Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Di tích Óc Heo và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.8 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HĨA


T



<b>DI TÍCH ĨC EO VÀ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY </b>


<b>CÁC GIÁ TRỊ VĂN HĨA</b>



<b>PHẠM NGỌC HỊA</b>


<b>Tóm tắt</b>


<i>Những kết quả nghiên cứu về nền văn hóa Ĩc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu hơn về lịch sử, văn </i>
<i>hóa dân tộc. Có thể nói, việc khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa Óc Eo được xem là một trong </i>
<i>những thành tựu lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Tuy nhiên, trong thời kỳ </i>
<i>hiện nay, các khu di tích văn hóa Ĩc Eo đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại, thậm chí mai một. Việc </i>
<i>bảo tồn các khu di tích đã trở nên cấp bách, đòi hỏi các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương, </i>
<i>đặc biệt là ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự quan tâm sâu sắc.</i>


<b>Từ khóa: An Giang, bảo tồn, giá trị di sản, văn hóa Ĩc Eo </b>


<b>Abstract</b>


<i>The results of researches on Oc Eo culture have helped us to get more knowledge about the history </i>
<i>and culture of the nation. It can be said that the discovery of Oc Eo cultural relics and relicts is </i>
<i>considered one of the greatest achievements of Vietnamese archeology during over 70 years. However, </i>
<i>at present, the Oc Eo cultural relics are facing the risk of being harmed, even lost. The conservation of </i>
<i>those relics has become urgent, which requires deep concerns of the leaders from the central to local </i>
<i>levels, especially the cultural sector and authorities.</i>


<b>Keywords: An Giang, conservation, heritage values, Oc Eo culture </b>



<b>1. Văn hóa Óc Eo và những kết quả nghiên </b>
<b>cứu tại An Giang</b>


rên vùng đất đồng bằng sơng Cửu
Long ngày nay đã có hàng nghìn tên
đất, tên sông, tên núi, tên đồi, tên
làng ấp, tên thị thành khác nhau. Những tên
ấy, có số lượng nhiều nhất, được biểu thị bằng
những từ Việt hoặc Hán Việt; còn lại, một số
tên được biểu thị bằng từ Khơme và từ Chăm.
Chúng là những dấu ấn cụ thể gợi lên hình ảnh
thật phong phú, đặc sắc của quá trình tụ cư,
khai phá đất đai, lập làng, dựng chợ của cộng
đồng người Kinh, người Khơme, người Hoa,
người Chăm ở nơi đồng bằng màu mỡ này.
Bên cạnh những tên gọi, những từ thân quen
và dễ nhận thức ấy, có một và chỉ một địa danh
thật lạ, không phải tiếng Kinh, không phải từ
Khơme, cũng không phải từ Hoa hoặc Chăm.
Địa danh ấy được quen gọi là Ĩc Eo. Đó là tên


một gò đất lẫn đá nổi trên mặt cánh đồng phía
đơng nam núi Ba Thê. Tên này vốn có từ lâu và
đã truyền lưu qua nhiều thế hệ mà ngày nay,
khơng ai biết xuất xứ của nó nữa. Về ngữ nghĩa
của cái tên Óc Eo, mọi người cũng không hề hay
biết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA



dân địa phương thường thấy ở đây những ánh
sáng lạ phát ra vào ban đêm mà khơng hiểu
vì sao. Câu chuyện về từ Ĩc Eo hẳn cịn nhiều
tranh luận song một điều chắn chắn là, tên Óc
Eo vốn từng là một địa danh đã tồn tại trong
lịch sử cư dân vùng đồng bằng sơng Cửu Long.


