Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

SỰ KHÁC NHAU VỀ KẾT CẤU CHỮ NÔM CỦA VĂN BẢN THIỀN TÔNG BẢN HẠNH GIỮA BẢN IN NĂM 1745 VÀ BẢN IN NĂM 1932

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tập 167, số 07, 2017</b>



Tập 167


, Số


07


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i><b> </b></i>

<b>Tạp chí Khoa học và Công nghệ</b>





<b>CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ</b>



<b>Môc lôc </b> <b>Trang</b>


<b>Nguyễn Đại Đồng - Hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai dưới thời Gia Long và Minh Mệnh </b> 3


<b>Dương Thị Huyền - Thương mại châu Âu và những tác động đến tình hình chính trị Đàng Trong thế kỷ XVI- XVIII </b> 9


<i><b>Trần Thị Nhung - Miêu tả tình tiết trong Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện </b></i> 15


<i><b>Nguyễn Thị Hải Phương - Bản chất của ngôn từ văn học (nghĩ từ bài viết Bản chất xã hội, thẩm mỹ của diễn </b></i>


<i><b>ngôn văn học của Trần Đình Sử) </b></i> 21


<b>Phạm Thị Mai Hương, Nguyễn Thị Thu Trang, Ngô Thị Lan Anh - Ảnh hưởng của lễ hội Vu Lan đến đời </b>


sống đạo đức của nhân dân huyện Quốc Oai, Hà Nội 25


<b>Phạm Thị Ngọc Anh - Hình tượng văn thủy ba trong mỹ thuật cổ Việt Nam và các ứng dụng trên sản phẩm mỹ </b>



<i>thuật tạo hình hiện đại </i> 31


<b>Trương Thị Phương - Giải pháp ứng dụng hiệu quả thông tin đồ họa trên báo điện tử </b> 37


<b>Phạm Thị Nhàn - Ẩn dụ từ vị giác “ngọt” trong tiếng Hán hiện đại </b> 43


<i><b>Lương Thị Thanh Dung – Sự khác nhau về kết cấu chữ Nôm của văn bản Thiền tông bản hạnh giữa bản in </b></i>


<b>năm 1745 và bản in năm 1932 </b> 49


<b>Nguyễn Thị Quế, Phạm Phương Hoa - Đánh giá sự phù hợp của giáo trình New English File đối với việc </b>


<b>giảng dạy sinh viên không chuyên ngữ tại Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên </b> 55


<b>Hoàng Thị Thắm - Nghiên cứu về siêu nhận thức trong nghe tiếng Anh của sinh viên chương trình tiên tiến tại </b>


<b>Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên </b> 61


<b>Nguyễn Quỳnh Trang, Dương Công Đạt, Vũ Kiều Hạnh - Thiết kế chương trình bổ trợ nói cho học sinh lớp </b>


<b>10 Trường Trung học Phổ thông Thái Nguyên </b> 67


<b>Nguyễn Khánh Như - Sự phát triển của hệ thống các trường đại học sư phạm trọng điểm Trung Quốc hiện nay </b> 73


<b>Nguyễn Văn Hồng, Vũ Thị Thanh Thủy - Dạy học theo dự án và vấn đề phát triển năng lực nghiên cứu khoa </b>


học cho học sinh trong dạy học Sinh thái học ở trung học phổ thông 79


<b>Trần Thị Phương Thảo, Nguyễn Thị Hoa Hồng - Nâng cao tính ứng dụng trong xây dựng chương trình đào </b>



tạo đại học tại Việt Nam – bài học từ chương trình giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng (POHE) 85


<b>Phạm Thị Bích Thảo, Nguyễn Thành Trung - Lựa chọn bài tập thể lực chuyên môn nâng cao kết quả học tập </b>


<b>chạy cự ly ngắn cho sinh viên khóa 14 Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên </b> 91


<b>Lê Huy Hoàng, Nguyễn Thị Huyền, Nguyễn Thị Ngân, Vũ Thị Vân Anh - Phát triển năng lực sử dụng ngơn </b>


ngữ hóa học của học sinh phổ thông trong dạy học các nội dung về hóa học hữu cơ chương trình hóa học lớp 12


<b>nâng cao </b> 97


<b>Nguyễn Trọng Du - Phỏng vấn ‘nhóm tập trung’: một phương pháp thu thập dữ liệu hiệu quả với các nghiên </b>


<i>cứu khoa học xã hội </i> 103


<b>Đỗ Thị Thái Thanh, Trương Tấn Hùng, Đào Ngọc Anh - Xây dựng hồ sơ năng lực bồi dưỡng giáo viên thể </b>


