Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

KHẢO SÁT LỖI SAI CỦA SINH VIÊN TRUNG QUỐC KHI HỌC TIẾNG VIỆT TẠI KHOA NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT KHẮC PHỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i> </i>

T¹p chÝ Khoa häc và Công nghệ





S ĐẶC BIỆT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP


KHOA NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN (2007 – 2017)



Môc lôc

Trang



TS. Lê Hồng Thắng - Bàn về dạy-học ngoại ngữ qua đề án dưới góc độ của giáo học pháp 3


Nguyễn Thị Như Nguyệt, Chu Thành Thúy - Đánh giá năng lực đầu ra tiếng Nga của sinh viên trình độ


A2-B1 theo khung tham chiếu chung châu Âu tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 7


Nguyễn Thùy Linh - Kiểm tra đánh giá trong giảng dạy các môn đề án ngôn ngữ - một số chia sẻ từ thực tế 13


Vũ Thị Thanh Huệ - Nhận thức của sinh viên đối với khóa đọc mở rộng trực tuyến với sự trợ giúp của mạng xã


hội Edmodo 19


Mai Thị Thu Hân, Nguyễn Thị Liên, Hoàng Thị Tuyết, Dương Thị Ngọc Anh - Tăng cường tính tự học bằng


dự án học tập - nghiên cứu tình huống tại trường Đại học Hoa Lư 25


Dương Đức Minh, Dương Lan Hương - Nghiên cứu về sự tương tác giữa người thuyết trình và khán giả khi học


<i>kỹ năng thuyết trình của sinh viên chuyên ngành tiếng Anh tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên </i> 31


Phạm Thị Kim Uyên - Sử dụng nhật ký trong dạy biên dịch cho sinh viên chuyên ngữ Đại học Nha Trang 37



Lê Thị Hồng Phúc - Phản hồi của sinh viên về dự án TV show lấy điểm cuối kỳ trong khóa ngữ âm 43


Hán Thị Bích Ngọc - Dạy học ngoại ngữ bên ngoài lớp học - ứng dụng mạng xã hội facebook trong dạy và học


tiếng Anh 49


Nguyễn Ngọc Lưu Ly, Quách Thị Nga - Vài nét về việc sử dụng truyền thông đa phương tiện trong giảng dạy


tiếng Trung Quốc trình độ sơ cấp tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 55


Lê Thị Hòa, Đậu Thị Mai Phương - Nâng cao kỹ năng thế kỷ 21 trong học tiếng Anh chuyên ngành thông qua


dự án 61


Nguyễn Thị Bích Ngọc, Trần Minh Thành - Phương pháp gia tăng hiệu quả của đề án tạp chí tiếng Anh trong


việc học viết cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 67


Hoàng Thị Huyền Trang, Nguyễn Thị Ngọc Anh - Phát triển khả năng đọc hiểu tiếng Anh cho sinh viên ngoại


ngữ thông qua các bài đọc có nội dung bao hàm yếu tố văn hóa phù hợp 73


Nguyễn Quốc Thủy,Nguyễn Thị Đoan Trang - Dạy - học ngoại ngữ qua đề án tạp chí tại trường Đại học Sư


phạm – Đại học Thái Nguyên 79


Nguyễn Tuấn Anh - Thiết kế tổ chức dạy học mơn báo chí trực tuyến theo hướng học ngôn ngữ qua dự án như


một cách đảm bảo tính đa ngành của chương trình đào tạo 85



Đỗ Thị Sơn, Đỗ Thị Phượng - Nghiên cứu phân tích lỗi sai của sinh viên Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái


Nguyên khi dịch trực tiếp từ Hán Việt sang tiếng Trung Quốc và giải pháp khắc phục 91


Trần Đình Bình - Ứng dụng phương pháp dạy học qua dự án trong dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam 97


Lê Thị Khánh Linh, Lê Thị Thu Trang - Phương tiện biểu đạt thái độ của người kể chuyện trong các chương


<i>trình talk show của Mỹ và Việt Nam </i> 103


Đỗ Thanh Mai, Phùng Thị Thu Trang - Ứng dụng Moodle trong dạy và học trực tuyến học phần tin học đại


cương tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 109


Mai Thị Ngọc Anh, Vi Thị Hoa, Phạm Hùng Thuyên - Vận dụng phương pháp dạy học theo dự án trong giảng


dạy môn tiếng Trung du lịch tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên 117


Trần Thị Hạnh - Nhận thức của sinh viên về việc ứng dụng Edmodo như một công cụ phụ trợ trong học tập 123


Bùi Thị Ngọc Oanh - Cải thiện kỹ năng nói của sinh viên khơng chun trình độ A2 với dạy học qua đề án 129


Journal of Science and Technology



174

(14)



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nguyễn Hạnh Đào, Đinh Nữ Hà My - Nghiên cứu tình huống về những khó khăn với người học và điều cần


lưu ý khi giảng dạy môn tiếng Anh chuyên ngành áp dụng phương pháp học qua dự án 135



Nguyễn Thị Kim Oanh - Sử dụng đường hướng học tập theo dự án cho môn học tiếng Anh chuyên ngành tại


