Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Luận văn bao bì thực phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 67 trang )

Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 1/67



TÀI LIỆU
LUẬN VĂN BAO BÌ THỰC PHẨM











Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 2/67

LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp chế biến thực phẩm là một bộ phận của nghành nông nghiệp,
nó sử dụng phần lớn nguyên vật liệu do nông nghiệp cung cấp để chế biến
thành các sản phẩm công nghiệp có giá trò.
Ngày nay nghành công nghiệp thực phẩm được coi là nghành công nghiệp
mũi nhọn của đất nước ta. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của
người dân, vừa là nguồn xuất khẩu quan trọng góp phần không nhỏ vào sự tăng
trưởng kinh tế của nước ta.


Cùng với sự phát triễn của ngành công nghiệp thực phẩm ta không thể
không nhắc đến nghành vật liệu bao bì vì nó góp phần không nhỏ trong việc
thúc đẩy nghành công nghiệp thực phẩm phát triễn. Thực phẩm là loại hàng
hóa có giá trò dinh dưỡng cao phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sống và sức khỏe
của con người và hàng thực phẩm là loại sản phẩm rất nhạy cảm dưới tác dụng
của môi trường: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, không khí, vi sinh … Do đó, bao bì
là một phần không thể thiếu được của nghành công nghiệp thực phẩm. Bao bì
được dùng để chứa đựng thực phẩm, vận chuyển và bảo quản. Mặt khác bao bì
còn có một tác dụng rất quan trọng là dùng để quảng cáo.
Bao bì thực phẩm có giá trò lòch sử rất lâu đời, với những loại vật liệu có sẵn
trong thiên nhiên như: lá cây, gỗ, da thú … và với sự phát triển của xã hội công
nghệ sản xuất bao bì cũng đã và đang phát triễn không ngừng, dựa trên cơ sở
ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới tạo ra những tính năng ưu việc
phục vụ cho con người.
Vấn đề quan trọng nhất của chúng ta hiện nay là cung cấp đầy đủ nhu cầu
bao bì cho các mặt hàng hóa trên thò trường không những về mặt chất liệu, thiết
kế đồ họa, màu sắc và kiểu dáng phải tiện lợi sử dụng mà còn phải bảo đảm
được hàng hóa đến tay người tiêu dùng đầy đủ về số lượng, an toàn chất lượng
với thông tin chính xác về thành phần, cách bảo quản, thời gian sử dụng, đảm
bảo vệ sinh và giá cả hợp lý.
Ở nước ta bao bì ngày càng chiếm vò trí quan trọng, nhất là từ khi nền kinh
tế nước chuyển sang nền kinh tế thò trường. Nhưng nghành bao bì ở nước ta còn
rất nhỏ và hạn chế và nghành công nghiệp bao bì thực chất là nghành gia công
chất dẻo, giấy, kim loại để sản xuất các loại bao bì như: hộp giấy, thùng carton,
hộp kim loại, chai thủy tinh … Vì vậy, vấn đề nhập khẩu bao bì cần phải bỏ ra
một chi phí rất lớn mới có thể đáp ứng được những nhhu cầu về bao bì của thò
trường trong nước và xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 3/67

Vật liệu bao bì thực phẩm là tấ cả các loại vật liệu có thể dùng để sản xuất
ra bao bì phù hợp với yêu cầu của từng loại sản phẩm. Việc sử dụng một số loại
vật liệu nhất đònh để làm bao bì thực phẩm được xác đònh bằng mối tương quan
giữa 3 thành phần: Loại thực phẩm, Vật liệu, Bao bì.
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn này là khả năng chế biến từ vật
liệu thành bao bì đảm bảo độ cứng, bền, độ dẻo, chống thấm nước, thấm dầu
mở, xâm nhập không khí và quan trọng là giá thành không quá đắt.
Với những kiến thức đã được tiếp thu ở trường và xã hội, em nghó công nghệ
bao bì là một nghành có tiềm năng phát triễn rất lớn. Vì vậy em muốn tìm và đi
sâu hơn về nghành bao bì thực phẩm, mà tiêu biểu là bao bì kim loại dạng lon
ba mảnh. Em rất mong quý thầy cô và các bạn giúp đỡ em hoàn thành tốt bài
luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
















Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.


Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 4/67
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ BAO BÌ THỰC PHẨM.
1.1 Lòch sử phát triển của nghành công nghệ bao bì đồ hộp
Năm 1804, một người pháp tên là Appert đã biết chế biến thực phẩm đựng
trong bao bì thủy tinh sản xuất phục vụ trên tàu, du lòch.
Năm 1809 báo chí đã viết về ông và tác phẩm “Lart de fixer les saisons” và
đến năm 1810 đã được dòch qua nhiều thứ tiếng.
Năm 1810 một người anh tên là Pertet Durand dùng hộp sắt đựng thực phẩm
thay cho bao bì thủy tinh.
Năm 1825 việc sản xuất đồ hộp đã hình thành, hộp sắt đã được sản xuất
nhưng còn bằng phương pháp thủ công.
Năm 1849 người ta đã chế tạo được máy dập nắp hộp.
Trong suốt thời gian này, người ta chỉ biết rằng nguyên nhân hư hỏng thực
phẩm là do không khí mà chưa có cơ sở khoa học xác đònh.
Năm 1860 nhà phát minh Louis Pasteur (người pháp) về vi sinh vật và
phương pháp thanh trùng, mới thật sự đặt được cơ sở khoa học cho nghành công
nghiệp đồ hộp. Cũng từ đó nghành công nghiệp đồ hộp rất phát triển.
Năm 1861, biết dùng ron cao su làm vòng đệm trong nắp hộp.
Năm 1880 chế tạo được nồi thanh trùng đồ hộp.
Năm 1896 đã dùng bột cao su đặt biệt làm vòng đệm ở nắp hộp khi ghép mí
hộp. Nền công nghiệp đồ hộp phát triễn mạnh ở nhiều nước vào cuối thế kỷ 19
và đầu thế kỷ 20. Hiện nay trên thế giới có hơn 1000 mặt hàng đồ hộp khác
nhau. Các nước sản xuất đồ hộp phát triễn như: Mỹ, pháp, Nhật, Ý….
Ở nước ta từ thời thượng cổ, tổ tiên ta biết chế biến các loại bánh gói lá, các
loại giò chả nấu chín và đã bảo quản được một thời gian ngắn, những sản phẩm
đó cũng được gọi là đồ hộp.
Năm 1954 ta được Liên Xô và các nước giúp đỡ ta trong việc xây dựng một
số cơ sở chế biến đồ hộp tại miền bắc.
Năm 1957 nhà máy cá hộp Hạ Long, Hải phòng được xây dựng xong.