<b>dục các trường trung học phổ thơng các tỉnh miền núi phía Bắc </b> 109


<b>Nguyễn Ngọc Bính, Dương Tố Quỳnh, Nguyễn Văn Thanh - Thực trạng sử dụng hệ thống phương tiện </b>


chuyên môn trong giảng dạy mơn bóng chuyền cho sinh viên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh -


<b> Đại học Thái Nguyên </b> 115


<b>Lê Văn Hùng, Nguyễn Nhạc - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động câu lạc bộ bóng đá nam sinh viên </b>


<b>Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên </b> 119



<b>Journal of Science and Technology </b>


167

(07)



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Nguyễn Văn Dũng, Lê Văn Hùng - Một số giải pháp giúp sinh viên lựa chọn mơn học tự chọn trong chương </b>


trình giáo dục thể chất dành cho sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại học Sư phạm – Đại học


Thái Nguyên 125


<b>Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trường Sơn, Đỗ Như Tiến - Một số kết quả ban đầu trong việc áp dụng CDIO </b>


<b>để xây dựng chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo tại Đại học Thái Nguyên </b> 131
<b>Đỗ Quỳnh Hoa - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng lối sống cho sinh viên Trường Đại học </b>


<i><b>Công nghệ Thông tin và Truyền thông – Đại học Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay </b></i>135


<b>Phạm Văn Hùng, Nguyễn Huy Hùng - Đánh giá đầu ra của chương trình đào tạo qua mức độ đáp ứng chuẩn </b>


<b>đầu ra của sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp </b> 141


<b>Ngô Thị Lan Anh, Nguyễn Thị Thu Hiền - Yêu cầu khách quan của việc đổi mới quy trình kiểm tra đánh giá </b>


kết quả học tập môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông nước ta hiện nay 147


<b>Trương Thị Thu Hương, Trương Tuấn Anh - Ứng dụng dạy học dự án trong đào tạo giáo viên kỹ thuật tại </b>


<i>Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - Đại học Thái Nguyên </i> 153


<b>Dương Quỳnh Phương, Trần Viết Khanh, Đồng Duy Khánh - Những nhân tố chi phối đến văn hóa tộc người </b>



<b>và văn hóa cộng đồng dân tộc dưới góc nhìn địa lí học </b> 159


<b>Nguyễn Thị Thanh Tâm, Trần Quyết Thắng, Đào Thị Hương - Đánh giá mức độ hài lòng của khách du lịch </b>


đối với đội ngũ hướng dẫn viên du lịch tại một số công ty kinh doanh lữ hành trên địa bàn thành phố Thái


<b>Nguyên </b> 165


<b>Nguyễn Văn Chung, Đinh Hồng Linh - Các yếu tố thành công cho website thương mại điện tử: trường hợp </b>


<b>doanh nghiệp du lịch nghỉ dưỡng vừa và nhỏ ở Quảng Bình </b> 171


<b>Đặng Thị Bích Huệ - Dự án hỗ trợ nơng nghiệp, nông dân và nông thôn tỉnh Tuyên Quang và các tác động đến </b>


<b>đời sống người dân trên địa bàn xã Minh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang </b> 177


<b>Lương Văn Hinh, Lương Trung Thuyền - Nghiên cứu biến động giá đất ở trên địa bàn thị trấn Thất Khê, </b>


<b>huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2011 – 2015 </b> 183


<b>Nguyễn Tú Anh, Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Thành Minh - Nghiên cứu các mối quan hệ cung ứng dịch </b>


vụ quản trị hoạt động có dịch vụ trách nhiệm xã hội: trường hợp điển cứu tại các công ty dịch vụ vận tải chở


khách vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 189


<b>Nguyễn Thị Thu Thương, Hoàng Ngọc Hiệp - Thực trạng quản lý vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư phát </b>


triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên 193



<b>Tạ Thị Thanh Huyền, Nguyễn Mạnh Dũng - Tăng cường quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách </b>


nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 199


<b>Nguyễn Thị Kim Huyền - Ứng dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS): kinh nghiệm quốc tế và bài </b>


học cho Việt Nam 205


<b>Nguyễn Thị Nhung, Phan Thị Vân Giang - Tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư </b>


nhân đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 211


<b>Phạm Thuỳ Linh, Phạm Hoàng Linh, Trần Thị Thu Trâm - Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong bối </b>


<b>cảnh hội nhập mới </b> 219


<b>Nguyễn Thị Thu Trang, Trần Bích Thủy - Động lực làm việc của cán bộ công chức xã phường: nghiên cứu </b>