Viện Ngoại ngữ, Đại học Bách Khoa Hà Nội: lợi ích, thách thức và đề xuất 141


Vũ Thị Kim Liên - Phát triển năng lực ngữ dụng của sinh viên trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia


Hà Nội 147


Đàm Minh Thủy - Tích hợp kỹ năng trong học ngoại ngữ thơng qua dự án làm video “Tìm hiểu ảnh hưởng của


văn hóa Pháp tại Việt Nam” 153


Nguyễn Thị Thu Hoài - Thực trạng thực tập giảng dạy tiếng Anh ở một số trường THPT tại thành phố Thái


<i>Nguyên và các đề xuất giải pháp </i> 159


Nguyễn Thị Ngọc Anh, Hoàng Huyền Trang - Khảo sát lỗi sai của sinh viên Trung Quốc khi học tiếng Việt


tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên và những đề xuất khắc phục 165


Quách Thị Nga, Đỗ Thị Thu Hiền - Những vấn đề tồn tại của giáo trình đối dịch Trung - Việt ở Việt Nam hiện


nay và giải pháp khắc phục (khảo sát tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên) 171


Phan Thanh Hải - Hướng tới một chương trình đào tạo cử nhân sư phạm tiếng Anh dựa trên các đề án học tập


trong đào tạo đại học định hướng thực hành ứng dụng nghề nghiệp 177


Lê Vũ Quỳnh Nga, Lý Thị Hoàng Mến, Nguyễn Thị Thu Oanh - Nâng cao chất lượng bài dịch của sinh viên



Khoa Ngoại ngữ - ĐHTN thông qua việc áp dụng phương pháp học tập hợp tác 183


Đoàn Thị Thu Phương - Phong cách học ngoại ngữ của học sinh lớp 11, Nam Định 189


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Nguyễn Thị Ngọc Anh và Đtg </i> Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 174(14): 165-170


165


KHẢO SÁT LỖI SAI CỦA SINH VIÊN TRUNG QUỐC KHI HỌC


TIẾNG VIỆT TẠI KHOA NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT KHẮC PHỤC



Nguyễn Thị Ngọc Anh*, Hoàng Huyền Trang


<i>Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên </i>


TÓM TẮT


Vấn đề phát hiện lỗi, phân tích lỗi để đưa ra các giải pháp khắc phục lỗi là một vấn đề quan trọng
trong việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Bài báo khảo sát các lỗi ngôn ngữ của sinh viên
Trung Quốc khi học tiếng Việt tại Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên, đó là các lỗi về ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp mà sinh viên Trung Quốc thường mắc phải khi học tiếng Việt.Từ đó tìm ra
nguyên nhân về lỗi đề xuất những hướng giải quyết nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tiếng Việt
cho sinh viên nước ngoài ở Khoa Ngoại ngữ.


<i>Từ khóa: Lỗi sai, sinh viên Trung Quốc, ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp </i>


ĐẶT VẤN ĐỂ*


Tiếng Trung Quốc và tiếng Việt cùng loại


hình ngơn ngữ, hệ thống ngữ pháp có nhiều
điểm giống nhau, số lượng từ vựng tiếng Việt
tương đối giống tiếng Trung. Những đặc điểm
tương đồng đã giúp người Trung Quốc học
tiếng Việt một cách dễ dàng hơn. Song chính
sự khác biệt về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và
văn hóa lại dẫn đến những khó khăn trong
q trình học tiếng Việt [4].


Có nhiều cơng trình nghiên cứu về việc sử
dụng tiếng Việt hiện nay trên các đối tượng
sử dụng là người nước ngoài. Các tác giả tập
trung khảo sát lỗi của người Mĩ, người Đức,
Lào, Campuchia... khi học ngoại ngữ thứ hai
trên các phương diện: từ vựng, ngữ âm, ngữ
pháp như: Nguyễn Thiện Nam (2000) [5], Đỗ
Thị Thu (1997) [6].


Bài báo đề cập đến một số lỗi mà sinh viên
Trung Quốc thường mắc phải khi học tiếng
Việt tại Khoa Ngoại ngữ, Đại học Thái
Nguyên và nguyên nhân gây ra lỗi đồng thời
đề xuất một số giải pháp nhằm giúp người
học hạn chế và tránh được một số lỗi khi học
tiếng Việt như một ngoại ngữ thứ hai.


ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU


Chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên đối


tượng là sinh viên Trung Quốc năm thứ 3




*


<i>Tel: 0989 318 132. Email: </i>


chuyên ngành tiếng Việt, phạm vi khảo sát tại
Khoa Ngoại ngữ, Đại học Thái Nguyên thông
qua các phương pháp thống kê, phân tích diễn
ngơn, đối chiếu so sánh.