Năm 1958 bắt đầu thí nghiệm và sản xuất thử
Đầu năm 1959 bắt đầu sản xuất một số mặt hàng thòt cá, rau quả, hộp xuất
khẩu để phục vụ chiến trường. Cũng cùng năm ấy, xưởng chế biến chuối sấy
được xây dựng xong tại Hà Nội.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 5/67
Năm 1960 nhà máy cá hộp Hạ Long đã sản xuất được với năng xuất gần
bằng với năng xuất thiết kế.
Năm 1961 phát triển nhiều mặt hàng rau quả, thòt cá hộp.
Còn ở miền nam, mãi đến năm 1970 mới bắt đầu hình thành một số cơ sở
sản xuất đồ hộp, tại Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đến sau năm 1975 ngành công nghiệp đồ hộp ở miền nam được chú trọng
và phát triễn, sản xuất được nhiều mặt hàng thực phẩm có giá trò.
Cho đến nay, nước ta đã thí nghiệm nghiên cứu được hàng trăm mặt hàng và
đã đưa vào sản xuất có hiệu quả, đạt chất lượng cao. Trong đó có các mặt hàng
có giá trò trên thò trường quốc tế như: dứa, dưa chuột, nấm rơm đóng hộp…
Những vùng có nhà máy sản xuất đồ hộp thực phẩm: Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Đònh…
1.2 Những bước phát triển quan trọng trong sự phát triển của các loại hình
bao bì đang phổ biến hiện nay
1.2.1 Hộp bằng kim loại
Năm 1200 từ sự phát minh ra thép tráng thiếc, người ta có thể tạo ra các loại
hộp kim loại. Nhưng mãi đến năm 1764 mới xuất hiện ở Luân Đôn các loại hộp
nhỏ bằng kim loại để đựng thuốc lá. Đầu những năm 1830, diêm và bánh bích
quy đều được chứa đựng trong các hộp thép tráng thiếc. Một vài loại hộp được
thiết kế với các loại hình đặc biệt có ký tự nổi, những loại khác có nhãn hiệu
được in trên giấy rồi dán vào hộp. Khoảng giữa năm 1850 và 1900, kỹ thuật in
trên kim loại được phát triển. Những chiếc hộp ban đầu được thiết kế với 8-9
màu so với ngày nay là 4 – 6 màu. Ngày nay các loại hộp không được in nhiều

hơn năm màu do chi phí cao.
1.2.1 Lon kim loại
Các loại hộp hình trụ được thiết kế bởi Peter Durand vào năm 1810. Những
chiếc hộp đầu tiên được hàn bằng tay có chừa một lỗ đường kính khoảng 3-4cm
trên đỉnh. Sau khi thực phẩm được đưa vào qua lỗ, lỗ được đóng lại bằng cách
hàn một miếng thép. Có những trường hợp, một cái lỗ nhỏ được khoan để thoát
khí trong quá trình nấu và sau đó được hàn lại. Những người thợ có thể làm
được 60 cái/ ngày bằng phương pháp thủ công. Nhiều loại dụng cụ và kỹ thuật
lắp ráp được phát minh để làm cho công việc chế tạo lon được dễ dàng hơn.
Vào năm 1868, các loại vecni được chế tạo để phủ bên trong lon sắt, chống lại
sự ăn mòn lon bởi thực được chứa đựng và sự hư hỏng thực phẩm do nhiễm kim
loại từ bao bì .Phương pháp ghép mì lon có dùng các hợp chất hàn của Max
Ams được giới thiệu năm 1888, và vào năm 1900, đã ra đời các loại máy ghép
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 6/67
mí lon sắt có công suất 2.500 lon/giờ, từ đó lon được sản xuất từ năm 1922. Bên
cạnh đó, loại lon có hàn đáy và nắp vẫn được dùng cho đến ngày nay. Lon
nhôm được chế tạo để đựng các loại dầu nhờn vào năm 1957, và được dùng
làm bao bì cho sản phẩm bia kể từ năm 1963.
Những chiếc lon đầu tiên được mở bằng cách dùng đục và búa. Chiếc khóa
mở đồ hộp ( khui hộp) đầu tiên được sáng chế năm 1866, dựa trên nguyên tắc
đòn bẩy được giới thiệu năm 1875. Các loại nắp có thể xé được, được làm bằng
giấy nhôm đã xuất hiện vào những năm 1950. Ngày nay, các loại hộp đóng gói
chân không có loại nắp này thường được làm từ plastic cho phép hàn kín và mở
dễ dàng.
1.2.3 Chai và lọ thủy tinh
Đặc điểm của những chai lọ thế kỷ 17 và 18 là có cấu tạo đặc trưng để phân
biệt nhà sản xuất và các sản phẩm chứa bên trong. Chiếc máy đúc chai tự động
đầu tiên bằng phương pháp ly tâm được sản xuất lần đầu tiên năm 1889. Loại

máy hiện đại Owen có thể sản xuất 20.000 chai/ ngày
Dưới thời Nữ Hoàng Victoria (nước Anh ), các chai đựng dược phẩm có độc
tính cao được thiết kế đặt biệt. những chai lọ này được chế tạo để người sử
dụng có thể nhận biết những bất thường bằng sự cảm nhận bởi giác quan. Đặc
điểm này là biện pháp an toàn đầu tiên được sử dụng. Nắp chai cũng tiến một
bước dài từ dạng nắp gỗ chuốt nhọn và các loại nút bần được dùng từ năm 1000
trước công nguyên, theo Horac. Để đóng kín hơn, nắp chai được phủ sáp hoặc
nút bần vẫn được sử dụng cho chai đựng rượu cho đến nay. Vào giữa thập niên
1930, đã có nhiều thử nghiệm dẫn tới việc sử dụng nắp bằng cao su và nhựa PE
bắt đầu từ năm 1945; tiếp theo polycellyar vinyl được sử dụng vào năm 1957.
Những lớp bao phủ bằng nhôm được giới thiệu năm 1960. Loại mới nhất được
làm bằng nhôm và được thiết kế để có thể xé được vòng xoắn ở dưới, khi phần
này bò rời khỏi nắp cho thấy là chai đã được mở, thường được áp dụng trong
việc khằng các loại chai rượu hay nước giải khát.
Những sản phẩm nước uống đóng chai có nắp vặn bằng nhựa hoặc bằng kim
loại; loại chai miệng rộng được đóng bằng giấy sáp hoặc bằng lá kim loại. Các
loại nắp chặt hơn được làm bằng kim loại có đệm cao su. Ngày nay, đa số các
loại chai miệng rộng có nắp bằng thép vặn ren, và được bọc lớp platis dạng
màng co nhằm khằng sản phẩm.
1.2.4 Hộp bằng gỗ và bìa cứng
Từ những năm 1630 cho đến thế kỷ 19, các loại hộp được chế tạo thủ công
bằng các tấm gỗ mỏng hoặc giấy bìa cứng (carton), các loại nhãn hiệu được dán
bên ngoài thùng, hộp để quảng cáo, phân biệt.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 7/67
Ngày nay việc sản xuất hộp và thùng chứa bằng giấy đã trở thành một
ngành thương mại quan trọng. Năm 1817 việc sản xuất hộp bắt đầu ở Anh. Và ở
Mỹ đã bắt đầu sớm hơn vào năm 1810 tại Philadepha. Các loại hộp sản xuất ở
thời điểm đầu thường có dạng tròn vì khó tạo góc cạnh bằng phương pháp thủ