<b>điển hình tại thành phố Thái Nguyên </b> 225


<b>Nguyễn Thu Thủy, Hoàng Thái Sơn - Bài học kinh nghiệm trong quản lý rủi ro thanh khoản đối với Ngân </b>


<b>hàng Thương mại Cổ phần Á Châu </b> 231


<b>Ngô Thúy Hà - Định hướng phát triển dịch vụ tín dụng cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đến năm 2020 </b> 237


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Lương Thị Thanh Dung </i> Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 167(07): 49 - 54


49



SỰ KHÁC NHAU VỀ KẾT CẤU CHỮ NÔM CỦA VĂN BẢN



<i>THIỀN TÔNG BẢN HẠNH GIỮA BẢN IN NĂM 1745 VÀ BẢN IN NĂM 1932 </i>



Lương Thị Thanh Dung<i>* </i>
<i>Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Ngun </i>


TĨM TẮT


<i>Tác phẩm Thiền tơng bản hạnh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử phát triển văn tự và văn học </i>
Nôm. Trong điều kiện đất nước trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều biến cố thăng trầm,
<i>các tư liệu Nôm thời Lý - Trần mất mát phần lớn nhưng Thiền tông bản hạnh hiện còn với hai bản </i>
in khác nhau là những cứ liệu quan trọng giúp chúng ta có cở sở nghiên cứu, đánh giá tìm hiểu
diện mạo, đặc trưng về ngôn ngữ, văn tự Nôm thời kỳ đầu. Đặc biệt về mặt kết cấu chữ Nôm, giữa
bản 1745 và bản 1932 cũng có sự khác nhau rõ rệt, văn bản ra đời ở thời điểm nào sẽ mang dấu ấn
<i>của thời điểm đó. Chính vì vậy mà chữ Nôm trong mỗi bản in của tác phẩm Thiền tơng bản hạnh </i>
đều có đặc điểm và tính chất riêng phù hợp với thời đại ra đời của văn bản.


<i>Từ khóa: Thiền tơng bản hạnh, chữ Nơm, ngơn ngữ, kết cấu, thời Lý Trần </i>


MỞ ĐẦU *


Chúng ta đều biết chữ Nôm xuất hiện do nhu
cầu dùng để ghi tiếng Việt. Chữ Nơm hồn
tồn mượn các chất liệu của chữ Hán nhưng là
mượn theo các kiểu khác nhau nên về mặt cấu
trúc nó có nhiều điểm khác khác, đây chính là
sự sáng tạo của chữ Nơm. Trước đây, đã có rất
nhiều người nghiên cứu về chữ Nôm hoặc bàn


về chữ Nôm khi nghiên cứu về nền văn học
<i>dân tộc. Thiền tông bản hạnh là một tác phẩm </i>
văn học Phật giáo thuộc thời Trần, ngôn ngữ
thời đó đã khác xa ngơn ngữ hiện nay, thậm
chí khác xa ngôn ngữ thời điểm khắc bản in
năm 1745. Và cũng chính sự sáng tạo không
<i>ngừng của chữ Nôm mà hai văn bản Thiền </i>


<i>tông bản hạnh khắc in năm 1745 tại chùa Liên </i>


Hoa và bản khắc in năm 1932 tại chùa Vĩnh
Nghiêm đã có thêm sự khác biệt.


SỰ THAY ĐỔI VỀ MẶT KẾT CẤU CHỮ NƠM


Nhìn lại công tác nghiên cứu chữ Nôm trong
mấy chục năm vừa qua, chúng ta thấy giới
nghiên cứu đã đạt được những thành tựu to
lớn. Đặc biệt, công trình khảo cứu đầu tiên về
<i>chữ Nơm là Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo, </i>


<i>diễn biến (1975) [1] đã giới thiệu về ba bài </i>


phú thời Trần của Trần Nhân Tông và Sư
Huyền Quang đồng thời bước đầu bàn về các
cấu trúc chữ Nơm nhưng đó chỉ dựa vào bản
<i>in năm 1932. Các tác phẩm khác như Tinh </i>





*


<i>Tel: 0912 750006, Email: </i>


<i>tuyển văn học Việt Nam (2004) [2], Tồn tập </i>
<i>Trần Nhân Tơng (2006) [3] chỉ chỉnh sửa, </i>


tham khảo, giới thiệu các bài phú, ca thời
<i>Trần trong Thiền tông bản hạnh chứ chưa thật </i>
<i>đi sâu vào ngôn ngữ, văn tự. Trong Thiền </i>


<i>tông bản hạnh – Phiên âm, chú giải [4], tác </i>


giả đính kèm bản in năm 1745 do tác giả
Hoàng Xuân Hãn sưu tầm tại chùa Liên Hoa.
Ở bản này, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã bước
đầu đánh dấu bằng kí hiệu riêng và sau mỗi
đoạn lại chỉ ra những chữ Nôm đáng chú ý.