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


Một số lỗi sai thường gặp của sinh viên
Trung Quốc khi học tiếng Việt tại Khoa
Ngoại ngữ, Đại học Thái Nguyên


<i>Lỗi về ngữ âm </i>


Sinh viên Trung Quốc đã học 02 năm tiếng
Việt ở Trung Quốc cho nên khi sang Việt Nam
học đã có những kiến thức nhất định về ngôn
ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên qua khảo sát trên 5
khóa sinh viên Trung Quốc học tiếng Việt
chúng tôi thấy xuất hiện một hệ thống các lỗi
ngôn ngữ sau: lỗi về dùng sai phụ âm, lỗi sai
phần vần, lỗi sai âm cuối và lỗi thanh điệu.
<i>Lỗi sai phụ âm đầu </i>



Tiếng Việt có 23 âm vị phụ âm đầu, tiếng
Hán có 21 âm vị phụ âm đầu. Trong tiếng
Hán một số phụ âm đầu khơng có âm tương
tự trong tiếng Việt: b, k, h cho nên sinh viên
Trung Quốc hay phát âm sai không chuẩn
những âm tiết mở đầu bằng phụ âm: /b/, /k/,
/h/ như: /bàn/ thành /pàn/, /bác/ thành /pác/,
/bó/ thành /pó/… [4]


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Nguyễn Thị Ngọc Anh và Đtg </i> Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 174(14): 165-170


166


<i>Bảng 1. Lỗi sai phụ âm đầu</i>


Âm tiết chuẩn Phát âm sai Tỉ lệ %


Ba Vì, đây, Đơng
Bắc, độc đáo, đúc
đồng


Pa Vì, tây, Tơng
Bắc, tộc táo, túc
tồng


80%


đường, đời, đại, tường, tời, tại 75%



Bảng trên cho thấy, phụ âm “đ”, sinh viên
Trung Quốc đại đa số phát âm thành “t” như
những âm: đời, đường, đài… thành “tời,
tường, tài”…


<i>Lỗi sai phụ âm cuối </i>


Phụ âm cuối trong tiếng Việt đa dạng hơn
tiếng Trung Quốc. Tiếng Việt có các phụ âm
cuối: -c, -m, -n, -p, -t, -nh, -ng, -ngh. Tiếng
Trung Quốc chỉ có: -n, -ng. Đó là một điểm
khó khăn cho người Trung Quốc khi học ngữ
âm tiếng Việt. Đa số sinh viên Trung Quốc
phát âm sai các âm tiết sau: manh, tóc, mách,
ngang, ngạnh… họ chỉ có thể phát âm thành
các âm tiết có âm cuối thành –n, -ng.


Khảo sát 200 sinh viên, chúng tôi thấy thường
xuyên phát âm sai phụ âm cuối một số âm tiết
như bảng 2.


Bảng 2.<i>Lỗi sai phụ âm cuối</i>


Âm tiết chuẩn Phát âm sai Tỉ lệ %


truyền thống,
Bát Tràng, cổ
kính, di tích,
đặc trưng



truyền thốn, Bát
Tràn, cổ kín, di
tít, đặc trưn,


85%


tình yêu tìn yêu 75%


nhanh nhẹn,
mạnh khỏe


nhan nhẹn, mạn
khỏe


65%


<i>Lỗi sai phần vần </i>


Bên cạnh đó, ta thấy lưu học sinh Trung Quốc
thường đánh vần khơng chính xác một số vần
cơ bản như: ui, ôi, ua, ưa, ươ, uyt, uyê, anh,
ách… Đặc biệt là với những âm tiết có
nguyên âm là e, ê, u thì đại đa số là phát âm
sai. VD: nguyên – thành – nguên…


Ở phần vần, lưu học sinh vẫn còn lẫn lộn các
<i>cặp vần: ui/ uơi, in/inh, ăn/anh, ưu/ươu, </i>
<i>iêu/iu (chiếm 80%) hoặc phát âm sai ở các </i>
<i>vần khó như : uya, uyn, uyt, ươt (chiếm 20%) </i>



<i>Ví dụ: ươu/ ưu: con hươu/ con hưu; ưu/ iu: </i>
<i>nghỉ hưu/ nghỉ hiu; ươi/ ui: quả chuối/ quả </i>
<i>chúi </i>


- Với các cặp vần có âm ă, â học sinh thường
hay phát âm sai các âm tiết sau: thanh – thăn;
manh – măn, nhanh – nhăn, anh – ăn, ....
<i>Lỗi sai thanh điệu </i>


Ta thấy sinh viên Trung Quốc thường có các
hiện tượng mắc lỗi sau:


-98% các em đều có ít nhất 10 lần phát âm sai
thanh điệu: thanh huyền thành thanh sắc, vd:
phát âm “trở” thành “trợ”, Lương Sơn Bá
phát âm thành Lương Sơn Bà….


-70% đánh dấu thanh điệu bị nhầm.


Khi học tiếng Việt, sinh viên Trung Quốc
thường nhầm các dấu thanh, đặc biệt thường
lẫn lộn thanh hỏi và thanh nặng trong khi nói
và nhầm lẫn thanh huyền và thanh sắc trong
khi viết.