Nhìn về lịch sử, chúng ta thấy rằng Óc Eo là
một nền văn hóa lớn, gắn liền với đất nước, con
người châu thổ vùng đồng bằng sông Cửu Long;
đồng thời, nó cịn có mối quan hệ mật thiết với
lịch sử Đông Nam Á thời cổ. Đây là một vùng đất
cổ, dân cư đã tập trung từ cuối thời đại đá mới
hay sơ kỳ thời đại kim khí, họ được ni dưỡng
bằng phù sa sơng Hậu và được kích thích bằng
sự ra đời của luyện kim, vì thế sức sản xuất đã
có điều kiện phát triển nhanh chóng, q trình
phân cơng lao động được đẩy mạnh. Óc Eo xuất
hiện và dần dần trở thành một trung tâm kinh
tế, văn hóa của cả vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Với vị trí quan trọng trên đường giao
thông biển ở khu vực Đông Nam Á, Óc Eo đã trở
thành nơi tập trung của thương nhân và thợ thủ
cơng, nghĩa là có đủ điều kiện để thành thị hóa.
Từ đó, Ĩc Eo càng có điều kiện để đón nhận các
ảnh hưởng văn hóa bên ngồi cũng như tăng
thêm các yếu tố kích thích sự phát triển bên
trong. Sự nảy sinh và nở rộ của văn minh thành
thị Ĩc Eo có thể được hình dung trong q trình
như vậy. Có thể nói, những nhân tố bên ngồi,


ngoại sinh, quả đã góp phần vào việc tạo dáng
cho một mơ hình thành thị Ĩc Eo, thế nhưng
động lực cho sự xuất hiện và phát triển văn
minh Óc Eo phải là những nhân tố bên trong.


Trong gần một thế kỷ nay, nhiều nhà khoa
học phương Tây đã dày công khảo cứu về nền
văn hóa Ĩc Eo. Đặc biệt, vào cuối năm 1944,
nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đã
tiến hành khai quật khu di tích văn hóa Ĩc Eo
và sau khi nghiên cứu, trong khoảng thời gian
từ năm 1959 đến năm 1963, đã cơng bố tồn
bộ kết quả khai quật trong một cơng trình đồ
<i>sộ mang tên Khảo cổ học vùng đồng bằng </i>


<i>sông Mêkông, gồm 4 tập. Trong phạm vi Ĩc Eo, </i>


Malleret đã tìm thấy khoảng 150 di tích mang
dấu vết văn hóa cổ, trong số đó có trên 10 di
tích thuộc một nền văn hóa mà ơng đặt tên là
nền văn hóa Ĩc Eo, có tuổi được xác định từ


thế kỷ II đến thế kỷ VII sau Công nguyên. Từ kết
quả của những cuộc khai quật, đào thám sát
trên mặt đất và những cuộc quan sát từ trên
không, Malleret đã đưa ra nhận định: Ngay trên
cánh đồng Giồng Cát và Giồng Xồi (ơng gọi là
cánh đồng Ĩc Eo) có một thành thị cổ bị vùi
lấp dưới lịng đất. Ơng đặt tên cho thành thị
đó là Ĩc Eo hay cịn gọi là thị cảng Óc Eo. Như


vậy, với Malleret, từ cổ Óc Eo, nguyên để chỉ
một gò đất theo tục truyền của người dân địa
phương, đã hàm chứa một nội dung mới. Nó
bao gồm chỉnh thể các di tích hiện còn tồn lưu
dưới lòng đất và nổi trên mặt đất, nằm trong
chu vi một thành thị cổ ở cánh đồng Giồng
Xoài, Giồng Cát mà đã được phác dựng thành
một bình đồ khá sinh động, bình đồ “đơ thị Ĩc
Eo”. Nói cách khác, với Malleret, Ĩc Eo xưa là
một đô thị rộng lớn, một thị cảng phồn vinh,
một trung tâm kinh tế sống động, có mối quan
hệ giao thương Âu - Á rộng rãi. Đồng thời, đơ
thị Ĩc Eo xưa cũng là một di tích tiêu biểu cho
nền văn minh của một quốc gia cổ hình thành
vào loại sớm nhất ở Đông Nam Á (1, tr.215).
Đây là một phát hiện lớn trong một cơng trình
khoa học mang ý nghĩa mở đầu cho công cuộc
nghiên cứu về Nền văn hóa Ĩc Eo và Vương
quốc Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ.