<i>Cũng theo Thiền tông bản hạnh – Phiên âm, </i>


<i>chú giải (2009) [4, tr.16] thì chữ Nơm trong </i>


bản 1745 có đặc điểm nhiều chữ đơn vì
những lí do:


1. Những từ được ghi bằng hai mã chữ tách
rời trong chữ Nôm thời Trần đã bị lược bỏ
hoàn toàn thành tố thứ nhất, chỉ còn lại mã
thứ hai ghi âm tiết chính cho phù hợp với âm


đọc đương thời.


2. Sử dụng nhiều từ Hán Việt.


3. Chưa sử dụng nhiều thành tố biểu ý.


4. Chưa sử dụng nhiều dấu nháy và ký hiệu phụ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Lương Thị Thanh Dung </i> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 49 - 54


50


1745, nhiều từ chỉ thấy xuất hiện trong các
bản từ thời Lê Sơ về trước.


<i>Ví dụ: Trong bản 1745 dùng bả 把 để ghi trả, </i>
<i>dùng cung 宫 ghi trong…từ cổ như cóc 谷 </i>
<i>(biết), mựa 罵 (chớ, đừng), tua 须 (nên)... </i>


Dưới đây là một số ví dụ sự thay đổi chữ Nơm
từ bản in năm 1745 đến bản in năm 1932.


<i>Bài Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền </i>
<i>tông bản hạnh </i>


Câu Bản in năm 1745


Chữ
Nôm
1745


Chữ
Nôm
1932
10


Thóc Hán gạo
Đường đại nẫm
phong niên


禿


13 Vốn xưa cổ tích
danh lam 初
36 Khai hoa kết quả


đều thì chứng nên 年


42


Khêu đèn chong
ngọn đợi người
hữu duyên




Tóm lại, dù các chữ Nôm ở bản in năm 1745
và bản in năm 1932 khác nhau như thì mục
đích chính của các bản in đó là để cho người
đương thời dễ đọc, dễ hiểu. Vì lẽ đó, chữ Nơm
của bản in năm 1745 mang dấu tích của chữ


Nơm thời Lê cịn chữ Nơm bản in năm 1932
mang dấu tích của chữ Nơm thời Nguyễn.


<i>CHỮ NƠM TRONG THIỀN TÔNG BẢN </i>


<i>HẠNH QUA BẢN 1745 VÀ BẢN 1932 </i>


<i>Tác phẩm Thiền tông bản hạnh có tổng số </i>
8471 chữ Nơm thì có 786 trường hợp cùng
một chữ Nơm nhưng có dạng kết cấu khác
<i>nhau giữa hai bản in. Trong đó, bài Yên Tử </i>


<i>sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền tông bản hạnh </i>


<i>có 419 trường hợp, bài Cư trần lạc đạo phú </i>
<i>có 274 trường hợp, bài Đắc thú lâm tuyền </i>


<i>thành đạo ca có 45 trường hợp, bài Vịnh chùa </i>
<i>Hoa Yên tự phú có 48 trường hợp. </i>


Trong phần này, việc phân định tỉ lệ của các
chữ Nôm chúng tôi dựa theo bản 1745. Tức là
kết cấu văn tự trong bản 1745 sẽ phân ra
thành các tiểu loại nhỏ và so sánh với các
dạng kết cấu văn tự ở bản 1932. Từ đó đưa ra
những nhận định về sự thay đổi kết cấu văn tự
giữa hai bản.


Sau khi thống kê những chữ Hán khác nhau
về kết cấu văn tự giữa bản năm 1745 và bản


năm 1932 chúng tơi có phân loại thành các
dạng sau:


Loại chữ đơn


Loại này bao gồm những chữ mượn thẳng từ
chữ Hán và khơng có cấu trúc nội tại (gọi là
loại A). Ở đây có thể chia thành các tiểu loại
sau:


<i>Loại mượn hình, âm Hán Việt và Nghĩa (A1) </i>


Kiểu loại A1 được dùng biểu thị các tiếng
Hán Việt, nó có sự trùng khít cả ba mặt hình –
âm – nghĩa với một chữ Hán. Trong kho tàng
từ vựng tiếng Việt những từ gốc Hán đọc với
âm Hán Việt còn khá phổ biến nên việc mượn
ngay chữ Hán để ghi những từ mượn ở tiếng
Hán Việt là điều hồn tồn có thể chấp nhận
được trong q trình tạo chữ Nơm.