<i>Lỗi về từ vựng </i>


<i>Lỗi dùng sai nghĩa của từ </i>


Từ vựng tiếng Hán cũng giống như tiếng Việt


cũng hết sức phong phú, đa dạng, đặc biệt
trong đó có hiện tượng chuyển loại. Như vậy,
trong quá trình học tập tiếng Việt, sinh viên
Trung Quốc thường gặp khó khăn khi thực
hiện các thao tác chuyển dịch từ tiếng Hán
sang tiếng Việt và ngược lại.


Phổ biến là lỗi dùng sai nghĩa của từ như:
<i>- Cuối cùng họ biến ảo thành hai con bướm </i>
mãi mãi không rời xa nhau.


- Bố mẹ của Chúc Anh Đài ngăn cản tình yêu
<i>của hai người nên đã bức bách Chúc Anh Đài </i>
lấy người khác.


- Sau khi để cứu một con chim bị thương, tiên
nữ Tiểu Thất và Phi Lạc đã làm quen với
<i>nhau, giúp đỡ lẫn nhau và hai bên đã sản sinh </i>
tình yêu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Nguyễn Thị Ngọc Anh và Đtg </i> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 174(14): 165-170


167
<i>Lỗi dùng sai hư từ </i>


Qua khảo sát trên 100 bài kiểm tra với yêu
cầu của đề bài: “Hãy kể lại một truyền thuyết
về tình u của Trung Quốc” thì có đến 95%
các bài viết thường xuyên sử dụng các hư từ
<i>“rồi”, “thì”, “rất” một cách tùy tiện, khơng </i>


hợp lí. Cá biệt có đến 20 bài kiểm tra mà
người làm bài dùng từ 8 đến 14 lần hư từ
<i>“rồi” trong cùng một bài viết. </i>


<i>- “Cuối cùng cha mẹ cô ấy đồng ý rồi nhưng </i>
cô ấy phải trang trí thành nam, khơng thể để
cho mọi người biết cô ấy là nữ tính. Chúc
<i>Anh Đài vui lòng đáp ứng rồi. Sáng mai </i>
<i>chuẩn bị lên đường đi học rồi. Đến buổi tối đã </i>
<i>đến trường rồi… Dần dần Lương Sơn Bá </i>
<i>cũng thích Anh Đài rồi. Từ đó hai người yêu </i>
thương nhau, quan tâm đến nhau.”


Trong đoạn văn trên có 5 câu mà người viết
<i>sử dụng đến 5 lần hư từ “rồi” với hàm nghĩa </i>
để diễn tả sự việc, hành động đã xảy ra.
Lỗi dùng hư từ trên sai là do sinh viên Trung
Quốc quen với việc sử dụng trợ từ ngữ khí
<i>“le” trong câu tiếng Trung, bởi trong tiếng </i>
<i>Trung việc sử dụng trợ từ ngữ khí “le” rất </i>
phổ biến.


<i>Bên cạnh đó việc sử dụng phó từ“rất” chỉ </i>
mức độ của lưu học sinh là phổ biến. Họ hay
dùng phó từ này để hàm ý nhấn mạnh song
chính điều đó lại làm cho câu văn trở nên rối
rắm, lủng củng.


<i>- “Cô gái là người rất đẹp đẽ, thật tuyệt xinh </i>
nhất. Tên của cô gái là Hằng Nga, từ khi lấy


<i>chồng rất yêu chồng, rất hạnh phúc”. </i>


<i>Lỗi lặp phó từ “rất” nhằm nhấn mạnh, làm rõ </i>
nghĩa cho tính từ đứng sau thường xuyên xảy
ra là do sự phối hợp từ và dùng sai tính từ.
Bên cạnh đó cịn là nguyên nhân do vốn từ
vựng còn hạn chế song sinh viên Trung Quốc
lại lạm dụng việc sử dụng phó từ “rất” để thể
hiện cụ thể, làm sáng rõ vấn đề hay thể hiện
cảm xúc của bản thân.


<i>Đối với lỗi sử dụng liên từ “thì”: </i>


- Hàng năm ngày mồng 7 tháng 7, Ngưu Lang
<i>và Chức Nữ thì có thể gặp mặt ở Thước Kiều. </i>


<i>- Ngày sau đó, thì đã có sao Ngưu Lang và </i>
sao Chức Nữ.


<i>- Sau đó, hai người thì u nhau. </i>


- Khi anh ấy kén người con gái làm vợ, anh
<i>ấy thì tình thương yêu vợ rất thắm thiết. </i>
<i>Lỗi lặp liên từ “thì” là do ảnh hưởng của </i>
ngôn ngữ tiếng Trung, sinh viên Trung Quốc
<i>thường có thói quen sử dụng phó từ “jiu” </i>
trong tiếng Trung để diễn tả hành động diễn
ra tiếp theo một hành động đã xảy ra trước.
<i>Lỗi dùng danh từ đơn vị (lượng từ) </i>



Khảo sát trên 200 bài kiểm tra môn Lịch sử
và Văn hóa Việt Nam, Bút ngữ cao cấp và
Soạn thảo Văn hóa Việt Nam cho thấy đa
phần sinh viên sử dụng sai danh từ đơn vị
hoặc thiếu không sử dụng danh từ đơn vị: có
200 bài kiểm tra đều viết thiếu danh từ đơn vị
đứng trước danh từ, tối đa có bài thiếu đến 10
danh từ đơn vị khi viết.


