1
Chuyên đê 2
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MĨ (1945- 1946)
I. Qúa trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
1. Yêu cầu khách quan xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong hai cuộc
kháng chiến: 3 ý
- Một là, Xuất phát từ lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
+ C.Mác, Ănghen phát hiện ra xứ mệnh lịch sử thế giới của gccn, nhưng
các ông cho rằng: gccn chỉ có thể hồn thành được xứ mệnh đó khi tổ chức
ra chính đảng, đội tiên phong của giai cấp; Đảng phải được trang bị bởi lý
luận tiên phong; Đảng phải được thường xuyên xây dựng và củng cố: Đảng
phải là một đội ngũ có tổ chức tập trung chặt chẽ, các cơ quan lãnh đạo của
Đảng phải được bầu cử dân chủ, Đảng phải là một khối thống nhất về chính
trị, tư tưởng và tổ chức.
+ Lênin đã kế thừa và sáng tạo ra học thuyết về chính đảng kiểu mới của
gccn, khái quát thành 8 luận điểm cơ bản:
1. Lý luận về chủ nghĩa xã hội là nên tảng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của Đảng.
2. ĐCS là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức
chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của gccn.
3. Khi co chính quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị và
là một bộ phận của hệ thống đó.
4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và
hoạt động của Đảng.
5. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tự phê
bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
6. Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn
ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
2
7. Đảng kết nạp những phần tử ưu tú của gccn, nhân dân lao động vào
Đảng, đồng thời loại bỏ những phần tử thối hóa biến chất ra khỏi Đảng.
8. Đảng có tính quốc tế, kết hợp chủ nghĩa u nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vơ sản.
+ Hồ Chí Minh kế thừa những nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu mới của
Mac- Lênin chỉ ra những vấn đề thực tiễn trong xây dựng Đảng ta. Trong đó
nhấn mạnh về sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, về nguyên tắc dân chủ tập
trung, về phê bình và tự phê bình, về đảng cầm quyền phải thực sự là đầy tớ
của nhân dân, về xây dựng đạo đức cho đội ngũ cán bộ đảng viên…
Người viết: Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có
đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất.
Cá nhân phải phục tùng đồn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới
phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 7, tr.229.
Về mặt tổ chức: Đảng phải có kỷ luật rất nghiêm. Kiên quyết chống
những hiện tượng phớt kỷ luật, phớt tổ chức.
Đảng phải giữ vững chế độ dân chủ tập trung. Phải luôn luôn chỉnh đốn
tổ chức, loại bỏ những phần tử xấu ra khỏi Đảng. Phải bồi dưỡng, lựa chọn
và dùng cán bộ một cách đúng đắn.
Sđd, tập 7, tr.235.
- Hai là, Xuất phát từ thực tiễn về sự ra đời của Đảng ta từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến.
+ Đảng ta ra đời từ một nước tiểu nông, tỉ lệ thành phần giai cấp cơng
nhân trong Đảng rất ít, chủ yếu là các giai tầng khác trong xã hội có thuận
lợi là cơ sở xã hội, quần chúng của Đảng rộng rãi, nhưng đặt ra công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng rất khó khăn, phức tạp. Cụ thể:
/ Trình độ lý luận và khả năng nhận thức thấp, ảnh hưởng lớn đến khả
năng nhận thức và hành động cách mạng.
/ Những thói quen của người sản xuất nhỏ ăn sâu bám rễ trong tư tưởng
cán bộ, đảng viên không thể một sớm, một chiều có thể thay đổi được. Đây
3
là các mầm mống có thể phát sinh, phat triển tư tưởng cục bộ, bản vị địa
phương và chủ nghĩa cá nhân.
+ Đảng mới thành lập được 15 năm, chưa được củng cố thật vững chắc,
chưa có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh
- Ba là, Xuất phát từ thực tiễn yêu cầu của cuộc kháng chiến.
+ Kẻ thù của cách mạng nước ta là những đế quốc, có tiềm lực kinh tế,
quân sự lớn gấp nhiều lần ta.
+ Lúc đầu cuộc kháng chiến chúng ta chưa được sự giúp đỡ nhiều của
quốc tế.
+ Vừa giành được chính quyền, chúng ta chưa có nhiều thời gian để củng
cố Đảng, chính quyền, khôi phục kinh tế, ổn định mọi mặt xã hội…
- Xuất phát từ vai trò và yêu cầu lãnh đạo cuộc kháng chiến của Đảng.