<i>Từ cùng ở bản năm 1745 穷 và bản năm 1932</i>
窮 thực chất đều là một và mang nghĩa là vô
cùng tận, cực kỳ nhưng vì hai bản khơng
thống nhất một cách viết nên chúng tôi cho
rằng đây cũng là một lí do dẫn đến sự khác
nhau của bản năm 1745 và bản năm 1932.
<i>Trường hợp từ ngại 碍 bản 1745 là từ mượn </i>
hoàn toàn tiếng Hán. Sang đến bản 1932, theo
<i>yếu tố liên tưởng trường nghĩa với bộ thạch </i>


<i>石 trong chữ ngại 碍 cùng với yếu tố biểu ý là </i>


<i>nghi 疑, biểu thị sự khó khăn, trở ngại. Chữ </i>
<i>ngại 碍 bản 1745 chuyển thành 礙 ở bản 1932 </i>


là từ có kết cấu chữ ghép và có cấu trúc nội
tại. Trong bảng thống kê của chúng tôi, loại
chữ Nôm này chỉ có 3 trường hợp trong cả tác
phẩm, chiếm khoảng 0,38%.


<i>Mượn hình và nghĩa chữ Hán (A2) </i>


Kiểu loại A2 đọc theo âm Tiền Hán Việt hoặc
Hán Việt Việt hoá - gọi chung là phi Hán
Việt, tức là cách đọc không phải Hán Việt đối
với những từ gốc Hán - ở các văn bản Hán,
chữ này chỉ được đọc theo âm Hán Việt
nhưng ở các văn bản Nôm thì nó có thể đọc
theo âm Hán Việt hoặc các âm phi Hán Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Lương Thị Thanh Dung </i> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 49 - 54


51
thống kê của chúng tơi, có 25 trường hợp,


chiếm khoảng 3,18%.


<i>Mượn hình, âm Hán Việt, bỏ nghĩa (A3) </i>


Có hiện tượng dùng chữ Hán để ghi âm Nơm


một cách chính xác là do giữa hệ thống ngữ
âm tiếng Việt và hệ thống ngữ âm Hán Việt có
hiện tượng đồng âm. Những người tạo ra chữ
Nôm đã biết lợi dụng điều này trong khi mượn
những tiếng Hán Việt để ghi những tiếng thuần
Việt đồng âm nhưng không đồng nghĩa.
Loại chữ Nôm này chúng tôi thống kê được
70 trường hợp trong cả tác phẩm nhưng có
những chữ tần xuất sử dụng rất lớn. Ví dụ
<i>như từ một bản 1745 ghi 蔑,bản 1932 ghi 沒. </i>
<i>Trong bài Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều </i>


<i>Thiền tông bản hạnh, số lần xuất hiện là 25 </i>


<i>lần, Bài Cư trần lạc đạo phú 9 lần, Bài Đắc </i>


<i>thú lâm tuyền thành đạo ca 2 lần. Loại này </i>


<i>chiếm khoảng 8,91%. </i>


<i>Mượn hình, âm Hán Việt đọc chệch (A4) </i>


Do hệ thống ngữ âm Hán Việt nghèo hơn hệ
thống ngữ âm thuần Việt mà trong điều kiện
dùng chữ Hán đọc với cách đọc Hán Việt để
ghi tiếng thuần Việt thì hiện tượng mượn âm
na ná, âm Hán Việt gần giống là một lẽ dĩ
nhiên. Theo các nhà nghiên cứu, loại chữ ghi
âm khơng chính xác ở thời đầu xuất hiện
tương đối nhiều. Về sau chúng được bổ sung


thêm các bộ thủ hoặc chữ Hán biểu ý để thành
chữ hình thanh nên số lượng giảm dần. Trong


<i>Thiền tông bản hạnh, tiểu loại này tần xuất sử </i>


dụng trong văn bản rất cao, chiếm đa số các
từ trong bản thống kê của chúng tôi.