công.
Ngành làm thùng hộp carton bằng cơ giới bắt đầu vào năm 1855, dùng để
đựng thuốc và đựng kẹo.
Các loại hộp, thùng giấy đã giúp tiết kiệm được không gian rất nhiều trong
việc lưu trữ hàng hóa trong kho hay cửa hàng. Vào năm 1870, Robert Gair,
người đã thành công trước đó trong việc sản xuất giấy, đã phát minh ra máy cắt
và gấp nếp tự động. Vào những năm 1900, các loại ngũ cốc và bánh bích quy
được gói bằng các thùng carton có tráng sáp, và được in nhãn hiệu của sản
phẩm, các mẫu quảng caó.
1.2.5 Giấy gói
Cách bao gói bằng lá cây đã được dùng từ rất xa xưa để ngăn ngừa đất,
nước và các tác nhân gây hư hại đối với thực phẩm .Khoảng năm 1550, các loại
giấy gói đã được in tên của người sản xuất. Thuốc và thuốc lá được bán trong
các bao băng giấy vào những năm 1660 .Vào đầu những năm 1770, người ta đã
có thể mua đinh ghim, thuốc lá, trà và các chất dạng bổ trong các hộp giấy. Với
sự xuất hiện của giấy làm bằng máy và thuật in đá, các loại sản phẩm. Chẳng
bao lâu sau đó, các sản phẩm thực phẩm được phân biệt bằng nhãn hiệu thuận
tiện trong phân phối lưu kho tiêu thụ.
1.3 Đònh nghóa về bao bì thực phẩm
Bao bì là vật chứa đựng, bao bọc thực phẩm thành đơn vò để bán. Bao bì có
thể có nhiều lớp bao bọc, có thể phủ kín hoàn toàn hay chỉ bao bọc một phần
của sản phẩm.
1.3.1 Chức năng của bao bì: Bao bì có 3 chức năng chính
1.3.1.1 Đảm bảo số lượng và chất lượng
Bảo quản thực phẩm và đảm bảo chất lượng và số lượng thích hợp cho từng
sản phẩm khác nhau.
Bao bì cho sản phẩm được nguyên về trạng thái, cấu trúc và thành phần dinh
dưỡng sau quá trình chế biến, thời gian sử dụng thực phẩm sẽ được quyết đònh
bỡi bao bì, trong thời gian bảo quản thì thực phẩm được xem như biến đổi rất ít
so với ban đầu. Như thế bao bì sẽ giúp cho sản phẩm tránh được các tác động

Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 8/67
của môi trường như va chạm cơ học, vi sinh vật, nguồn nước, không khí, đất, bụi
đường …
Tác động cơ học: tránh va chạm, gây hư hỏng, vỡ cấu trúc làm mất khả năng
cảm quan.
Tránh tiếp xúc với môi trường bên ngoài.
- Không khí
 vi sinh vật: Phát triễn, sinh sôi tạo độc tố cho thực phẩm
 Hơi nước: Hàm ẩm thực phẩm tăng cao
Các phản ứng nhanh chóng, mất giá trò cảm quan (mất trạng thái cấu
trúc bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật phát triễn)
 Oxy: Oxy hóa chất béo
 Gây tổn thất vitamin
 Tổn thất mùi
- Nước: Thực phẩm hư hỏng ngay lập tức
Làm giảm giá thành sản phẩm
- Tác động của chính bản thân bao bì
 Chính bao bì gây nhiễm độc thực phẩm.
 Do bao bì ăn mòn bỡi thực phẩm.
 Bao bì nhiễm chất độc vào thực phẩm
- Bảo đảm chất lượng: Là sản phẩm trước khi đến tay người tiêu dùng chưa
được mở ra và lấy sản phẩm nào ra cả.
1.3.1.2 Bao bì là lời mời của nhà sản xuất với người tiêu dùng và là thông tin
cho người tiêu dùng
 Nói lên tính chất của sản phẩm:
 Trạng thái
 Cấu trúc.
 Thành phần sản phẩm

 Tính kinh tế:
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 9/67
 Tức là chúng ta sử dụng tiện lợi dựa trên nhu cầu kinh tế và sự cần thiết
với mục đích kinh tế: Sử dụng cho mình, quà tặng hay tập thể sử dụng.
1.3.1.3 Tạo sự thuận lợi về mọi mặt
Một sản phẩm khi mới sản xuất ra thì phải:
 Phân phối, chuyên chở nên cần có sự quản lý tốt
 Bao bì nhẹ sẽ chở được một lượng nhiều và giảm đi chi phí vận chuyển
ra nước ngoài.
Bao bì có hình dạng và đặc tính thích hợp với đặc tính bên trong không
còng kềnh hoặc quá nặng để bảo đảm chất lượng bên trong.
 Đáp ứng thò hiếu người tiêu dùng là dùng để ăn hay để dùng quà biếu.
 Ăn: Dễ mở ra, dễ sử dụng, thuận lợi cho việc tái dụng và tái mở.
 Biếu tặng: Bao bì hấp dẫn, thông tin chắc chắn, bảo dảm bao bì không bò
hư hỏng theo phương pháp bảo quản sản phẩm.

1.3.2 Nội dung ghi nhãn bắc buộc đối với bao bì thực phẩm
1.3.2.1 Tên sản phẩm
Tên gọi của thực phẩm phải thể hiện bản chất xác thực của sản phẩm đó.
Tên gọi cụ thể, không trừu tượng. Sử dụng tên gọi đã được xác đònh cho một
thực phẩm cụ thể trong tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) hoặc văn bản quy đònh
của nhà nước. Trong trường hợp chưa quy đònh thì sử dụng tên gọi của thực
phẩm đã được xác đònh trong tiêu chuẩn Codex hoặc Iso.
Phải ghi bên cạnh tên gọi của thực phẩm những từ ngữ hoặc nhóm chữ nhằm
xác nhận về bản chất thực của sản phẩm.
1.3.2.2 Liệt kê thành phẩm
Phải liệt kê các thành phẩm của thực phẩm trên nhãn trừ khi thực phẩm chỉ
có một thành phần.