+ Đảng xác định được đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo thì cách
mạng thuận lợi, phát triển và ngược lại.
+ Yêu cầu của cuộc kháng chiến đối với sự lãnh đạo của Đảng là rất cao,
rất toàn diện, rất cam go.
+ Đảng chưa có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh.
2. Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
a) Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
* Bối cảnh lịch sử sau cách mạng tháng Tám và đường lối kháng
chiến của Đảng
- Bối cảnh lịch sử sau cách mạng tháng Tam năm 1945
+ Thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai
\ Hành động của thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra tồn Đơng Dương
hịng đặt lại ách thống trị thực dân không phải là việc bất ngờ đối với Đảng
và nhân dân ta. Ngày 23/9/ 1945, Pháp nổ súng tấn cơng Sài Gịn Chợ Lớn,
sau đó mở rộng ra các tỉnh Nam Bộ
. Ngay tại Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, Đảng ta chỉ rõ, đế
quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị của chúng ở Đông Dương.
4
. Ngày 16-12-1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đơng Dương đã họp
tại Hải Phịng bàn triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ
tuyến 16.
. Ngày 17 và 18-12-1946 tại Hà Nội, quân Pháp khiêu khích, tàn sát đồng
bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún.
. Ngày 18-12-1946, đại diện Chính phủ Pháp cắt đứt mọi liên hệ với đại
diện Chính phủ ta. 20 giờ ngày 19, ta chủ động nổ súng tại Hà Nội, phát
súng lệnh báo hiệu toàn quốc kháng hiến.
\ Nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
với bao khó khăn:
. Nước ta vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến mới được giải phóng,
đất khơng rộng, người khơng đơng, với một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
lại bị Chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá và bị chủ nghĩa đế quốc bao vây
bốn phía.
. Pháp là một nước đế quốc có nền kinh tế cơng nghiệp phát triển, có một
qn đội chính quy, trang bị hiện đại, có sẵn 100.000 qn đóng tại đất nước
ta, có kinh nghiệm chiến tranh xâm lược thuộc địa, lại được đế quốc Mỹ,
Anh giúp sức...
\ Tuy nhiên, chúng ta cũng có những thuận lợi nhất định:
. Nhân dân ta đã giành được quyền làm chủ trong cả nước. Là người làm
chủ đất nước, nhân dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng chế độ mới.
. Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống xâm lược rất vẻ vang.
. Đảng ta và nhân dân ta đã có 16 tháng chuẩn bị cho kháng chiến.
. Lực lượng vũ trang của ta tuy non trẻ nhưng là lực lượng vũ trang cách
mạng từ nhân dân mà ra, có lịng u nước nồng nàn và chí căm thù giặc sâu
sắc.
. Đảng ta nắm vững quyền lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước.
. Pháp là một đế quốc bị bại trận và bị kiệt quệ trong chiến tranh, lại tiến
hành xâm lược một nước ở xa nước Pháp hàng vạn kilômét.
5
. Mâu thuẫn trong nội bộ nước Pháp ngày càng sâu sắc, phong trào đấu
tranh cho độc lập dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Pháp đang phát
triển mạnh mẽ.
. Cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta lại diễn ra trong lúc phong
trào độc lập dân tộc, hồ bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đang dâng lên
mạnh mẽ, nhân dân ta cùng nhân dân hai nước Lào và Campuchia đấu tranh
chống một kẻ thù là thực dân Pháp xâm lược.
- Đường lối kháng chiến do Đảng xác định
+ Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực
cánh sinh, nhất định thắng lợi.
\ Thể hiện trong Chỉ thịToàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ngày 12-12-1946.
\ Từ tháng 3-1947, qua thực tiễn những ngày đầu của cuộc chiến đấu,
đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã viết một loạt bài làm sáng
tỏ thêm đường lối kháng chiến của Đảng; những bài này sau được xuất bản
thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi vào tháng 7/ 1947.
\ Và trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến sáng ngày 19/12/1946 của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Nội dung cơ bản của Đường lối kháng chiến:
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất. Cuộc
kháng chiến là sự tiếp tục của cách mạng dân tộc dân chủ bằng hình thức
chiến tranh, cho nên cịn có mục tiêu vì dân chủ, tự do, vì hồ bình thế giới.
Đường lối chung của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự
lực cánh sinh.