Các tiểu loại chữ Nôm trên đây đều có tự
dạng đồng nhất với chữ Hán, nhiều người
quen gọi là chữ giả tá. Sự khác nhau ở các
tiểu loại thể hiện ở chỗ: A1, A2 trong khi
mượn nguyên chữ Hán để làm chữ Nôm
người Việt đã sử dụng đồng thời hai mặt (mặt
âm và mặt nghĩa). Còn ở A3, A4 thì chỉ sử
dụng riêng một mặt, hoặc chỉ đơn thuần mặt
âm (A3, A4). Ở A1, A2, thực chất là hiện
tượng vay mượn ngôn ngữ trong khi ở A3, A4
thì chỉ có hiện tượng đơn thuần là vay mượn
ký hiệu văn tự. Riêng sự khác nhau giữa A1,
A2 và A3, A4 lại thể hiện ở một phương diện


khác: những chữ thuộc A1, A3 đều có cách
đọc thống nhất ở trong văn bản, còn A2, A4
lại khơng có sự thống nhất đó. Có thể so sánh:


Âm Hán Âm Nôm
A1 Cùng Cùng
A2 Sơ Xưa
A3 Một Một


A4 Thốc Thóc


Loại chữ ghép


<i>Ghép một chữ Hán với ký hiệu phụ (B1) </i>


<i>Kí hiệu phụ trong tác phẩm Thiền tông bản </i>


<i>hạnh bản năm 1745 và bản năm 1932 thường </i>


khơng giống nhau. Kí hiệu phụ thường là các
bộ thủ trong 214 bộ thủ Hán. Trong bảng liệt
kê của chúng tôi, ký hiệu phụ là các dấu cá
(个) hoặc nháy (`).


Ở đây, các ký hiệu phụ trên khơng có ý nghĩa
mà chỉ có tác dụng báo cho người đọc biết
cách dùng giả tá và khi đọc phải đọc chệch đi
so với âm Hán Việt. Sự sáng tạo ở đây tuy
chưa nhiều nhưng không phải là không có.
Trong phần thống kê của chúng tôi, loại chữ
<i>Nôm này chỉ có 3 trường hợp trong bài Cư </i>


<i>trần lạc đạo phú, chiếm khoảng 0,38%. </i>
<i>Ghép âm – ý (B2) </i>


Đối với chữ Nôm thuộc loại này, các yếu tố
tham gia biểu ý có thể là bộ thủ hoặc các
chữ Hán.



Khi bộ phận biểu ý là một bộ thủ thì nó chỉ
biểu thị ý nghĩa một cách khái quát, còn khi là
một chữ Hán cụ thể thì nó biểu thị ý nghĩa
một cách rất cụ thể, nghĩa là có tính chính
xác. Ở bản 1745, hai loại chữ kể trên khơng
nhiều lắm, vì chữ Nôm được tạo ra theo lối
giả tá, nhưng về sau chúng lại có xu thế phát
triển do nhu cầu chính xác hố ngày càng cao
nên văn tự trong bản 1932 sử dụng chữ Nôm
theo kiểu âm ý tương đối nhiều. Chúng tôi
thống kê được 155 trường hợp trong tác
<i>phẩm. Cụ thể là bài Yên Tử sơn Trúc Lâm </i>


<i>Trần triều Thiền tông bản hạnh 84 trường </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Lương Thị Thanh Dung </i> Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ 167(07): 49 - 54


52


Nôm này chiếm tỉ lệ tương đối cao chỉ sau
trường hợp chữ Nôm giả tá.


<i>Ghép âm – âm (B3) </i>


Đây là loại chữ Nơm cịn mang dấu vết các tổ
hợp phụ âm đầu trong tiếng Việt, một thành
tố dùng để ghi phụ âm thứ nhất, thành tố thứ
hai dùng để ghi âm tiết chính. Trong văn bản
những chữ Nơm loại này rất ít nhưng cũng rất
đáng lưu ý vì chúng ghi được các tổ hợp phụ


âm đầu kl, tl trong tiếng Việt cổ.


<i>- Chữ sang </i> ghi bằng (cự + lang) > clang


> sang


<i>Vượt sang Đông thổ truyền nay kể rằng </i>
<i>Bài Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền </i>
<i>tông bản hạnh (28,154,164,168,345) </i>


- Chữ lời ghi bằng (ma + lệ) > mlời > nhời > lời


<i>Chăng lạ gì lời vấn đáp tiêu tao </i>


<i>Bài Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền </i>
<i>tông bản hạnh: </i>


(29,66,156,162,294,347,403,434,566,591,
606,630)


<i>Bài Cư trần lạc đạo phú: 99 </i>
<i>Bài Vịnh Vân Yên tự phú: 8 </i>


Trong những tác phẩm chữ Nôm cổ như:


<i>Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, </i>
<i>Chỉ nam ngọc âm, Truyền kỳ mạn lục,... Từ </i>


điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes
xuất bản tại Rôm năm 1651 còn ghi lại ba tổ


hợp phụ âm đôi là bl, tl, ml. Đặc biệt, trong
<i>việc so sánh tác phẩm chữ Nôm Thiền tông </i>


<i>bản hạnh giữa bản 1745 và bản 1932 chúng </i>


tôi nhận thấy, bản 1745 còn lưu giữ lại tương
đối các âm Nôm cổ nhưng đến bản 1932 thì
được thay thế bằng các chữ Nôm khác hiện
đại, dễ hiểu hơn rất nhiều. Trường hợp này
chúng tôi thống kê được trong tác phẩm 19
trường hợp, chiếm 3,38%.