Phải sử dụng một tên gọi cụ thể đối với từng thành phần khi ghi nhãn.
Thành phần là các chất phụ gia được ghi trên nhãn theo một trong các cách
sau:
 Tên nhóm và tên chất phụ gia
 Tên nhóm và mã số quốc tế của các chất phụ gia, mã số được đặt trong
dấu ngoặc đơn.
1.3.2.2 Ghi nhãn đònh lượng các thành phần
Ghi tỷ lệ phần trăm thành phần theo khối lượng của một hay nhiều thành
phần đặc trưng tại thời điểm sản xuất.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 10/67
Ghi nhãn thực phẩm nhằm nhấn mạnh hàm lượng của một hoặc nhiều thành
phần thì tỷ lệ ghi nhãn phần trăm thành phần đó theo khối lượng chứa trong
thành phẩm.
Ghi nhãn đối với thực phẩm dùng cho chế độ ăn kiêng.
Ghi nhãn giá trò dinh dưỡng của các thành phần dinh dưỡng.

1.3.2.3. Hàm lượng tònh và khối lượng ráo nước
1.3.2.4 Hàm lượng tònh phải được công bố trên nhãn ở nơi dễ thấy theo quy
đònh sau:
 Đối với thực phẩm sản xuất tron nước: Theo đơn vò đo lường hợp pháp
của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghóa Việt Nam.
 Đối với thực phẩm xuất nhập khẩu: Cho phép theo đơn vò đo lường quốc
tế hoặc đơn vò đo lường Anh-Mỹ.
 Theo đơn vò khối lượng hoặc thể tích đối với thực phẩm dạng set (nhớt).
 Đối với thực phẩm được bao gói trong một môi trường chất lỏng, phải ghi
khối lượng tònh.

1.3.2.5. Tên và đỉa chỉ nơi xuất

Phải ghi tên và đòa chỉ cơ sơ sản xuất và cơ sơ đóng gói nếu hai cơ sơ đó
khác nhau.

1.3.2.6 Nước xuất xứ
Nước xuất xứ của thực phẩm phải đươc ghi trên nhãn theo qui đònh sau:
 Thực phẩm trong nước phải ghi rõ “sản xuất tại Việt Nam”.
 Thực phẩm nhập khẩu phải ghi rõ tên nước sản xuất .
 Thực phẩm tái chế tại một nước thứ hai làm thay đổi bản chất của thực
phẩm đó, thì nước thứ hai được coi là nước xuất xứ để ghi nhãn.
1.3.2.7 Ký hiệu lô hàng
Trên kiện hàng phải ghi rõ kí mã hiệu lô hàng để nhận biết về cơ sở sản
xuất và lô hàng thực thẩm đó
1.3.2.8 Số đăng ký chất lượng
Đối với thực phẩm sản xuất tiêu dùng trong nước nằm trong danh mục
phải đăng ký chất lượng tại cơ quan có thẩm quyền, trên nhãn phải phải ghi rõ
số đăng ký chất lượng của sản phẩm.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 11/67
1.3.2.9 Thời gian sử dụng hướng dẫn bảo quản
Thời hạn sử dụng ghi như sau:
 Thời gian sử dụng tốt nhất
 Thời gian phải được ghi rõ bằng cụm từ:
“ Sử dụng tốt nhất trước … và…
 Ghi thời hạn phải bao gồm:
 Ngày, tháng, năm đối với sản phẩm có thời hạn sử dụng tốt nhất không
qúa 1 tháng.
 Tháng, năm đối với sản phẩm có thời hạn sử dụng tốt nhất trên 3 tháng.
 Ngày tháng, năm được ghi theo dãy số không hóa mã, với 3 nhóm mỗi
nhóm gồm 2 chữ số cách nhau dấu chấm để thể hiện ngày, tháng và

năm.
 Phải ghi thời hạn ở nơi dễ thấy hoặc ghi rõ nơi ghi thời hạn trên bao bì.
1.3.2.10 Hướng dẫn sử dụng
Phải ghi rõ hướng dẫn sử dụng đối với sản phẩm cần hướng dẫn trước khi sử
dụng kể cả tái tạo sản phẩm khi dùng để bảo đảm không gây sai sót trong sử
dụng.
1.4 Mối quan hệ giữa bao bì và chất lượng thực phẩm.
1.4.1 Dinh dưỡng
Bao gồm các thành phần: Nước, protein, acid amin, tinh bột, đường, lipit,
vitamin, khoáng…
Tùy theo nguồn nguyên liệu, phương pháp chế biến mà thực phẩm chứa
những thành phần dinh dưỡng chủ yếu khác nhau
Ví dụ: Thực phẩm từ rau quả sẽ có thành phần gluxit như tinh bột đường khử,
khoáng, cellulose, và vitamin cao. Thực phẩm từ nguồn động vật có hàm lượng
protein cao và acid amin cao, và cũng có thể hàm lượng lipit cũng cao, cung cấp
những acid béo cao không no rất cần thiết cho hoạt động của cơ thể người.
Các thành phần khoáng trong thực phẩm như Na, K, Ca, Mg, Mn, Fe, Cu, Zn,
… rất cần thiết đối với cơ thể.
Thực phẩm dinh dưỡng là thực phẩm có chứa phần lớn các thành phần mang
tính dinh dưỡng từ nguồn nguyên liệu, và các thành phần này không bò biến đổi
đặc tính hoặc chỉ biến đổi một phần.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 12/67
1.4.2 An toàn vệ sinh thực phẩm
Tính an toàn vệ sinh thực phẩm bao hàm ý nghóa: thực phẩm không gây độc
hại cấp tính cũng như mãng tính cho người sử dụng. Các độc tố có nguồn gốc
hóa học hoặc vi sinh từ nguồn nguyên liệu ban đầu, hay được tạo ra trong quá
trình chế biến phải được loại trừ đến mức thấp hơn giới hạn cho phép tương ứng
với từng loại thực phẩm. Trong quá trình bảo quản phân phối sản phẩm cũng