Về chính trị, đồn kết tồn dân, thực hiện qn, chính, dân nhất trí, động viên
nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước; đoàn kết với hai dân tộc Lào, Campuchia
anh em, với nhân dân Pháp, với các nước châu Á và các dân tộc bị áp bức, các
dân tộc u chuộng hồ bình, dân chủ trên thế giới, cơ lập kẻ thù, tranh thủ thêm
nhiều bầu bạn; củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, lập ra uỷ ban kháng chiến các
cấp.
6
Về quân sự, cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phịng ngự, cầm
cự, phản cơng; triệt để dùng "du kích vận động chiến", tiến cơng địch ở khắp
nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng
chiến sự.
Về kinh tế, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp, xây dựng kinh tế
theo hướng "vừa kháng chiến vừa kiến quốc"; ra sức phá kinh tế địch, không
cho chúng lấy chiến tranh ni chiến tranh.
Về văn hố, đánh đổ văn hố nơ dịch, ngu dân, xâm lược của thực dân
Pháp, xây dựng nền văn hoá mới, xoá nạn mù chữ; thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính; động viên các nhà văn hố tham gia kháng chiến.
Ta chủ trương đánh lâu dài để làm cho những chỗ yếu cơ bản của địch
ngày càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế; chỗ yếu của ta từng
bước được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy.
Tự lực cánh sinh là dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường lối của
Đảng, vào các điều kiện nhân hoà, địa lợi, thiên thời của đất nước ta, đồng
thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi tồn quốc kháng
chiến, Người nói: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc... Thắng lợi nhất định về
dân tộc ta!".
- Đảng chỉ đạo mở đầu cuộc kháng chiến đến chiến thắng Thu Đông
Việt Bắc
+ Đảng tổ chức và chỉ đạo kháng chiến ( giới thiệu nhanh).
Đêm 19-12-1946, cuộc chiến đấu của nhân dân ta nổ ra ở Thủ đô Hà Nội,
các thành phố, thị xã (Nam Định, Hải Dương, Vinh, Huế, Đà Nẵng...)
Tiêu biểu cho cả nước là cuộc chiến đấu ngoan cường của quân và dân
Thủ đô Hà Nội. Trong hai tháng (từ ngày 19-12-1946 đến ngày 17-2-1947)
quân và dân trong nội thành cũng như ngoại thành đã anh dũng chiến đấu,
phục vụ chiến đấu, giành giật với địch ở nhiều nơi. Với nhiều cách đánh
7
sáng tạo, linh hoạt, quân dân Thủ đô đã tiêu diệt, tiêu hao hơn 2.000 tên
giặc, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo của ta, tạo điều kiện cho hàng vạn đồng
bào ra khỏi thành phố, di chuyển nhiều máy móc, nguyên liệu ra vùng tự do.
Từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu
tập Hội nghị cán bộ Trung ương, Hội nghị nhận định bốn tháng kháng chiến
chứng tỏ địch không thể khuất phục được nhân dân ta, toàn dân ta hăng hái
kháng chiến làm cho địch mới chỉ chiếm được một số ít thành phố. Hội nghị
nhấn mạnh nhiệm vụ mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân
Pháp, củng cố chính quyền nhân dân ở vùng bị địch chiếm, phát động phong
trào du kích chiến tranh, tổ chức căn cứ địa, đẩy mạnh công tác ngoại giao
và tăng cường công tác xây dựng Đảng.
Để động viên toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng và Chính phủ tìm
mọi biện pháp ổn định đời sống nhân dân và xây dựng những cơ sở ban đầu
của nền kinh tế và văn hoá kháng chiến.
Đảng cũng quan tâm lãnh đạo công tác đối ngoại để tranh thủ sự đồng
tình của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến, đặt cơ quan đại diện ở
Thái Lan, Miến Điện và cử đoàn đại biểu đi dự các hội nghị quốc tế.
Sau khi chiếm được một số thành phố, thị xã ở Bắc Bộ, quân Pháp tổ
chức tiến công ở Trung Trung Bộ, Tây Bắc, Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ
hòng mở rộng khu vực chiếm đóng và tạo vành đai giữ các thành thị. Quân
và dân ta chặn đánh địch khắp nơi, tiêu hao sinh lực địch, làm chậm bước
tiến của chúng, giữ gìn và phát triển lực lượng. Ở Nam Bộ, quân và dân ta
tiến công quấy rối, phá hoại, đánh nhiều trận, diệt từng trung đội, đại đội
địch, phá nhiều đoàn tàu quân sự. Bị thiệt hại nhiều mà không tiêu diệt được
quân chủ lực ta, tháng 5-1947 quân Pháp tạm co về thành thị chúng mới
chiếm được và chuẩn bị kế hoạch xâm lược mới.