<i>Ghép ý – ý (B4) </i>


Loại chữ Nôm ghép ý – ý hay còn được gọi là
chữ hội ý. So với các tiểu loại trên, loại này
có số lượng tương đối ít. Mặc dù tác phẩm


<i>Thiền tông bản hạnh có rất nhiều trường hợp </i>


sử dụng từ ghép ý – ý này nhưng trong bảng
<i>thống kê về sự thay đổi văn bản Thiền tông </i>


<i>bản hạnh từ bản 1745 đến bản 1932 của </i>


<i>chúng tôi, chỉ có trường hợp câu từ lời trong </i>


<i>bản 1745 thay bằng lời </i> trong 1932. Ở thời


Trần rất nhiều các chữ Nôm được ghi bởi hai


<i>mã chữ, ví dụ chữ trời được ghi bằng chữ ma</i>
<i>麻 và lệ 例 nhưng sang đến đời Lê thì hai mã </i>


chữ được viết gọn lại thành . Đây là cách


viết quen thuộc của giai đoạn cuối Lê đầu
Nguyễn, nhất là trong các Kinh Thánh, dùng


<i>chữ Nôm trời </i> <i> + khẩu 口 thành lời </i> . Và


từ này được thay thế trong bản 1932 nên
chúng tôi chỉ khái qt lại chứ khơng tính là
một trường hợp trong bảng thống kê phần tiểu
loại này.


NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN SỰ
KHÁC NHAU VỀ KẾT CẤU CHỮ NÔM
GIỮA HAI VĂN BẢN


Ngay trong những nhận định ban đầu của
<i>chúng tôi, chữ Nôm trong Thiền tông bản hạnh </i>
bản in năm 1932 hiện đại, dễ hiểu hơn rất
nhiều so với bản in năm 1745. Chữ Nơm trong
q trình phát triển có xu thế ngày càng hoàn
thiện hơn về cấu trúc văn tự, hiện tượng vay
mượn chữ Hán ngày càng ít đi, thay vào đó là
các chữ Nơm tự tạo. Ngun nhân chính là do
sự tác động của quy luật phát triển ngôn ngữ
tiếng Việt trên con đường đơn tiết hố, vì văn
tự ln đi sau lời nói để ghi lại ngôn ngữ.


Tiếng Việt ở thời điểm 1745 khác tiếng Việt
thời điểm 1932. Bởi vậy, khi ghi lại ngôn ngữ
ở hai thời điểm cách nhau gần hai thế kỷ thì
cấu trúc chữ Nôm ở hai thời điểm cũng rất
khác nhau. Theo GS. TS Nguyễn Ngọc San:
Từ khi xuất hiện chữ Nôm cho đến các giai
đoạn phát triển của nó sau này, giữa hệ thống
âm Hán Việt và hệ thống âm thuần Việt bao
giờ cũng có một sự thiếu ăn khớp. Nếu gọi X
là âm Hán Việt và X’ là âm thuần Việt thì luôn
luôn tồn tại một hiện tượng X # X’, X muốn
đọc thành X’ phải có sự chỉnh âm [5, tr.41].


<i>Thiền tông bản hạnh là một tác phẩm chữ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Lương Thị Thanh Dung </i> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 49 - 54


53
khỏi sự sửa chữa, nhuận sắc cho dễ đọc, dễ


hiểu với người đương thời. Trong văn bản


<i>Thiền tông bản hạnh bản in năm 1932 xuất </i>


hiện rất nhiều các yếu tố biểu âm, biểu ý
khiến cho văn bản không những khác xa so
với bản in năm 1745 mà theo chúng tơi, nó
cũng rất khác với bản in trước nó. Trong bảng
thống kê của chúng tôi về phần văn tự, các
chữ Nôm đơn trong bản 1745 chiếm gần 2/3


trong tổng số chữ Nôm khác nhau mà chúng
tôi thống kê được. Và những chữ này khi ở
bản 1932 thì hầu như được thay thế bằng các
chữ Nôm tự tạo, thường là có thêm yếu tố
biểu ý. Chính sự thay đổi này đã khiến cho
giới độc giả rất nghi ngờ về việc tác phẩm


<i>Thiền tơng bản hạnh có phải là tác phẩm chữ </i>


Nôm thời Trần hay không khi trong nước
chưa biết đến bản 1745.