phải đảm bảo tính an toàn vệ sinh.
Sản phẩm thực phẩm có thể bò hư hỏng, giảm chất lượng, mất đi sự an toàn
đối với người tiêu dùng do nhiều nguyên nhân:
 Vi sinh vật nhiễm vào thực phẩm trong quá trình chế biến, đóng bao bì,
từ bao bì nhiễm vào thực phẩm hoặc từ môi trường thông qua bao bì đi
vào thực phẩm.
 Tác nhân vi sinh vật sẽ tăng sinh khối trên môi trường thực phẩm, sử
dụng và làm biến đổi các tính chất dinh dưỡng của thực phẩm, đồng thời
gây ra độc tố làm mất giá trò cảm quan, giảm nhanh thành phần dinh
dưỡng và tạo ra các độc tố có thể gây bệnh cấp tính hoặc mãng tính cho
người sử dụng.
 Các kim loại nặng như As, Hg, Pb, Sb … từ bao bì, vật liệu polyme, chất
màu tổng hợp hữu cơ hay vô cơ để nhuộm màu và in lên bao bì, từ bao bì
kim loại bò ăn mòn hoặc từ các monomer hữu cơ, các phụ gia trong quá
trình chế tạo plastic nhiễm vào thực phẩm đều có thể gây ngộ độc mãng
tính cho người sử dụng.
1.4.3 Cảm quan thực phẩm
Tính chất cảm quan bao gồm cấu trúc, trạng thái, màu sắc, mùi vò sản phẩm,
cũng chính là các đặc tính để tạo nên một dáng vẻ mỹ quan cho thực phẩm, tạo
nên khẩu vò đặc trưng thích hợp cho đối tượng tiêu dùng.
Nhiệm vụ của ngành công nghệ thực phẩm là nghiên cứu chế biến, tạo nên
sản thẩm thực phẩm đạt chất lượng.
Thực phẩm đạt chất lượng là thực phẩm đạt được các mức tiêu chuẩn về
dinh dưỡng, an toàn vệ sinh và cảm quan.
Thực phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng có nghóa là đạt một số chỉ tiêu dinh
dưỡng đúng với chủng loại thực phẩm đó đã công bố hoặc đã đạt qui đònh của
bộ y tế.

Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.


Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 13/67
CHƯƠNG 2: CÁC NGUYÊN LIỆU CHÍNH VÀ QUI TRÌNH SẢN XUẤT
LON 3 MẢNH.
2.1 Các nguyên liệu chính trong qui trình sản xuất lon 3 mảnh
2.1.1 Sắt
2.1.1.1 Sắt trắng
Sắt trắng hay còn gọi là thép tây lá mỏng được mạ thiếc cả hai mặt. Lá thép
được dát mỏng bằng hai phương pháp:
 Dát nóng: Thép dát nóng có độ dày không đồng đếu và có nhiều khuyết
điểm trên mặt, thường dùng làm bao bì gián tiếp.
 Dát nguội: Thép dát nguội có độ đàn hồi tốt hơn, độ dày đều hơn, phẳng
hơn nên thường dùng bao bì đồ hộp.
 Các thành phần khác trong thép:
 Cacbon không quá 0.17%
 Mangan không quá 0.5%
 Silic không quá 0.03%
 Lưu huỳnh không quá 0.15%
 Phospho không quá 0.09%
Người ta mạ thiếc bằng phương pháp tráng nóng hay mạ điện. Sắt tráng nóng
có lớp thiếc dày 4µm một mặt nên có thể sơn hay không sơn vecni, emai. Sắt mạ
điện có lớp thiếc mỏng hơn 0.6 – 0.7µm nên thường phải có màng vecni hay emai
bảo vệ.
Phẩm chất của sắt trắng được đánh giá theo lượng thép tráng và trạng thái bề
mặt. Tùy theo lượng thiếc tráng ta chia sắt làm 3 cấp: Cấp 1, cấp 2, cấp.
Người ta chỉ dùng sắt cấp 1 và cấp 2 để làm bao bì đồ hộp.
 Theo trạng thái bề mặt lá sắt người ta chia làm 3 loại: Loại 1, loại 2,
loại 3 nhưng chỉ dùng loại 1 và 2 để làm bao bì đồ hộp sắt:
 Loại 1 cho phép (trên một lá sắt):
 Rách ở rìa tới 1,5mm sâu vào trong.
 Không quá 3 chấm đen có đường kính không quá 1mm, những

khuyết điểm này không được phá hoại hoàn toàn lớp thiếc.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 14/67
 Thiếc nỗi trên rìa không quá 3mm.
 Hơi mờ đục trên những chỗ khác nhau của lá sắt.
 Loại 2 cho phép:
 Hai mép công lên không quá 2mm hoặc bò mất góc với kích
thướt như loại 1.
 Thiếc bò tróc không quá 3 chỗ, đường kính mỗi chỗ không quá
2mm.
 Chấm đen không quá 5, đường kính 1mm trở lại.
 Thiếc nỗi trên rìa không quá 4mm.
 Có những vết rỗ lốm đốm nhẹ của thiếc trên các lỗ khác nhau
của lá sắt.
 Không quá 3 vết xước, nhưng không được phá hoại lớp mạ.
2.1.1.2 Sắt đen

Để tiết kiệm sắt, người ta dùng sắt đen (không mạ thiếc) có sơn vecni, chủ
yếu đựng một số đồ hộp.
Có 4 hiệu sắt đen sơn vecni cả 2 mặt có độ dày tổng cộng 7 – 14µm.
Số hiệu Độ dày
27
31
32
34
0.25 – 0.28mm
0.27 – 0.3mm
0.29 – 0.32mm
0.33 – 0.31mm

Bảng 1: Phân loại sắt đen.
Làm thành cuộn có chiều rộng (mm): 93, 120, 175, 180, 220, 239, 314, 321.
Gần dây để tiếc kiệm thiếc nhưng vẫn đảm bảo hình thái đẹp của vỏ hộp,
người ta mạ điện mỏng theo yêu cầu sử dụng: Thân hộp mặt trong tráng
0.227kg/BB, mặt ngoài tráng 0.114kg/BB, còn nắp chỉ tráng 0.114kg/BB cho mỗi
mặt.
2.1.2 Vecni
Đối với một số loại đồ hộp phải sử dụng vecni chống chua hay chống đạm để
tránh hiện tượng ăn mòn bao bì sắt.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 15/67
Vecni là một loại sơn tổng hợp, đi từ các hợp chất cao phân tử.
 Các loại vecni thực phẩm phảm phải có các tính chất sau:
 Không có chất độc, không gây mùi vò màu sắc lạ cho sản phẩm
 Không có tác động hóa học đối với sản phẩm
 Có tác dụng chống ăn mòn tốt
 Chòu được áp suất và nhiệt độ cao
 Tạo thành lớp mỏng khi sơn
 Tiện gia công: Dung mội bay hơi nhanh, nhiệt độ sấy không cao lắm
 Có các loại vecni như sau:
 Vecni dầu có chứa nhựa, dầu và dung môi
 Vecni griptalic gồm có nhựa griptalic, dầu mau khô và dung môi
 Vecni griptalic và phenol
 Vecni có nhựa trùng hợp như polivinilbutiril, policloruavinil…
 Vecni chống đạm hoặc chống lưu huỳnh còn gọi là emai gồm vecni
và bột kẽm oxit.
 Công thức pha chế gồm:
 ZnO được dùng 10%
 Nhựa 617 87%

