứ nhất, Lênin khẳng định: “Khơng có
dân chủ khơng có tiến bộ xã hội”; Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “Dân chủ
là chìa khóa vạn năng giải quyết mọi khó khăn”; Thứ ba, Đảng ta khẳng định:
Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển [Bài viết “Dân chủ và
phát triển”, Cổng thông tin điện tử Cơng đồn viên chức Việt Nam
cập nhật ngày 03/6/2019, tác giả Đào
Thịnh (2019)].
Dân chủ là “hình thức tổ chức thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc thừa
nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và
tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức
và thiết chế nhất định…” [Từ điển bách khoa Việt Nam. NXB. Từ điển Bách
khoa Việt Nam, 1995, tr. 653].
Cơ sở là nơi trực tiếp nhất của thực tiễn, thể hiện ý thức và năng lực làm
chủ của nhân dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Cơ
sở còn là cấp hành động và tổ chức hành động, nghĩa là cấp tổ chức triển khai
thực hiện chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
Luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu đối với hoạt động giám sát của
nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã, không nghiên cứu hoạt động
giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở các cơ quan, doanh
nghiêp, tổ chức kinh tế, sự nghiệp thuộc các bộ quản lý ngành, lĩnh vực.


8


Theo quy định của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị
trấn, thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã có các nội dung sau:
Một là, những nội dung nhân dân được biết.
Mỗi nội dung là một phần của “dân chủ” nhưng không phải dân chủ chỉ
bao gồm những nội dung này. Bởi đây chỉ đang xét dưới góc độ dân chủ trong
chính trị.
Hai là, nhân dân bàn bạc và quyết định các công việc ở cấp xã
Nhân dân là chủ thể tham gia bàn bạc và quyết định trực tiếp một số công
việc ở cơ sở theo quy định của pháp luật. Trong thực hiện dân chủ, “bàn bạc” và
“quyết định” là hai lĩnh vực có liên hệ mật thiết với nhau, vừa phản ánh nội
dung, quy trình, cách thức thực hiện quyền dân chủ của người dân. Bàn bạc, thảo
luận ở đây gồm có bàn bạc giữa cơ quan quản lý với người dân và giữa những
người dân với nhau. Tùy theo từng vấn đề cụ thể mà pháp luật quy định nội
dung, hình thức của việc bàn bạc, quyết định.
Ngồi ra, nhân dân còn tham gia bàn bạc, biểu quyết để cấp có thẩm
quyền ra quyết định. Đây là sự kết hợp hài hòa giữa tự quản cộng đồng và quản
lý hành chính nhà nước.
Ba là, Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định.
Đây là một hình thức phát huy quyền làm chủ của người dân. Với tư cách
chủ thể quyền lực, người dân có quyền tham gia ý kiến vào những lĩnh vực có
liên quan trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt của mình. Việc lấy ý kiến Nhân dân
không phải là hoạt động tùy thích của chủ thể quản lý mà được quy định cụ thể,
rõ ràng trong pháp luật. Pháp lệnh 34/PL/2007 quy định cụ thể những cơng việc
mà cơ quan có thẩm quyền phải lấy kiến của nhân dân trước khi quyết định.
Bốn là, Nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với một số công việc ở cơ

sở

9


Nhân dân được quyền giám sát việc thực hiện đối với tất cả những việc
mà nhân dân có quyền được biết, được bàn và quyết định, được tham gia ý kiến
trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định. Hoạt động giám sát của Nhân dân
có thể được thực hiện thông qua hoạt động của các tổ chức do nhân dân thành
lập ra hoặc thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của mình.
Để thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã, pháp luật quy định những nội dung
mà chính quyền cấp xã phải cơng khai để nhân dân biết; những nội dung nhân
dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ
quan có thẩm quyền quyết định và những nội dung nhân dân được quyền giám
sát. Từ những quy định trên cho thấy, giám sát của nhân dân là một trong những
nội dung thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã.
Hoạt động giám sát được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: Giám sát là sự
theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn
sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối
tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu
quả đã định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh [Học
viện Hành chính Quốc gia: Hành chính nhà nước và cơng nghệ hành chính, Nxb
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2007, tr.217].
“Giám sát là sự theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ
chức, cộng đồng người này đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác
trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội; trong việc thực hiện chủ trương,
đường lối, quan điểm của Đảng...” [Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng quy định thi hành Chương VII và Chương
VIII Điều lệ đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của đảng].
Trong Từ điển tiếng Việt (1997), giám sát được giải thích là: “Theo dõi và

kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều đã quy định không” [Số 78, tr.374].
Từ những cách hiểu về hoạt động giám sát như trên, ta có thể thấy hoạt
động giám sát mang nội hàm như sau: Giám sát là một hoạt động của một chủ

10


thể biểu hiện qua quá trình theo dõi, quan sát, xem xét, phân tích, nhận định về
hành vi, việc làm của đối tượng bị giám sát. Mục đích của giám sát là xem xét
hành vi, việc làm của đối tượng bị giám sát xem có đúng với những quy định,
định hướng của chủ thể quyền lực đặt ra hay không, để có những tác động nhằm
điều chỉnh đối tượng thực hiện đúng yêu cầu, quy định của chủ thể quyền lực.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về giám sát của nhân
dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã như sau:
Giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã là hoạt
động theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị của nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua các đoàn thể quần chúng đối với hoạt động của chính quyền cấp xã
nhằm bảo đảm cho cán bộ, công chức, các cơ quan nhà nước thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ được giao.
1.1.2. Đặc điểm giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở
cấp xã
- Đặc điểm về chủ thể của hoạt động giám sát
Thực hiện giám sát dân chủ cơ sở ở cấp xã là nhân dân, Ban thanh tra
nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, Tổ hịa giải có liên quan đến việc
giám sát trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp tại các địa phương. Quyền giám sát
của chủ thể được quy định tại Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Phạm vi giám
sát được triển khai trên địa bàn từng xã, phường, thị trấn cụ thể với những nội
dung như giám sát đối với nhà nước thông qua hoạt động tham gia quản lý nhà
nước và xã hội được thể hiện quyền giám sát như: cơng dân có quyền bầu cử,
ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, đóng góp ý kiến xây dựng phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo cấp chính quyền
địa phương về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, cán bộ, cơng
chức cấp xã; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp và pháp luật; giám
sát hoạt động của chính quyền cơ sở.

11


Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, có quyền thực hiện
việc theo dõi, xem xét, đánh giá về một việc đã được thực hiện, giám sát không
đồng nhất với đối tượng chịu sự giám sát.
Từ những phân tích trên cho thấy, chủ thể thực hiện giám sát dân chủ cơ
sở ở cấp xã là nhân dân chứ không phải là cơ quan, tổ chức của nhà nước, không
nhân danh nhà nước. Chủ thể của hoạt động giám sát là những cá nhân hoặc tổ
chức nằm ngoài nhà nước có quyền và nghĩa vụ pháp lý theo luật định bao gồm
mọi người thuộc các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo khác nhau ở các địa
phương.
- Tính chất của hoạt động giám sát (so sánh với hoạt động giám sát của
các cơ quan nhà nước mang tính quyền lực nhà nước)
* Hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước
Quyền giám sát của Quốc hội đối với quản lý hành chính nhà nước có
phạm vi rất lớn, thể hiện rõ tính quyền lực nhà nước, thành lập, bãi bỏ các cơ
quan, các chức danh của bộ máy hành chính nhà nước…và cả trong hoạt động cụ
thể của bộ máy hành chính nhà nước. Quốc hội chỉ trực tiếp thực hiện quyền
giám sát của mình trong những phạm vi mà Quốc hội thấy cần thiết nhất, quan
trọng nhất. Đối tượng giám sát, cách thức giám sát trong trường hợp này ln có
những đặc thù khác với hoạt động giám sát mà Quốc hội ủy quyền. Quốc hội
thực hiện quyền giám sát của mình bằng hai cách: trực tiếp - bằng chính hoạt
động của Quốc hội và gián tiếp - thông qua hoạt động giám sát của một số cơ
quan nhà nước được Quốc hội ủy quyền.

Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan nhà nước khác ở địa phương, đặc
biệt đối với hoạt động của ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của ủy ban
nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc. Nội dung hoạt động giám sát: Thực
hiện trên kỳ họp, nghe báo cáo và thảo luận, đánh giá báo cáo của HĐND, của
cơ quan chuyên môn bằng cách chất vấn trên kỳ họp..; Xem xét văn bản quy

12


phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp
khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội...
Từ những quy định trên cho thấy hoạt động giám sát của các cơ quan nhà
nước mang tính quyền lực nhà nước.
* Hoạt động giám sát của nhân dân
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định chủ quyền nhân dân trong việc xây
dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp, tôn trọng và đề cao quyền làm chủ của
người dân, thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ của Nhà nước ta, Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân....[Điều 6 Hiến pháp năm 2013]. Giám sát của nhân dân trong thực hiện dân
chủ cơ sở ở cấp xã được thực hiện bằng các hình thức sau:
Dân chủ trực tiếp là việc nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng
cách trực tiếp thể hiện ý chí của mình khơng cần thơng qua cá nhân hay tổ chức
thay mặt cho mình: quyền bầu cử, ứng cử [Điều 7, Điều 27], quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội [Điều 28], quyền được biểu quyết khi Nhà nước tổ
chức trưng cầu ý dân [Điều 29], quyền khiếu nại, tố cáo của Nhân dân đối với
việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân [khoản 1 Điều 30]... Hoặc
Các hình thức dân chủ trực tiếp khác như tham gia ý kiến, thảo luận và kiến nghị
với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước, thực hiện
dân chủ ở cơ sở…

Dân chủ đại diện là việc nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước một cách
gián tiếp thông qua các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các
cơ quan khác của Nhà nước), các cá nhân được nhân dân ủy quyền để thực hiện
ý chí của nhân dân: Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải
tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách
dịch, cửa quyền [Điều 8]

13


Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện thông qua hoạt động Ban
Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng, tổ hòa giải ở cơ sở,
thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền. Việc giám sát thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã đã góp phần đẩy mạnh
các phong trào thi đua yêu nước, triển khai hiệu quả hơn cuộc vận động xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân.
Qua phân tích trên cho thấy giám sát của nhân dân trong thực hiện dân
chủ cơ sở ở cấp xã được thể quyền làm chủ của nhân dân theo luật định, khơng
mang tính quyền lực; chủ thể giám sát là các tổ chức, cá nhân bên ngồi nhà
nước, đó là một loại giám sát trong tổng thể cơ chế giám sát đối với quyền lực
nhà nước.
- Đặc điểm về thủ tục giám sát (do khơng mang tính quyền lực nhà
nước nên thủ tục đơn giản hơn nhiều so với giám sát của nhà nước)
Thủ tục Giám sát của nhân dân được tiến hành trong nội dung giám sát
thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã là dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
tham gia góp ý. Trong quá trình giám sát thực hiện dân chủ cơ sở, các xã,
phường, thị trấn đã coi trọng việc củng cố, phát huy vai trị của cơng tác thanh

tra nhân dân và ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Đồng thời, các cấp ủy, chính
quyền cấp xã đã quan tâm triển khai thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, tổ
chức cho nhân dân bàn bạc quyết định xây dựng cơ sở hạ tầng nơng thơn; rà sốt
bổ sung hương ước, quy ước, lấy phiếu sự hài lòng của người dân trong việc xây
dựng nông thôn mới, triển khai cho nhân dân xây dựng nông thôn mới nâng cao,
xây dựng các mơ hình kiểu mẫu...
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã tập trung vào việc công
khai quan điểm, chủ trương, giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; tổ chức lấy