Từ kết quả khai quật ban đầu, kết hợp với
việc phát hiện nhiều di chỉ khảo cổ phân bố
trong vùng, người ta đã lần lượt đưa ra nhiều
nhận định, kiến giải liên quan đến văn hóa, lịch
sử cổ xưa của vùng đất đồng bằng Nam Bộ:


<i>Thứ nhất, văn hóa Ĩc Eo phát triển trên một </i>


tầng cư dân bản địa ở vùng đồng bằng Nam Bộ.



<i>Thứ hai, văn hóa Ĩc Eo hội tụ nhiều luồng </i>


văn hóa cổ (từ truyền thống văn hóa thời kỳ đồ
đá Nam Đơng Dương, văn hóa Ấn Độ cổ đại đến
các yếu tố văn hóa Địa Trung Hải và cả văn hóa
Trung Hoa), trong đó yếu tố văn hóa Ấn Độ
chiếm vai trị chủ đạo.


<i>Thứ ba, văn hóa Ĩc Eo là dấu vết vật chất </i>


của vương quốc Phù Nam - một trong những
quốc gia cổ đại được hình thành sớm nhất ở
Đông Nam Á vào thế kỷ I - VII sau Công nguyên
(2, tr.150).


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA


các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục tiến
hành nhiều cuộc điều tra, khảo sát và khai quật
khảo cổ học trên đất Nam Bộ, phát hiện thêm
nhiều di tích khơng những trên vùng sông Hậu,
mà cả trên vùng sông Tiền và sông Đồng Nai,
gần như trên khắp địa bàn Nam Bộ. Những di
tích này bao gồm di chỉ cư trú có tầng văn hóa
dày trên dưới 3 mét, các cơng trình kiến trúc
tơn giáo và các khu mộ táng. Hiện vật vô cùng
phong phú với đủ loại, bao gồm:


- Nhóm tượng thờ: Tượng Phật, tượng thần
bằng các chất liệu gỗ, đá, đồng; tượng linh vật


có yoni và linga, trong đó có một số hiện vật
được làm bằng vàng;


- Nhóm phù điêu và con dấu khắc trên gốm
đá, thủy tinh, kim loại;


- Nhóm tiền kim khí đúc bằng vàng, đồng,
chì thiếc, chì sắt. Nhiều hiện vật bằng vàng và
vàng lá có hình chạm khắc, nhiều đồ trang sức
bằng đá quý, đá màu, thủy tinh, kim loại,
nhiều loại đồ gốm và những vật dụng bằng
đất nung, đá, gỗ.


Những phát hiện về văn hóa Óc Eo trong
thời gian gần đây cho thấy nền văn hóa này
phân bố trù mật trên địa bàn các tỉnh Long
An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và nhiều
địa điểm khác thuộc vùng đồng bằng Nam Bộ.
Hơn thế, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều
chứng tích của giai đoạn văn hóa tiền Ĩc Eo
trên đất Nam Bộ, chứng tỏ đây là một nền
văn hóa khơng chỉ có nguồn gốc bản địa với
trung tâm là vùng đất Nam Bộ mà cịn có
quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới bên
ngoài (3, tr.14). Dấu tích vật chất cho thấy, Ĩc
Eo có sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc,
Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Trên tư liệu khảo
cổ học cực kỳ phong phú, nhiều vấn đề khoa
học đang đặt ra, lôi cuốn sự quan tâm của giới
nghiên cứu trong và ngoài nước.