 Rượu butilic 3%
Khi tác dụng nhệt, hợp chất lưu huỳnh trong Protit thoắt ra dưới dạng H
2
S
phản ứng với sắt và với thiếc tạo ra FeS và SnS có màu đen. Sắt sunfua và thiếc
sunfua với hàm lượng thấp không ảnh hưởng tới thực phẩm, nhưng làm cho mặt
trong vỏ hộp sắt bò đen, hình thức xấu. Nếu trỗn kẽm oxit vào vecni thì khi H
2
S
tác dụng sẽ tạo ra ZnS ở ngay trong màng vecni. ZnS có màu trắng, rất ít tan
trong môi trường trung tính nên không độc cho thực phẩm và đảm bảo được hình
thức của đồ hộp.
Chỉ tiêu Vecni chống chua Vecni chống đạm
- Màu Vàng nâu Trắng tro
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 16/67
Chỉ tiêu Vecni chống chua Vecni chống đạm
- Độ trong

Trong suốt Nữa trong suốt
- Độ nhớt (BZ-4 ở
250C) đo theo
nhớt kế BZ
20 – 30s

50 – 70s


- Độ mòn



Không tạp chất

<25µm
- Thời gian sấy 45ph/178 – 180
0
C 30ph/160 – 170
0
C

- Độ dẻo


Chòu uốn gấp trên miếng
sắt dày 1mm

Tương ự

- Độ chòu dập


Chòu được vật rơi 1kg đặt
ở độ cao 50cm có diện
tích tiếp xúc Þ80mm mà
không tróc.
Tương tự




- Độ bền hóa học

Vẫn tốt trong dung dòch
acid axetic 3% đun sôi
trong 2 giờ.
Vẫn tốt trong dung dòch
Na
2
S.9H
2
O 1% đun sôi
trong 2h hay 121
0
C trong
30 phút.
Bảng 2: Các loại vecni đều phải đáp ứng các chỉ tiêu sau
 Có 2 phương pháp tạo thành màng vecni: Phương pháp phun và
phương pháp in.
 Theo phương pháp phun người ta đem vecni pha loãng với dung môi rồi
đem phun lên vỏ hộp. Phương pháp này tốn nhiều vecni
 Hiện nay người ta dùng phương pháp in là chủ yếu. in lên tấm sắt trước
khi làm vỏ hộp.
Sau khi tạo thành màng phải sấy khô ở nhiệt độ thích hợp để làm bay hơi
dung môi và để làm cho màng vecni cứng lại. Phương pháp gia công có ảnh
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 17/67
hưởng đến chất lượng màng vecni: Phải tráng mỏng nhiều lần (2 – 3 lần), sấy ở
nhiệt độ thích hợp, không nên tráng dày 1 lần và rút ngắn thời gian sấy bằng cách
tăng nhiệt độ sấy, làm cho độ bám và độ bền cơ học giảm.

STT
Loại và các thành
phần phụ của vecni
Công dụng Ghi chú
1 Oleo resine (nhựa
tổng hợp + dầu khô
Thực phẩm có hàm
lượng acid cao
Sử dụng phổ biến, giá
thành thấp
2 Oleo resine có thêm
ZnO
Các loại rau quả, làm
lớp bảo vệ ngoài cho
vecni epoxyt phenolic
Không dùng với thực
phẩm có hàm lượng acid
cao
3 Phenolic
(Formandehyt +
phenol)
Thòt cá, xúp, rau quả,
nước giải khát, bia
Giá thành thấp nhưng phải
dùng màng có độ dày
tương đối cao do tính dẻo,
bám dính không cao.
4 Epoxyt phenolic
(phenol resine +
epoxyt resine)

Thòt cá, rau quả, nước
giải khát, bia, làm lớp
phủ bên ngoài cho 1 số
vecni khác
Được sử dụng phổ biến
5 Epoxyt phenolic có
thêm ZnO
Phủ lên bao bì chứa
rau quả, xúp, tráng
đáy & nắp lon cho sản
phẩm thòt cá
Thực phẩm có tính acid
thấp, chòu môi trường kiềm
kém có thể làm biến màu
rau quả xanh
6 Vinyl (vinyl clorua +
vinyl acetat)
Bia, nước giải khát,
phủ ngoài cho các
vevni khác
Không mùi, không dùng
phủ thực tiếp lên thép mà
chỉ để phủ bên ngoài vì
không chòu được nhiệt độ
cao khi hàn thân
7 Vinyl organosol Làm lớp phủ ngoài cho
các vecni khác, đối với
bao bì đựng bia nước
giải khác lon nhôm
Giống như vilyl nhưng cho

độ dày hơn và cứng hơn
8 acrylic Thực phẩm có chứa
hoặc sót lại SO
2
từ quá
trình sử lý
Cho vẻ sáng đẹp khi mở
hộp
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 18/67
STT
Loại và các thành
phần phụ của vecni
Công dụng Ghi chú
9 polybutadien Làm lớp tráng cho hộp
đựng bia, nước giải
khát nếu có ZnO thì
dùng làm lớp phủ cho
bao bì chứa rau quả.




Bảng 3 : Tính chất và công dụng một số loại vecni phủ bao bì thép tráng
thiếc.
2.1.3 Lớp đệm
Để cho mối ghép hoàn toàn kín người ta dùng lớp đệm hay vòng đệm. Lớp
đệm được tạo thành bằng cách phun một loại bột đặc cao su hòa tan vào vành
nắp các loại hộp sắt tròn rồi sấy khô. Với các loại hộp sắt khác và hộp thủy tinh

người ta dùng vòng đệm cao su. Có nhiều loại bột cao su có thành phần và dung
môi khác nhau:
 Bột cao su của Đức có dung môi là aceton
 Của Liên Xô là nước – amoniac và xăng
Các lớp đệm không được chứa các hợp chất chì, asen, thủy ngân và các hợp
chất bari hòa tan trong acid.
Người ta phun bột cao su lên vành nắp rồi sấy khô trong 18 – 20ph, nhiệt độ
nâng dần lên 70
0
C. Độ ẩm của lớp đệm không quá 2%. Cứ 1cm đường kính của
hộp cần phun một lượng bột cao su là 1 – 2mg.
Lớp đệm phải được thanh trùng ở 121
0
C trong 2 giờ.
Nếu bảo quản ở nhiệt độ 25-29
0
C, độ ẩm 80-85% lớp đệm sẽ giữ được
nguyên tính chất trong một năm. Bột cao su nước – amoniac bảo quản ở 5 – 15
0
C
trong 1 năm, bột cao su – xăng, cao su – axeton bảo quản ở 0 – 15
0
C và chống
lửa. Vòng đệm cao su làm bằng cao su tự nhiên không lưu hóa, có tiết diện chữ
nhật khoảng 1mm
2
, vòng đệm cao su phải đàn hồi, kéo giãn được 40% chiều dài
ban đầu, chòu được phun nóng 121
0
C trong 30 phút, khi làm nguội trong không khí