14


ý kiến nhân dân tham gia bàn, góp ý đối với các văn kiện quan trọng, đồng thời,
triển khai nhiều kênh tiếp nhận ý kiến phản ánh của nhân dân như: hịm thư điện
tử, đường dây nóng, thơng qua tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân… với
11 nội dung cần cơng khai đã được chính quyền cấp xã ở các địa phương thực
hiện nghiêm túc.
Có thể thấy, thực hiện tốt việc giám sát của nhân dân về dân chủ cơ sở ở
cấp xã thời gian qua đã góp phần ngăn chặn, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực,
đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, tạo sự đoàn kết và đồng thuận trong
các tầng lớp nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền cơ sở.
Đồng thời góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý,
điều hành của chính quyền cơ sở theo hướng gần dân, vì dân phục vụ hơn, khắc
phục được biểu hiện quan liêu, cửa quyền, phát huy được sức mạnh của nhân
dân thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân.
[Những nội dung nhân dân thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã được quy
định tại các điều 5, 10, 13 và 19, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày
20/4/2007 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường,

thị trấn].
Giám sát của nhân dân thủ tục đơn giản, tuy không mang tính quyền lực
pháp lý, nhưng có tác dụng phịng ngừa, góp phần ngăn chặn có hiệu quả hành vi
vi phạm pháp luật và kỷ luật nhà nước từ phía cơ quan hành chính.
- Đặc điểm về hệ quả của hoạt động giám sát
Giám sát của cơ quan nhà nước là giám sát của hệ thống rộng hơn của
toàn xã hội cũng nằm trong mục đích ngăn ngừa, khắc phục những sai lệch khỏi
các quy phạm pháp luật quy định và xã hội đặt. Giám sát của cơ quan quyền lực
nhà nướclà hoạt động chủ yếu của Quốc hội và HĐND các cấp nhằm giám sát
quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Hoạt động này mang tính
chuyên nghiệp được quy định rất cụ thể, chặt chẽ trong các văn bản quy phạm

15


pháp luật, nhất là các luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước như
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND 2015, Luật chính quyền địa
phương 2015, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015...).
Giám sát của nhân dân không mang tính quyền lực, giám sát của Nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến
nghị của các cá nhân hay cộng đồng dân cư trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ
quốc (MTTQ) Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội, báo chí, phương tiện truyền thơng và các tập thể lao động đối với hoạt động
của chính quyền cấp xã. Qua đó, giúp cho các cơ quan, cán bộ, cơng chức thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Khi thực hiện giám sát của nhân dân, các yêu cầu, kiến nghị của nhân dân
chỉ mang tính chất khuyến nghị thể hiện ở các: “yêu cầu”, “đề nghị”, “kiến
nghị”, khơng mang tính chất cưỡng chế bắt buộc như hoạt động giám sát của
Nhà nước…Qua đó, phịng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả vi phạm pháp luật và kỷ
luật nhà nước từ cơ quan hành chính ở các địa phương.

1.1.3. Vai trò giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở
cấp xã
- Giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã góp phần
mở rộng dân chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Giám sát của nhân dân để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần
nâng cao nhận thức, trách nhiệm, uy tín, hạn chế bớt quan liêu, xa dân của cấp
ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước, củng cố mối
quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền trong sạch, vững mạnh.
- Giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước
Việc giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã đã
giúp cho UBND các cấp, các ban ngành, đoàn thể, doanh nghiệp, người lao động

16


ở các địa phương chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ cơ sở, góp phần quan trọng trong
việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, tăng cường phát
triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và các vấn đề an sinh xã hội, giảm
nghèo, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định sản xuất, kinh doanh, nâng
cao đời sống nhân dân và đảm bảo sự phát triển bền vững của các tổ chức, doanh
nghiệp nói riêng, kinh tế-xã hội trên địa bàn nói chung.
Để các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ công chức ở các địa phương
thực hiện tốt trách nhiệm cơng vụ của mình, đòi hỏi cần tăng cường sự giám sát
của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở, của cơ quan dân cử, của cấp trên,
của cơ quan tư pháp cũng như sự giám sát của tổ chức Đảng, MTTQ, các tổ chức
xã hội và báo chí đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, các
cơ quan nhà nước ở địa phương cần tự nguyện đặt mình dưới sự giám sát của