(1) Lỗi dùng thiếu danh từ đơn vị đứng trước
các danh từ chỉ người, động vật.


-Trong gia đình có một con gái rất xinh và
thơng minh. (thiếu “cơ”)


- Nhà em có một mèo và một chó, chúng rất
khơn. (thiếu “con”)


Hoặc phổ biến là cách sử dụng thiếu danh từ
đơn vị “người” trước danh từ chỉ con người
như sau:


-“Anh chị ấy có cuộc sống vui vẻ, con gái dệt
vải nấu cơm và làm thủ công nghiệp ở nhà.
Con trai cày ruộng ở bên ngoài. Buổi tối, con
trai về nhà ăn cơm, con gái hầu hạ làm vui
lịng”.


- Em có ba trăm sách. (thiếu “quyển”)
- Hôm qua mẹ em mua bốn gà. (thiếu “con”)


- Ba em cho em một đồng hồ mới. (thiếu
“cái”)


(2) Lỗi nhầm lẫn danh từ đơn vị:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Nguyễn Thị Ngọc Anh và Đtg </i> Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 174(14): 165-170


168


- Em đã mua vài chiếc quần áo.


- Chúng em đã mua một vài cái từ điển Hán
Việt.


Những ví dụ ở (1) và (2) cho thấy lưu học sinh
Trung Quốc thường dùng nhẫm lẫn, dùng thiếu
các danh từ đơn vị khi dùng với từ chỉ số
lượng. Nguyên nhân là do tiếng Việt có số
lượng khá phong phú các loại từ (danh từ chỉ
loại trong tiếng Việt) như: con, cái, chiếc, ngôi,
hòn, tấm, bức, pho, quyển, cuốn, cây, quả, lá,
ngọn, vị, thằng, đứa, gã, viên, ngài, ông, bà,
cô, bác, anh, chị... Bên cạnh đó là lỗi chuyển di
danh từ đơn vị (lượng từ) từ tiếng Trung Quốc
sang tiếng Việt. Trong tiếng Trung Quốc, danh
từ đơn vị “ge” (cái, con...) được dùng rất phổ
biến và rộng rãi,“ge” thậm chí có thể dùng
thay cho rất nhiều danh từ đơn vị khác.Ví dụ
như “san dao/ge cai” (ba món ăn),
“sansuo/gexuexiao” (ba ngôi trường), “san


jia/gefandian” (ba nhà hàng). Vì vậy sinh viên
Trung Quốc thường chọn cách thay thế danh từ
đơn vị “ge” vào những trường hợp khơng tìm
ra danh từ đơn vị phù hợp.


<i>Lỗi ngữ pháp </i>
<i>Lỗi về trật tự từ </i>


Sinh viên Trung Quốc thường xuyên sử dụng
sai trật tự từ trong câu. Kiểm tra trên 200 bài
viết của sinh viên có đến 96 bài mắc lỗi này,
có 50 bài (chiếm 50%) có số lần phạm lỗi lên
đến trên 6 lần vi phạm.


- Khi tôi lên mạng tôi khơng biết mình có thể
<i>với ai nói chuyện. </i>


<i>- Lúc đó, tơi khơng biết mình phải như thế </i>
<i>nào đối mặt với các thầy cô giáo và bố mẹ </i>
của tôi.


<i>- Trên đường về, chúng em bài hát hát rất </i>
<i>hay. </i>


Ở các ví dụ nói trên các cụm động từ đều bị
sắp xếp sai trật tự, đáng lẽ phải viết động từ
đứng trước rồi đến các thành phần khác
nhưng sinh viên Trung Quốc lại đặt ngược lại.
<i>Lỗi về phong cách ngôn ngữ </i>



Dùng khẩu ngữ trong bài viết cũng là một lỗi


mà các em có trình độ tiếng Trung trung cấp
thường hay mắc phải. Lưu học sinh Trung
Quốc có thói quen nói như thế nào thì viết
như thế ấy nên khơng thích hợp với lối văn
viết. [7]


Ví dụ trong bài viết về sự tích các ngày lễ
tết của Trung Quốc có nhiều sinh viên viết
như sau:


- Nhưng bố mẹ của Chúc Anh Đài không
<i>thích Lương Sơn Bá vì anh ấy nghèo rớt </i>
<i>mùng tơi. </i>


- Thiên Bình cịn là một trong những người
thích cơ ấy, nhưng mà Tiên Cơng làm quan vì
<i>vậy khơng được phép có tình u. Nên các </i>
<i>thần tiên phải là người độc thân khơng được </i>
<i>lập gia đình nhé! </i>


<i>Lỗi thiếu thành phần câu </i>


- Thứ sáu tuần trước, được đi chơi Hồ Núi
Cốc cảm thấy vui lắm.


- Những lần đi học tập thực tế tham quan.
- Tuy cuộc sống ở Việt Nam khá khác biệt so
với Vân Nam Trung Quốc.