Đến năm 1983, các nhà khảo cổ học Việt
Nam lại tiếp tục cuộc khai quật. Đối tượng
được chọn để khai quật là những di chỉ “gị
nổi”, “đống đá” thuộc khu vực phía bắc của di
tích Ĩc Eo. Đó là gị Cây Trơm, gị Cây Cóc, gị
Ơng Cơn, gị Cù lao Vơi, gị đá số 1, 7, 8, 10.
Qua khai quật, các nhà khoa học đã phát hiện,
thu thập được rất nhiều hiện vật. Phần lớn di


vật tìm thấy tại đây được chế tác trong khoảng
thế kỷ III đến thế kỷ V sau Cơng ngun (cịn di
vật các vùng phụ cận thì muộn hơn). Qua đó,
người ta có thể tiếp cận được diện mạo khá rõ
nét và hình dung ra một cảnh quan sinh hoạt
sinh động đặc trưng của một nền văn minh cổ
- “văn minh Phù Nam” hoặc “văn hóa Ĩc Eo” (4,
tr.153). Trong những năm 1994 - 1995, các nhà
khảo cổ học đã phát hiện ở Gò Cây Tung (An
Giang) một di tích kiến trúc gạch có niên đại
khoảng thế kỷ IX - X. Ở dưới lớp kiến trúc có một
tầng cư trú dày, được xác định rõ ràng là trước
Óc Eo. Tầng cư trú này phát lộ với những hiện
vật phong phú, bao gồm đồ gốm văn thừng có
vẽ màu, hơn 40 chiếc rìu đá cùng với các bàn
mài, chày nghiền… Điều đáng chú ý là ở đây
người ta tìm được một loại rìu đá có hình tứ giác
(chứ khơng gặp rìu có vai) và có một gờ nổi ở
giữa lưỡi. Loại rìu này gần giống loại“bơn có
mỏ” được tìm thấy ở Malaysia và Inđônêxia.


Cùng với di tích Gị Cây Tung, những di vật và
mộ táng được phát hiện ở các di chỉ khác như
Lộc Giang, gò Cao Su (Long An), Long Bửu, Giồng
Phệt, Giồng Cá Vồ (Thành phố Hồ Chí Minh)…
đều góp phần khẳng định Óc Eo là một nền văn
hóa có nguồn gốc bản địa, có quan hệ mật thiết
với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung mà chủ
nhân chủ yếu của nền văn hóa này là cư dân Mã
Lai – Đa Đảo. Những dấu vết khảo cổ cũng cho
thấy văn hóa vật chất vùng Tây sơng Hậu rất gần
với người Chăm. Chính Malleret khi tiến hành
khai quật tại Óc Eo cũng đã từng nhận xét rằng
các kiến trúc ở đây “phần lớn được lợp mái ngói
bằng, một kiểu khác hẳn ở Ăngko” (7, tr. 314).
Nhiều viên chì lưới tìm thấy ở Ĩc Eo chứng tỏ cư
dân miền Tây sơng Hậu đã phát triển nghề đánh
cá. Những dấu hiệu cịn lại của hệ thống kênh
đào đã nói lên kinh nghiệm và tài nghệ làm thủy
lợi, khai phá và canh tác ở đồng bằng trũng thấp
của nhóm cư dân Mã Lai – Đa Đảo ven biển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA


đồi núi, đồng bằng với độ cao thấp khác nhau.
Nhiều di tích nằm rải rác trên các triền núi, các
chân núi như ở vùng Bảy Núi, núi Sam, núi Ba
Thê, núi Sập hoặc quy tụ thành từng khu vực,
từng cụm trên mặt đồng bằng thấp ở các cánh
đồng Giồng Cát, Giồng Xoài thuộc xã Vọng Thê,
huyện Thoại Sơn. Ngoài ra, di tích cịn được