Khi giới Hán Nôm trong nước biết đến bản in
<i>1745 này thì đều nhận định Thiền tông bản </i>


<i>hạnh là tác phẩm chữ Nôm văn Nôm thời </i>


Trần là có căn cứ. Tuy nhiên, một số nhà
nghiên cứu khẳng định rõ hơn rằng: văn bản
mang đậm dấu vết của chữ nôm thời Lê
nhưng vẫn còn lưu lại đáng kể dấu vết của
chữ Nôm văn Nôm thời Trần.


Nguyên nhân thứ hai phải kể đến là do nguồn
gốc xuất xứ của hai văn bản. Do không xuất
xứ từ cùng một văn bản nên sự khác nhau của
bản 1745 và bản 1932 là điều dễ hiểu. Hiện
<i>nay, tác phẩm Thiền tông bản hạnh được </i>
đánh giá là một tác phẩm nổi tiếng và có giá
trị về mọi mặt, lịch sử, văn học, xã hội cũng


như tôn giáo. Tuy nhiên, trước đây việc
truyền bản là do nhu cầu tôn giáo, tuyên
truyền về đạo Phật là chính. Trải qua bao


nhiêu biến cố của đất nước, và do tác động
của quy luật phát triển ngôn ngữ tiếng Việt
cùng sự loại bỏ các yếu tố đã mất chức năng
văn tự nên tác phẩm khơng cịn lưu giữ được
như ngun bản không chỉ là vấn đề riêng của


<i>Thiền tông bản hạnh mà là hiện trạng chung </i>


của nền văn học Việt Nam giai đoạn này.


KẾT LUẬN


<i>Qua so sánh hai bản của tác phẩm Thiền tông </i>


<i>bản hạnh chúng tôi nhận thấy bản 1745 và </i>


bản 1932 khác nhau rất nhiều về mặt cấu trúc
chữ Nôm. Các chữ Nôm ở bản 1745 thường
là các chữ Nôm đơn nhưng sang bản 1932
những chữ này đã được thêm vào các yếu tố
biểu ý tạo thành các chữ Nôm ghép.


<i>Tác phẩm Thiền tông bản hạnh được lưu </i>
truyền đến ngày nay chắc hẳn đã chứa đựng
biết bao thăng trầm trong đó. Dù sao, để cịn
<i>được một Thiền tơng bản hạnh như ngày </i>


hôm nay với những giá trị hiện tại đó những
kẻ hậu học như chúng ta phải biết nhớ ơn và
trân trọng ý thức gìn giữ, lưu truyền của
những người đi trước và những công việc mà
họ đã làm.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


<i>1. Đào Duy Anh (1975), Chữ Nôm – Nguồn gốc, </i>


<i>Cấu tạo, Diễn biến, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. </i>


<i>2. Nguyễn Đăng Na (2004), Tinh tuyển văn học Việt </i>


<i>Nam, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, TP. Hồ Chí Minh. </i>


<i>3. Lê Mạnh Thát (2006), Toàn tập Trần Nhân </i>


<i>Tơng, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. </i>


<i>4. Hoàng Thị Ngọ (2009), Khảo cứu, phiên âm, chú </i>


<i>giải – Thiền tông bản hạnh, Nxb Văn học, Hà Nội. </i>


<i>5. Nguyễn Ngọc San (2003), Lý thuyết chữ Nôm </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Lương Thị Thanh Dung </i> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 49 - 54


54



SUMMARY


DIFFERENCES BETWEEN THE STRUCTURE OF NOM LETTERS IN THE
<i>PRINT BLOCK OF THIEN TONG BAN HANH IN 1745 AND THE BLOCK IN 1932 </i>


Luong Thi Thanh Dung*
<i>University of Science - TNU </i>


<i>Thien tong ban hanh has a special position in the history of the development of Nom documents </i>


and literature. In the context of the country experiencing many development periods with many up
and downs, many materials of Nom letters during the Ly - Tran dynasty have disappeared but there
<i>have been two different important print records of Thien tong ban hanh. They serve as a base for </i>
researches, on the appearance, language characteristics and scripts of the early Nom letters.
Especially, the structure of Nom letters, between 1945 version and 1932 version also have
differences. Documents were born in what period will have that period’s traits. That’s why Nom
<i>letters in each version of Thien tong ban hanh has it own characteristics in accordance with the age </i>
of the text.


<i>Key words: Thien tong ban hanh, Nom letters, language, structure, Ly - Tran dynasty </i>


<i>Ngày nhận bài: 11/4/2017; Ngày phản biện: 24/5/2017; Ngày duyệt đăng: 28/6/2017</i>




*


</div>

<!--links-->

×