Kiểu lỗi ở hai ví dụ trên là kiểu lỗi mà sinh
viên Trung Quốc thường mắc phải: lỗi thiếu
thành phần chủ ngữ, vị ngữ làm nòng cốt câu.
Nguyên nhân là do lưu học sinh chưa có kiến
thức đầy đủ và chính xác về các thành phần
nòng cốt của câu. Bên cạnh đó là lỗi thiếu
một vế của câu ghép như ở ví dụ thứ ba.
Kiểu lỗi trên là một trong những kiểu lỗi phổ
biến mà lưu học sinh Trung Quốc mắc phải khi
đặt câu với từ cho sẵn hoặc viết một văn bản
ngắn. Nguyên nhân chính của loại lỗi này là do
sinh viên Trung Quốc chưa nắm được những
mơ hình cấu trúc của các loại câu thường dùng
như: câu so sánh, câu chủ động, câu bị động,
<i>câu ghép có các cặp quan hệ từ. [1] </i>


Giải pháp khắc phục


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Nguyễn Thị Ngọc Anh và Đtg </i> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 174(14): 165-170


169
<i>Thứ nhất về nguyên nhân gây lỗi: </i>


Giáo viên cần tìm nguyên nhân gây lỗi và có
biện pháp chữa lỗi cụ thể cho lưu học sinh ở
từng trường hợp.


Giáo viên viên nên phát hiện ra lỗi của lưu
học sinh đồng thời phải chỉ ra nguyên nhân


gây ra lỗi ngôn ngữ để từ đó có cách khắc
phục hiệu quả nhất.


<i>Thứ hai về thái độ của giảng viên tiếng Việt </i>
<i>Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên đối với </i>
<i>việc vi phạm lỗi ngôn ngữ của lưu học sinh: </i>
- Giáo viên nên có thái độ tích cực đối với
việc phạm lỗi của lưu học sinh vì việc người
học phạm lỗi là một điều khơng thể tránh khỏi
trong q trình học.


- Giáo viên nên tạo điều kiện cho người học
nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nhiều
hơn và luyện tập trước khi nói tự do: làm việc
theo cặp đơi, theo nhóm, xây dựng các đoạn
hội thoại theo chủ đề cho trước hoặc với
những từ cho trước.


- Giáo viên cũng cần tận dụng các phương
tiện hỗ trợ nghe nhìn như máy cát xét, máy
thu hình, máy vi tính để cho người học nghe
và luyện âm thêm. Khoa Ngoại ngữ đã được
trang bị 08 phòng học đa chức năng rất phù
hợp và hữu ích cho việc luyện âm của sinh
viên Trung Quốc.


- Ở trên lớp, giáo viên nên dành nhiều thời
gian cho việc luyện các âm khó và khuyến
khích người học thường xuyên luyện âm thêm
ở nhà bằng việc giao bài tập cho sinh viên


như yêu cầu thu âm rồi gửi bài tập qua email.
<i>Thứ ba về biện pháp sửa lỗi: </i>


Giáo viên cần tự thiết kế các dạng bài tập sửa
lỗi sai dựa trên cơ sở những lỗi sai của lưu
<i>học sinh đã được phát hiện. </i>


- Bài tập sửa lỗi ngữ âm


Dạng bài tập này đòi hỏi giáo viên phải dành
nhiều thời gian luyện âm cho người học, luyện
tập trên lớp và luyện tập bên ngoài lớp học.
Giáo viên xây dựng một môi trường học hoàn
toàn bằng tiếng Việt: làm việc theo cặp đôi,
theo nhóm, xây dựng các đoạn hội thoại theo
chủ đề cho trước hoặc với những từ cho trước.


Các dạng bài tập để khắc phục lỗi ngữ âm là:
Bài tập nghe, điền vào chỗ trống; Bài tập lựa
chọn thanh điệu; Bài tập luyện phát âm.
<i>- Bài tập sửa lỗi về từ vựng </i>


Đối với lỗi từ vựng thì khi đưa ra các dạng
bài tập để khắc phục lỗi, giáo viên vừa giải
thích lỗi vừa sửa lỗi để người học ý thức được
lỗi và có thể tránh được lỗi khi nói lại các từ
đó lần sau. Hệ thống bài tập về luyện kĩ năng
dùng danh từ đơn vị, giới từ, hư từ hợp lí để
sinh viên có thể nói và viết chuẩn ngữ nghĩa
tiếng Việt như: Bài tập điền từ vào ô trống;


Bài tập lựa chọn từ; Bài tập ghép từ.