không làm biến dạng tiết diện, không dòn, không gây mùi vò lạ khi đun nóng 30
phút trong dung dòch acid, đường, muối,…không tan trong dầu, mỡ.
Các nút đệm của chai lọ làm từ cao su hay chất trùng hôp. Nút đệm phải giữ
được tính đàn hối sau khi thanh trùng và tiếp tục bảo ôn ở 70
0
C trong 3 ngày, chòu
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 19/67
được tác dụng của dầu mỡ, không chất độc, không gây màu mùi vò lạ cho sản
phẩm.
2.1.4 Hộp kim hàn
Để hàn thân hộp, người ta dùng thiếc hàn 40% thiếc và 60% chì, với yêu cầu
tạp chất của chì trong đó có asen không qúa 0.5%, của thếc không quá 1.5%.
Thiếc hàn được chế tạo như sau: Đun chảy thiếc trong chảo gang (trên bếp lửa
hay bếp điện) khi trên mặt thiết nóng chảy có lớp váng (tức là thiếc oxit) thì cho
chì dần dần vào, khuấy cho tan hết và hòa đều vào, rồi đổ khuôn dài 20 – 40cm,
rộng 1-3 cm, dày 0.3 – 0.5cm.
2.1.5 Nước hàn
Để cho thiếc bám chặt vào vỏ hộp sắt, phải tẩy sạch dầu, mở tạp chất bằng
nước hàn, nước hàn dùng trong sản xuất vỏ đồ hộp phải đạt yêu cầu:
 Hòa tan hoàn toàn hết các chất béo và oxit kim loại, đảm bảo bề mặt hàn
sạch sẽ.
 Không có tác dụng ăn mòn mạnh kim loại
 Không tạo các vết ố trên bề mặt vỏ hộp
 Không có vọ bọ trên vết hàn
 Không có chất độc hại làm ảnh hưởng đến đồ hộp
 Nếu còn động lại trên vỏ hộp thì dễ rửa bằng nước nóng.

 Trong ngành đồ hộp thường dùng nước hàn như sau

 Nhựa thông: là dung dòch nhựa thông trong cồn theo tỷ lệ nhựa
thông/cồn là 1/8.33. Nước hàn hàn nhựa thông dễ pha, rẻ tiền,
nhưng vết hàn khó rửa vì nhựa thông bám vào hộp khá chặt.
 Axit oleic: Cứ 1 lít cồn 90
0
trộn với 50 – 100g axit oleic. Loại nước
này có tác dụng lên kim loại mạnh hơn nhựa thông.
 Clorua: làm từ kẽm clorua và amon clorua, thường pha theo 2 công
thức:
Côngthức 1 Công thức 2
Kẽm clorua
Amoniclorua
Nước

100g
300g
1200g
75g
25g
102g
Bảng 4: các công thức pha chế clorua làm bao bì.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 20/67
Loại nước này có nhiều ưu điếm: tẩy sạch vết bẩn, không ăn mòn mạnh kim
loại, không làm bẩn hộp, dễ tẩy rửa sau khi hàn.
 Ứng dụng của bao bì kim loại trong công nghệ sản xuất rau quả:
Bao bì sắt tráng thiếc có đặc điểm là chòu được nhiệt độ thanh trùng, tiệt trùng
cao nên thích hợp để đựng những loại rau quả chế biến được thanh trùng hoặc tiệt
trùng có thời gian bảo quản rất lâu. Tuy nhiên còn tùy bào đặc tính của từng sản

phẩm mà ta còn phải chọn bao bì cho thích hợp.
Đa số các sản phẩm đều được đựng trong bao bì có sơn vecni nhất là các sản
phẩm có pH thấp hay sản phẩm muối.
 Các loại bao bì đổ hộp phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
 Không gây độc cho thực phẩm, không làm cho thực phẩm biến đổi
chất lượng, không gây mùi vò, màu sắc lạ cho thực phẩm.
 Bền đối với tác dụng của thực phẩm
 Chòu được nhiệt độ và áp suất cao
 Truyền nhiệt tốt, chắc chắn, nhẹ
 Dễ gia công, rẻ tiền
 Hình thức hấp dẫn, thích hợp với sản phẩm
 Sử dụng, vận chuyển, bảo quản tiện lợi













Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 21/67
2.2 Quy trình chế tạo thân lon 3 mảnh


























Nguyên liệu
Rửa lớp dầu, sấy khô
Phủ sơn bóng và sấy khô
In nhãn hiệu
Cắt thân lon
Hàn mí thân

Loe miệng
Phủ vec-ni
Ghép mí và đáy thân
Sấy
Tách lon
sơn
Dung
môi hữu
cơ (bốc
hơi)
Sản phẩm thân
ghép đáy
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 22/67
2.2.1 Thuyết minh qui trình
2.2.1.1 In và tráng vec-ni
Một bề mặt của tấm thép được in nhãn hiệu, sau đó có thể được phủ vec-ni
bảo vệ cả hai bề mặt hoặc chỉ phủ một mặt không in là bề mặt trong đựng thực
phẩm hoặc không phủ cả hai mặt, tùy theo yêu cầu sản phẩm việc in được thực
hiện hàng loạt nhằm tạo nhẵn hiệu cung cấp thông tin cho từng loại sản phẩm,
đồng thời cũng tạo nên lớp chống oxi hóa từ bên ngoài tạo nét đẹp cho bao bì.
Tráng vec-ni nhằm chống sự oxi hóa, sự ăn mòn lớp thiếc tiếp xúc trực tiếp
với thực phẩm chứa trong bao bì. Tùy loại sản phẩm chứa đựng mà sử dụng lớp
vec-ni thích hợp nhằm không làm ảnh hưởng đến thực phẩm, và cũng không
gây hư hỏng lớp vec-ni này. Lon thực phẩm ta thường dùng vec-ni epoxy
phenolic. Trường hợp lon đưng thòt cá thì cần tráng vec-ni có đưa vào bột Ti
2
O
hoặc AL để hấp thụ khí H

2
S thường sinh ra khi tiệt trùng thòt cá đóng hợp.
2.2.1.2 Cắt sắt
Thép tấm nguyên liệu sau khi được in nhẵn hiệu và tráng vec-ni được đưa
qua máy cắt mảnh hình chữ nhật theo kích thướt lon mà ta cần sản xuất.
 Tấm thép nguyên liệu được cắt như sau:
 Giai đoạn 1: Tấm sắt nguyên liệu được cắt thành nhiều tấm nhỏ
có bề rộng bằng chiều cao lon.