nhân dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ, thực hiện tốt công khai và minh bạch
thông tin; đồng thời, coi trọng việc tiếp nhận và xử lý các ý kiến, kiến nghị của
nhân dân từ hoạt động giám sát, từ việc nhân dân thực hiện dân chủ trực tiếp
hoặc dân chủ đại diện, các cấp chính quyền địa phương chỉ đạo các cơ quan có
liên quan kịp thời xem xét, giải quyết và phản hồi các ý kiến, kiến nghị của nhân
dân qua đối thoại chính quyền với nhân dân, qua hoạt động tham gia quản lý nhà
nước xã hội ở các địa phương. Có thể nói hoạt động giám sát của nhân dân là
động lực thúc đẩy, là thước đo đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan Nhà nước, tổ chức trong hệ thống chính trị.
- Giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng ở địa phương
Hiểu rõ vị trí, vai trị, tầm quan trọng hoạt động giám sát của nhân dân
trên lĩnh vực kinh tế-xã hội nó sẽ là một cơ chế đảm bảo thực thi quy chế dân
chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở có thể coi là nền tảng để phát triển

17


kinh tế-xã hội; đảm bảo được các quyền của người dân đó là quyền được biết,
được bàn, được làm, được kiểm tra. Việc công khai kế hoạch phát triển kinh tếxã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự tốn, quyết tốn ngân sách
hàng năm; cơng khai việc quản lý và sử dụng các loại quỹ; công khai chủ trương,
kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo;…
đều là những vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế
xã hội của cả địa phương.
1.2. Nội dung, hình thức giám sát của nhân dân trong thực hiện dân
chủ cơ sở ở cấp xã
1.2.1. Nội dung giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở ở
cấp xã
Theo quy định của Điều 23 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị

trấn năm 2007, Nhân dân được quyền giám sát việc thực hiện các nội dung sau:
- Những nội dung công khai
1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.
2. Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án
đền bù, hỡ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình
trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết
các công việc của nhân dân.
4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương
trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xố
đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát
triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.
6. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng

18


của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thơn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín
nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp xã.
7. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý
kiến nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.
8. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các cơng
việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
9. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.

- Những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp: Nhân dân bàn
và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng,
các cơng trình phúc lợi cơng cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do
nhân dân đóng góp tồn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong
nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.
- Những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết
1. Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố.
2. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
3. Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư
của cộng đồng.
- Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến
1. Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh
tế mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã.
2. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã.
3. Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp
xã; chủ trương, phương án đền bù, hỡ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở

19


hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư.
4. Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh
địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.
5. Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của
pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền
cấp xã thấy cần thiết.
1.2.2. Hình thức giám sát của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở
ở cấp xã

* Giám sát thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám
sát đầu tư của cộng đồng
Ban thanh tra nhân dân:
Ban Thanh tra nhân dân là tổ chức do Hội nghị nhân dân hoặc Hội nghị
đại biểu nhân dân tại thôn, tổ dân phố trực tiếp bầu ra từ địa bàn dân cư để giám
sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với tổ chức,
cá nhân tại địa phương do Mặt trận Tổ quốc cùng cấp tổ chức và chỉ đạo thực
hiện.
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định 159/2016/NĐCP ngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành một
số điều của Luật Thanh tra, Ban thanh tra nhân ở cấp xã có nhiệm vụ:
- Giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh; việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở theo quy định tại
Điều 13 Nghị định 159/2016/NĐ-CP.
Để thực hiện những nhiệm vụ nói trên, Ban thanh tra nhân dân ở cấp xã có
quyền hạn sau:
- Kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xử lý vi phạm
theo thẩm quyền và khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát hiện qua hoạt động

20


×