- Bài tập sửa lỗi về ngữ pháp


Đối với lỗi về ngữ pháp: lỗi về trật tự từ, lỗi
thiếu thành phần câu, thiếu một vế câu… các
dạng bài tập như: sắp xếp các từ thành câu,
hoàn chỉnh các câu, nối hai vế câu sẽ giúp sinh
viên rèn luyện kĩ năng viết chuẩn câu tiếng
Việt. Qua đó, người học phân biệt được sự
khác biệt giữa những mẫu câu cơ bản của tiếng
Trung và tiếng Việt để không bị mắc những lỗi
cơ bản về ngữ pháp tiếng Việt như trước.
Các dạng bài tập giúp khắc phục lỗi ngữ pháp
hiệu quả như: Bài tập sắp xếp các từ thành
câu; Bài tập hoàn chỉnh các câu; Bài tập nối
hai vế câu. [2]


KẾT LUẬN


Trong quá trình dạy - học, người dạy cần tìm
hiểu, nghiên cứu, nắm vững điểm tương đồng
và dị biệt về ngôn ngữ và văn hoá giữa Việt
Nam với Trung Quốc để có thể nâng cao hiệu
quả dạy - học tiếng Việt cho sinh viên Trung
Quốc. Người dạy phải có thái độ đúng mực và
tích cực đối với việc phạm lỗi của sinh viên,
chủ động tìm ra nguyên nhân phạm lỗi để từ
đó đưa ra những đề xuất chữa lỗi cụ thể và
hiệu quả.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Nguyễn Thị Ngọc Anh và Đtg </i> Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 174(14): 165-170


170


Các khóa sinh viên sang Khoa Ngoại ngữ học
tiếng Việt được giáo viên chú trọng chữa lỗi
ngôn ngữ song song với việc được cung cấp,
thực hành rèn luyện các kiến thức mới. Điều
đó tạo cơ hội phát triển tồn diện các kĩ năng
thực hành tiếng cho sinh viên Trung Quốc.
Bên cạnh các phương pháp tối ưu cho việc
chữa lỗi sai về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp là
hệ thống các dạng bài tập sẽ giúp sinh viên tự
rèn luyện, trau dồi năng lực tiếng Việt của
mình để nâng cao trình độ tiếng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


<i>1. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, </i>
Nxb Giáo dục, Hà Nội.


2. Phạm Đăng Bình (2002), “Thử đề xuất một
cách phân loại lỗi của người học ngoại ngữ nhìn
từ góc độ dụng học giao thoa ngơn ngữ - văn hố”,


<i>Tạp chí Ngôn ngữ, số 9, tr.58-72 </i>


<i>3. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng </i>



<i>Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. </i>


4. Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Hoàng Thân
(2007), “Đặc điểm tương đồng và dị biệt của ngơn
ngữ và văn hóa Việt, Trung ảnh hưởng tới việc sử
dụng, tiếp thu tiếng Việt trong quá trình học tập
<i>của sinh viên Trung Quốc”, Tạp chí Khoa học và </i>


<i>Cơng nghệ - Đại học Đà Nẵng, 3(20), tr. 6-13.</i>


<i>5.Nguyễn Thiện Nam (2000), Khảo sát lỗi ngữ </i>


<i>pháp tiếng Việt của người nước ngoài và những </i>
<i>vấn đề liên quan, Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Trường </i>


<i>ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.</i>
6.<i>Đỗ Thị Thu (1997), Xem xét cách diễn đạt câu </i>


<i>tiếng Việt của người nước ngoài học tiếng Việt, </i>


Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường
ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà (1997),


<i>Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. </i>


<i>8. Nguyễn Minh Thuyết (2011), Tiếng Việt thực </i>


<i>hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. </i>



SUMMARY


LANGUAGE ERRORS OF CHINESE STUDENTS STUDYING


VIETNAMESE LANGUAGE AT SCHOOL OF FOREIGN LANGUAGES,
THAI NGUYEN UNIVERSITY AND PROPOSALS FOR CORRECTION


Nguyen Thi Ngoc Anh*, Hoang Huyen Trang


<i>School of Foreign Languages – TNU </i>


Therefore, detecting and analyzing errors in order to find solutions for error corrections is crucial
in teaching Vietnamese language for foreingers. This paper studies the language errors of Chinese
students learning Vietnamese language at School of Foreign Languages, Thai Nguyen University.
These errors are often found when they are studying Vietnamese phonetics, vocanulary and
grammar. This paper also proposes some solutions that can be applied in teaching and learning
Vietnamese languages for Chinese students as well as other foreign learners at School of Foreign
Languages, Thai Nguyen University. The proposed solutions include finding the causes of the
errors, analyzing teachers’ attitudes towards learner’s errors, and giving tasks on error corrections.
<i>Keywords: Language miscues, Chinese students, phonetics, vocabulary, grammar. </i>


<i>Ngày nhận bài: 15/10/2017; Ngày phản biện: 29/10/2017; Ngày duyệt đăng: 13/12/2017 </i>




*


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>oµ </i>

<i>soT</i>

Tạp chí Khoa học và C«ng nghƯ






THE SPECIAL ISSUE FOR THE 10

th

FOUNDATION ANNIVERSARY



SCHOOL OF FOREIGN LANGUAGES - TNU (2007-2017)



Content

Page


Le Hong Thang – Discussion on Project-Based Learning Approach 3


Nguyen Thi Nhu Nguyet, Chu Thanh Thuy - Students’ Output Competency Assessment in Using Russian
Language at Level A2-B1 on the Basis of Common European Framework of Reference at School of Foreign


Languages, Thai Nguyen University 7


Nguyen Thuy Linh - Evaluation and Assessment in Project-Based Learning - Some Practical Suggestions 13