Tấm sắt nguyên liệu Cắt lần 1
 Giai đoạn 2: Tấm sắt đã cắt lần 1 lại được cắt thành từng miếng
nhỏ có chiều dài chính là chu vi của đáy lon.

Tấm sắt cắt lần 1 Tấm sắt cắt lần 2
 Giai đoạn 3: tạo mí thân để ghép mí thân

Hình triễn khai của thân trụ Tạo mí thân
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 23/67
2.2.1.3 Hàn
Mảnh thép tạo thân lon được hàn ghép mí theo chiều cao lon, mối hàn càng
mòn thì càng tốt vì ngoài việc tạo mối hàn đẹp còn tạo cho mối hàn thân lon
được chặt khích không có khe hờ.
Sử dụng phương pháp hàn điện đa tần tạo dòng điện cường độ cực cao
khoảng 4000-6000A, hàn theo nguyên lý cứ mỗi bán sóng thì tạo một nhân giọt
hàn.
Khác với công nghệ hàn thông thường, phương pháp hàn cao tần tạo ra một
bước sóng sau ½ chu kỳ,hàn cao tần tạo được càng nhiều bán sóng trên ½ chu
kỳ thì càng tạo nhiều nhân giọt hàn làm tăng độ mòn của mối hàn.

 Hiện nay có nhiều công nghệ hàn như sau:
 Công nghệ hàn bướm: có tần số nhỏ khoảng 100Hz, công nghệ này có
mối hàn tương đối lớn ( >1mm).
 Công nghệ wima: có tần số lớn hơn 100Hz, tạo mối hàn mòn hơn so với
hàn bướm (<0,6mm).
 Công nghệ supper wima: có tầng số từ 400-800Hz, có mối hàn rất mòn từ
0,4-0,6mm.
2.2.1.4 Phủ vec-ni trong và ngoài mối hàn
Trong quá trình hàn lớp thiếc ở nơi mối hàn bò chảy ra chỉ còn lại lớp sắt, do
đó ta phải tráng lớp vec-ni trong và ngoài mối hàn nhằm tránh sự ăn mòn của
sản phẩm chứa trong nó đồng thời chống sự oxi hóa từ bên ngoài.
2.2.1.5 Tách lon
Giai đoạn này chỉ tiến hành khi sản xuất loại lon có chiều cao nhỏ hơn 9cm,
vì ở máy hàn chỉ hàn được những lon có chiều cao lớn hơn. Do vậy, những lon
có kích thướt nhỏ hơn 9cm thì được thực hiện hàn 2 hoặc nhiều lon một lần sau
đó tách lon.
2.2.1.6 Loe
Đây là giai đoạn viền miệng lon tạo gờ để chuẩn bò cho quá trình ghép mí.
2.2.1.7 Ghép mí
Ghép mí thân đáy, thân và nắp là giai đoạn quan trọng quá trình sản xuất đồ
hộp, đây cũng có thể là một trong những nguyên nhân gây phế phẩm đồ hộp.
Lon thực phẩm phải được ghép mí thật kín để tạo nên bao bì kín nếu ghép
mí không tốt thì tạo phế phẩm đồ hộp, vì vậy việc thanh trùng sẽ không còn ý
nghóa.
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 24/67
Mối ghép thân bò lệch do sự sai lệch độ vuông gốc của tấm sắt nguyên liệu,
thường mức sai lệch cho phép là 2%, sự sai lệch này thường dẫn đến hư hỏng
mối ghép mí thân và nắp đáy.

Trầy sướt lớp vec-ni: các thiết bò, máy móc ma sát với tấm sắt trong quá
trình cuống thân, ghép mí do đó sau khi ghép mí đáy và thân lon lại được phủ
vec-ni ở những vò trí mối ghép, nhằm tăng tính an toàn cho lon, chống sự ăn
mòn của thực phẩm và cả môi trường ngoài.
2.2.2 Quy trình công nghệ chế tạo nắp hoặc đáy lon 3 mảnh




















Nguyên liệu thép
tấm tráng thiếc
Rửa lớp dầu, sấy khô
Tráng vec-ni
Cắt sắt đònh hình

Sấy ở 210
0
C
Dập gân và móc
Viền nắp
Phun keo
Sấy ở 60
0
C
Nắp hoặc đáy
Huế: 11/09/2009 www.phongviet.com.vn.

Nguồn: Đặng Trung Lập. Trang 25/67
2.2.3 Thuyết minh qui trình
2.2.3.1 Sắt nguyên liệu
Thép tấm nguyên liệu đưa vào chế tạo nắp và đáy lon có độ dày cùng với
thép nguyên liệu chế tạo thân lon.
Tráng vec-ni trong và ngoài
Thép tấm nguyên liệu được tráng vec-ni một hoặc cả hai mặt trong và ngoài
tùy theo yêu cầu. đối với trường hợp cần phủ cả hai mặt thì có thể tráng cùng
loại vec-ni, hoặc ở mặt ngoài ta dùng vec-ni có độ sáng hơn nhằm tạo vẻ mỹ
quan cho sản phẩm. Lớp vec-ni bên ngoài chống oxy hóa từ môi trường, bảo
quản bề mặt ngoài đồ hộp theo thời gian.
Mặt trong của thân lon và mặt trong của nắp lon được tráng cùng một lớp
vec-ni.
2.2.3.2 Sấy khô
Thép tấm nguyên liệu sau khi tráng vec-ni được sấy khô để làm bốc hơi
hoàn toàn dung môi tạo nên lớp nhựa rắn chắc trong suốt, bám dính vào bề mặt
thiếc.
2.2.3.3 Cắt tạo nắp và đáy

Đây là giai đoạn cắt đònh hình. Tại đây tấm sắt nguyên liệu được cắt thành
những miếng tròn có kích thướt phù hợp với nắp và đáy đã được thiết kế theo
kích cỡ hộp.
2.2.3.4 Dập
Giai đoạn dập gân và móc nắp, gân nắp để tạo tính giản nở của nắp theo sự
giản nở của khí trong hộp khi thanh trùng, tiệt trùng sản phẩm.
2.2.3.5 Viền
Viền nhằm tạo đường cong ở viền nắp giúp cho việc tạo móc nắp trong quá
trình ghép mí được dễ dàng.
2.2.3.6 Phun keo
Để đảm bảo độ kín hoàn toàn của lon thành phẩm sau khi đã ghép mí đáy
cũng như nắp, một lớp cao su đàn hồi được phun vào viền nắp để tạo vòng đệm
cho đáy hoặc nắp, sau khi ghép mí đáy và nắp trở nên chặt khích vào thân lon.
2.2.3.7 Sấy khô
Đệm cao su ở viền nắp, đáy được sấy khô ở 60
0
C nhằm làm khô lớp đệm
này. Đây là giai doạn cuối cùng của quy trình làm nắp, đáy lon.

×