phát hiện trên địa bàn huyện Tri Tôn, Tịnh Biên
và một số huyện, thị xã trong tỉnh. Qua nhiều
đợt khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện và
bổ sung nhiều hiện vật quý giá hết sức phong
phú về loại hình và đa dạng về chất liệu. Các di
tích của nền văn hóa Ĩc Eo ở An Giang, ngoài
những kiến trúc tường gạch đồ sộ của các kiểu
đền đài, cịn có các ngơi mộ cổ xây bằng đá trên
các gò đắp nện bằng đất sét, những kiến trúc
dựng trên các cọc gỗ cắm đứng, những khu cư
trú trên gò cao, trong ruộng thấp nằm ven
những đường nước cổ. Ngay tại khu Óc Eo, các
loại di tích ấy có mật độ tập trung khá dày, đan
xen với nhau, có vẻ như hợp thành một quần
thể di tích có tính chất và đặc điểm của một
trung tâm văn hóa quy mơ, một đơ thị cảng có
tầm cỡ và có thể là của một trung tâm chính trị
quan trọng. Nhiều tư liệu phong phú của văn
hóa Ĩc Eo đã đóng góp vào nhận thức về một
nền nghệ thuật Phật giáo và Hinđu giáo ở đồng
bằng sông Cửu Long vào thế kỷ


V. Văn hóa Ĩc Eo có sự kế thừa và phát triển từ
các nền văn hóa tiền Ĩc Eo ngay trên mảnh đất
Nam Bộ từ cuối thời đại đồ đồng (5, tr.1825).


Tiếp tục nghiên cứu trong lòng đất ở khu
vực này và ở nhiều di tích khác trong tỉnh An
Giang, qua phát hiện của người dân địa
phương và qua những cuộc điều tra, sưu tầm,


khai quật, nhiều hiện vật quý giá, đẹp đẽ, độc
đáo và tinh tế đã được thu lượm. Những hiện
vật này có số lượng tới hàng nghìn chiếc với
nhiều kiểu loại kích thước, chất liệu khác nhau.
Có những hiện vật lớn như pho tượng thần
Vishnu (cao tới 3,3 mét), thờ trong chùa Linh
Sơn (núi Ba Thê), pho tượng “Đức Bà” thờ tại
miếu Bà Chúa Xứ ở núi Sam. Lại có những hiện
vật nhỏ bé được chế tạo với trình độ kỹ thuật
rất cao như nhẫn, bông tai, bùa đeo, con dấu,
đồng tiền… bằng vàng, đồng, thiếc. Có những
hạt đá quý, mã não, thủy tinh, lưu ly nhiều màu
sắc. Ngoài ra, cịn có nhiều vật dụng, dụng cụ


thủ cơng bằng đồng, đá, đất nung, đồ gốm
như vòng tay, lục lạc, giá kê, búa, dùi đục,
tượng, khuôn đúc, nồi nấu kim loại, cối, chày,
bàn nghiền, bàn xoa, dọi xe sợi, chì lưới, bình
có vịi, nồi, vị, bát, đĩa, đèn, chậu v.v… Tồn
bộ những di tích, di vật trên đã minh chứng
đầy đủ cho vùng đất An Giang từng một thời,
vào những thế kỷ đầu Công nguyên (thế kỷ II
- VI) là trung tâm lớn của một nền văn hóa vừa
đường bệ, hồnh tráng trong quy mơ lại vừa
đặc sắc, tinh vi về phong cách. Khi nhận định,
các nhà nghiên cứu đều coi những di tích này
là tiêu biểu cho đỉnh cao kinh tế, kỹ thuật của
sự phát triển, phồn vinh ở vùng đồng bằng
sơng Cửu Long thời đó. Sự phát triển của văn
hóa Ĩc Eo (An Giang) có thể được chia thành


hai giai đoạn quan trọng như sau:


<i>Giai đoạn sớm (thế kỷ I - IV): Đây là giai đoạn </i>


văn hóa Óc Eo định hình và phát triển. Cư dân
cổ trên khu vực Ĩc Eo đã dần chiếm lĩnh tồn
bộ vùng đồng bằng thấp Tứ giác Long Xuyên.
Gắn liền với việc chuyển từ tiền sử muộn sang
sơ sử và bắt đầu hình thành nhà nước phong
kiến sơ khai cùng với việc mở rộng địa bàn cư
trú thì các cơng trình tơn giáo cũng có bước
phát triển mạnh mẽ. Nhiều hiện vật đặc trưng
của văn hóa Ĩc Eo như các kiểu dáng của đồ
gốm, đế đất nung, những trang sức bằng
đồng, chì, thiếc, con dấu, bùa đeo… đều được
phát hiện trong giai đoạn này.


<i>Giai đoạn phát triển (thế kỷ IV - VI, VII): Vào </i>


thời kỳ này, cư dân Óc Eo đã hồn tồn làm
chủ vùng đồng bằng miền Tây sơng Hậu, vùng
U Minh và vùng trũng thấp Đồng Tháp Mười.
Đây cũng là thời kỳ mà các kiến trúc tôn giáo
được phát hiện nhiều nhất và chủ yếu được
xây bằng gạch hoặc bằng gạch đá hỗn hợp.
Trong đó, khu vực Óc Eo vẫn là nơi tập trung
nhiều kiến trúc nhất, quy mơ nhất… chứng tỏ
nó giữ vị trí trung tâm quan trọng ở đồng bằng
Nam Bộ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HĨA


<b>2. Những hạn chế, bất cập trong cơng tác </b>
<b>bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa Ĩc Eo</b>


Hiện nay, hiện trường các khu di tích trong
quần thể văn hóa Ĩc Eo đã có nhiều biến đổi do
tác động của thiên nhiên và đặc biệt là của con
người. Trong đó, các “gị nổi” và “đống đá” bị tổn
hại nhiều và đã lộ ra nhiều vết tích văn hóa. Có
những gị hầu như đã bị mất hết dấu vết như gò
Cây Dúi, gị Tre, gị Điển Điển; có gị đã mất phần
nửa hoặc chỉ còn phần dưới chân như gị Cây
Trơm (bị đào lấy đi một nửa phần phía Bắc, làm
lộ ra kiến trúc gạch rộng lớn và đã bị khai quật).
Gò Lớn trong hệ thống gò của Giồng Cát hầu
như đã bị bóc mất phần trên; tường gạch của
các kiến trúc hầu như khơng cịn; nay chỉ thấy
những phiến đá của chân bệ thờ và những khối
đá hoa cương nằm la liệt, vốn là vật liệu của
móng kiến trúc nói trên. Gị Mồ Cơi cũng bị đào
phá làm lộ ra nhiều tường gạch xây thành từng
ô chữ nhật. Các gò lớn khác và nhiều gị nhỏ
cũng đều có hiện tượng đào tìm vàng, tạo thành
những hố nhỏ hoặc bị sạt lở, bị san lấp trồng
cây, làm lộ ra những tường gạch (gò Cây Thị, gò
Kamnap), những đá hoa cương, gạch vỡ, cát
trắng (gị Ơng Phi, gị Bà Chrn, gị ơng Mơn…)
(6, tr.21). Từ đó đến nay, khơng có một cuộc
điền dã nào được tiến hành tại đây. Di tích tiếp


tục bị hủy hoại bởi những người đào tìm vàng.


Một thực trạng khác là khá nhiều di tích có
nguy cơ bị phá hủy hoàn toàn, việc nghiên
cứu tổng hợp, đi vào chiều sâu của nền văn
hóa cổ này cịn q ít. Trong khi đó, giới khoa
học trong và ngồi nước đang mong đón nhận
những phát hiện mới tại các di tích. Cơng việc
dị tìm và khai quật di sản văn hóa Ĩc Eo hiện
nay được tiến hành một cách chậm chạp so với
tốc độ phát triển của q trình đơ thị hóa. Điều
đáng nói là, trên thực tế ai cũng có thể dễ dàng
hình dung được rằng, chỉ vài chục năm nữa
thôi, phần lớn các di chỉ về nền văn hóa quan
trọng độc đáo này sẽ phải vĩnh viễn nằm yên
trong lòng đất, nơi mà đô thị và các khu công
nghiệp mới sẽ mọc lên. Viễn cảnh ấy nhất định
sẽ xảy ra, chừng đó, mọi quyết định khai quật
để biết thêm về nền văn hóa cổ hẳn sẽ khơng
cịn là chuyện đơn giản.