Vu Thi Thanh Hue - Students’ Perception about an Online Extensive Reading Course with the Help of Edmodo 19


Mai Thi Thu Han, Nguyen Thi Lien, Hoang Thi Tuyet, Duong Thi Ngoc Anh - Fostering Learners’


Autonomy through Project Work in an ESP Class at Hoa Lu University: A Case Study 25


Duong Duc Minh, Duong Lan Huong - A Study on the Interaction between the Presenter and Audience in the


Presentation Skill for English Major Students at School of Foreign Languages - Thai Nguyen University 31


Pham Thi Kim Uyen - Use of Journals in Teaching Translation for English Major Students of Nha Trang University 37


Le Thi Hong Phuc - Students’ Responses to the TV Show Project as the End-of-Term Assessment in the



Pronunciation Course 43


Han Thi Bich Ngoc - Teaching Outside the Classroom - Integrating Social Media into Innovative Language


<i>Teaching: The Case of Facebook </i> 49


Nguyen Ngoc Luu Ly, Quach Thi Nga - Some Features in Applying Multimedia Tools into Teaching


Elementary Chinese in School of Foreign Languages - Thai Nguyen University 55


Le Thi Hoa, Dau Thi Mai Phuong - Fostering the 21st Century Skills in Project-Based ESP Learning 61


Nguyen Thi Bich Ngoc, Tran Minh Thanh - Methods to Increase the English Magazine Project Power in the
Study of the English Written Language for English Major Students at School of Foreign Languages - Thai


Nguyen University 67


Hoang Thi Huyen Trang, Nguyen Thi Ngoc Anh - Developing English Language Reading Comprehension


amongst EFL/ESL Learners through Culturally Relevant Texts 73


Nguyen Quoc Thuy, Nguyen Thi Doan Trang - Teaching Foreign Languages through Magazine Project at


Thai Nguyen University of Education 79


Nguyen Tuan Anh - PBLL Course Development as a Way of Ensuring a Multidisciplinary Program 85


Do Thi Son, Do Thi Phuong - An Analysis of Students’ Errors at School of Foreign Languages, Thai Nguyen


University in Directly Translating from Sino-Vietnamese Words to Chinese and Solutions 91



Tran Dinh Binh - Application of Project-Based Learning in Language Teaching in Vietnam 97


Le Thi Khanh Linh, Le Thi Thu Trang- Evaluative Devices in Personal Narratives from American and


Vietnamese Talk Shows 103


Do Thanh Mai, Phung Thi Thu Trang - The Application of Moodle in E-Learning and Teaching Informatics


at School of Foreign Languages – Thai Nguyen University 109


Mai Thi Ngoc Anh, Vi Thi Hoa, Pham Hung Thuyen - Application of Project-Based Learning to the Teaching


of Chinese Excursion at School of Foreign Languages – Thai Nguyen University 117


Tran Thi Hanh - Students’ Perceptions on the Use of Edmodo as a Supplementary Tool in Learning 123


Bui Thi Ngoc Oanh - Using Project-Based Learning to Improve English Speaking Skills of Non-English Major


Students of Level A2 129


Journal of Science and Technology



174

(14)



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nguyen Hanh Dao, Dinh Nu Ha My - A Participatory Case Study into Learners’ Difficulties and Pedagogical


Implications of Doing Project-Based Learning ESP Course 135


Nguyen Thi Kim Oanh - Project-Based Language Learning Adopted for an ESP Module in School of Foreign



Languages, Hanoi University of Science and Technology: Benefits, Challenges and Recommendations 141


Vu Thi Kim Lien - Enhancing Pragmatic Competence of Students at University of Languages and International


Studies, VNU 147


Dam Minh Thuy - Integrated Skills in Foreign Language Learning via Video Project "Study of the Cultural


<i>Influences of France in Vietnam" </i> 153


Nguyen Thi Thu Hoai - Situation of Intern Teaching Program of English Subject at Some Selected High


<i>Schools in Thai Nguyen City and Suggested Sollutions </i> 159


Nguyen Thi Ngoc Anh, Hoang Huyen Trang - Language Errors of Chinese Students Studying Vietnamese


Language at School of Foreign Languages, Thai Nguyen University and Proposals for Correction 165


Quach Thi Nga, Do Thi Thu Hien - Problems and Suggestions for Chinese - Vietnamese Translation


Textbooks in Vietnam (Investigate in School of Foreign Languages - TNU) 171


Phan Thanh Hai - Toward a Project Based Learning Curriculum for TEFL B.A Program within Profession Oriented


Higher Education 177


Le Vu Quynh Nga, Ly Thi Hoang Men, Nguyen Thi Thu Oanh - Enhancing Students’ Translation


Performance in School of Foreign Languages: An Application of Cooperative Learning 183


Doan Thi Thu Phuong - Language Learning Style Preferences of Grade 11 Students at a High School,


Nam Dinh 189


Dinh Thi Lien, Nguyen Thi Ngoc Anh - The System of Symbols in Then Songs of Tay People 197


</div>

<!--links-->

×