<b>3. Một số kiến nghị nhằm bảo tồn và phát </b>
<b>huy giá trị di sản văn hóa Ĩc Eo</b>


<i>Trước hết, để đảm bảo tính hiệu quả trong </i>


cơng tác bảo tồn, Nhà nước cần thực hiện ngay
một chương trình với mục tiêu và tiến độ cụ
thể cho việc tơn tạo có trọng điểm và phát huy
có hiệu quả giá trị di sản văn hóa Ĩc Eo nhằm


phục vụ đời sống văn hóa của người dân trong
vùng. Đây là chương trình có nội dung thật đa
dạng và nhiều yêu cầu khác nhau nên đòi hỏi
sự tham gia của nhiều nhà khoa học và các nhà
nghiên cứu ở nhiều ngành thuộc khoa học xã
hội, văn hóa và nghệ thuật. Do đó, để thu hút
sự tham gia của các nhà khoa học vào việc bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Ĩc Eo,
Chính phủ cần tăng cường đầu tư nguồn vốn
và nguồn nhân lực bảo tồn cho địa phương.
Công tác bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích
là một hoạt động mang tính đặc thù nên Nhà
nước cần có chính sách riêng biệt.


<i>Thứ hai, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo </i>


nhanh chóng lập kế hoạch điều tra, kiểm kê
tồn bộ khu di tích; bên cạnh đó, cần tổ chức
nghiên cứu môi trường sinh thái, sự biến đổi
của khí hậu, lịch con nước sơng Hậu để có kế
hoạch lâu dài tránh cho các di tích khỏi bị ngập
nước; đồng thời, thực hiện tốt công tác tuyên
truyền cho người dân ở trong và quanh khu di
tích về tầm vóc, giá trị lịch sử - văn hóa của di
tích Ĩc Eo, hướng dẫn họ sử dụng đất đai một
cách hợp lý trong xây dựng các cơng trình và
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiến tới
xóa bỏ mọi hành vi xâm phạm di tích.


<i>Thứ ba, Ban Quản lý di tích văn hóa Ĩc Eo </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA


bị hư hỏng nhẹ phải kịp thời tu sửa … Riêng
đối với những hiện vật có nguy cơ bị hủy hoại
như tượng gỗ, cột gỗ, Ban Quản lý nên mời các
chuyên gia về kỹ thuật bảo quản đến gia cố
nhằm tăng tuổi thọ cho chúng.


<i>Thứ tư, Ban Quản lý di tích văn hóa Ĩc Eo cần </i>


tăng cường cơng tác bảo vệ các di tích, nhất là
các di tích tiêu biểu của nền văn hóa; cùng với
việc bảo vệ là áp dụng các biện pháp kỹ thuật
để tạo nên những địa điểm bảo tàng lộ thiên
phục vụ khách tham quan, du lịch. Khi sắp xếp
các hiện vật trong nhà trưng bày, Ban Quản lý
cần xây dựng mơ hình tồn bộ khu di tích để
giới thiệu cho khách tham quan trước khi đưa
họ đến thực địa. Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
tồn, tỉnh An Giang cần tổ chức đào tạo, cung
cấp cho Ban Quản lý những cán bộ chuyên
trách có trình độ chun mơn sâu để họ vừa
sưu tầm, nghiên cứu, vừa giới thiệu, hướng dẫn
cho khách tham quan, đồng thời, cũng để họ


Như vậy, những kết quả nghiên cứu về nền
văn hóa Ĩc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu
hơn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Có thể nói, việc
khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa


Ĩc Eo được xem là một trong những thành tựu
lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn
70 năm qua. Tuy còn nhiều vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu và thảo luận, nhưng với những gì
khoa học đưa lại, chúng ta có thể khẳng định
rằng: thời cổ đại, sau các nền văn hóa tiền sử,
văn hóa Ĩc Eo là một trong những trung tâm
văn hóa tiêu biểu nhất của đất nước.


Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, các khu di
tích văn hóa Ĩc Eo đang đứng trước nguy cơ bị
xâm hại, thậm chí mai một. Việc bảo tồn các khu
di tích đã trở nên cấp bách, địi hỏi các cấp lãnh
đạo từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là
ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự
quan tâm sâu sắc.


P.N.H


<i>(Nghiêncứuviên,HọcviệnChínhtrịkhuvựcIV)</i>


làm tốt cơng tác tuyên truyền cho mỗi người
dân địa phương hiểu được giá trị di sản văn hóa
Ĩc Eo, qua đó nâng cao được sự kiểm sốt việc
bảo tồn di sản này bằng dư luận.


<i>Thứ năm, Ban Quản lý di tích văn hóa Ĩc Eo </i>


cần thực hiện việc biên tập, giới thiệu những
dạng ấn phẩm khác nhau về các phát hiện,


các kết quả nghiên cứu cho người dân trong
và ngoài nước; từng bước thực hiện việc trưng
bày dưới dạng chuyên đề các di tích, di vật
của nền văn hóa này để tiến tới xây dựng nội
dung chính thức cho nhà trưng bày. Để phát
huy hơn nữa vai trị của mình trong cơng tác
bảo tồn di tích, Ban Quản lý nên tăng cường
học hỏi kinh nghiệm của các địa phương khác
trong công tác bảo tồn, lưu giữ hiện vật, để từ
đó tìm ra giải pháp bảo tồn hiệu quả nhất cho
khu di tích của mình; đặc biệt, cần sớm phối
hợp với các cơ quan chức năng, lập hồ sơ trình
Thủ tướng Chính phủ để đề nghị UNESCO
công nhận di tích văn hóa Ĩc Eo là di sản văn
hóa thế giới.


<i>Thứ sáu, Ủy ban Nhân dân các tỉnh có </i>


chung di tích lịch sử văn hóa Ĩc Eo cần có kế
hoạch phối hợp nhằm tiến tới xây dựng một
quy hoạch chung bảo vệ di tích.


<b>Tài liệu tham khảo</b>


<i>1. Nhiều tác giả (1984), Văn hóa Ĩc Eo và các </i>


<i>văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Long </i>


Xuyên.



<i>2. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Văn </i>


<i>hóa Ĩc Eo và vương quốc Phù Nam, Nxb. Thế giới, </i>


Hà Nội.


<i>3. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2014), Lược </i>


<i>sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc </i>


gia, Hà Nội.


<i>4. Nguyễn Hữu Hiệp (2011), Tìm hiểu một số </i>


<i>địa danh cổ ở An Giang qua truyền thuyết, Nxb. </i>


Lao động, Hà Nội.


<i>5. Nguyễn Văn Chuẩn, Trịnh Tất Đạt (2010), Từ </i>


<i>điển bách khoa đất nước con người Việt Nam, Nxb. </i>


Từ điển bách khoa, Hà Nội.


6. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải
<i>(1995), Văn hóa Ĩc Eo những khám phá mới, Nxb. </i>
Khoa học xã hội, Hà Nội.


<i>7. L. Malleret (1963), L’archéologie du delta du </i>



<i>Mékong, Tome 3, Paris. </i>


Ngày nhận bài: 30 - 11 - 2016


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7></div>

<!--links-->

×