Đó là kế hoạch lập chính phủ bù nhìn tay sai Bảo Đại và tổ chức cuộc tấn
cơng đại quy mô bất ngờ lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt quân chủ lực ta, bắt
cho được Trung ương Đảng và Chính phủ ta, nhanh chóng kết thúc chiến
tranh. Ngày 19-7-1947, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp Valuy
(Valluy) gửi cơng văn số 478/AB cho Xalăng nói rõ "về mặt chính trị cần
8
phải có hệ thống hình tháp Bảo Đại để chống lại chính quyền Việt Minh và
về mặt quân sự phải đánh vào ngọn hệ thống chính quyền của Việt Minh. Đó
là nhiệm vụ số 1" (G.Sáppha, Báo Người quan sát, tháng 9-1968).
Ngày 10-9-1947, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương Bôla (Bollaert) đọc diễn văn
tại thị xã Hà Đông, tuyên bố lập trường của Pháp không công nhận nước Việt
Nam độc lập và thống nhất, khơng cơng nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là đại
diện chính thức của nước Việt Nam.
Ngày 15-9-1947, Trung ương Đảng ra chỉ thị "Bơla nói gì, ta phải làm
gì?" nêu rõ nhiệm vụ của nhân dân ta chống âm mưu "dùng người Việt trị
người Việt" của thực dân Pháp và chuẩn bị phá những cuộc tấn công lớn của
địch trong những tháng tới.
Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp huy động 12 ngàn quân tinh nhuệ mở
cuộc tiến công lên Việt Bắc. Quân nhảy dù bất ngờ nhảy xuống Bắc Cạn,
Chợ Mới đánh vào sau lưng quân ta. Một binh đoàn bộ binh Pháp kéo từ
Lạng Sơn lên Cao Bằng, Bắc Cạn, bao vây phía đơng và phía bắc Việt Bắc;
một cánh quân đường thuỷ tiến lên Phú Thọ, Tuyên Quang bao vây Việt Bắc
ở phía tây.
Ở Bắc Cạn, tuy bị bất ngờ nhưng quân và dân ta đã đánh địch ngay khi
chúng vừa nhảy dù xuống. Quân và dân Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên tiêu diệt cơ quan tham mưu chiến dịch của Pháp, bắn rơi máy bay
địch. Quân dân Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang phục kích diệt địch, bắn
chìm tàu chiến địch trên sông Lô.
Phối hợp với cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Bắc, chiến tranh du
kích, phá tề, trừ gian được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch. Ở Hà Nội và Sài
Gòn, những tên việt gian đầu sỏ bị bắn chết ngay giữa thành phố.
Ngày 22-12-1947, một phần lớn quân Pháp buộc phải rút khỏi Việt Bắc.
Hơn 7.000 tên xâm lược bị chết, bị thương và bị bắt: 18 máy bay bị hạ, 16
tàu chiến và nhiều ca nô bị đánh đắm, hàng trăm xe bị phá và nhiều vũ khí
rơi vào tay quân ta. Chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của quân Pháp
thất bại. Mặc dù bị bất ngờ, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng kịp thời
chuyển sang phản công thắng lợi. Bộ đội ta trưởng thành một bước về trình
9
độ tác chiến. Đảng ta có thêm kinh nghiệm về chỉ đạo chiến tranh. Nhân dân
ta phấn khởi, tin tưởng ở thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Tổng kết năm đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, trongLời kêu gọi nhân kỷ
niệm một năm ngày kháng chiến toàn quốc 19-12-1947, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhận định thực dân Pháp muốn đánh nhanh thắng nhanh, nhưng đã
thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ, lực lượng của ta ngày càng thêm
mạnh như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến khơng có thối...
Lực lượng địch như mặt trời vào lúc hồng hơn, hống hách lắm nhưng đã
gần tắt nghỉ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở qn ta khơng được chủ quan,
khinh địch.
+ Đảng chỉ đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng (giảng kỹ, phân
tích, trao đổi cùng người học)
\ Đất nước đã kịp thời chuyển sang thời chiến và bước đầu triển khai thế trận
chiến tranh nhân dân. Các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận... chuyển lên căn
cứ địa Việt Bắc. Các cơ quan dân, chính, đảng địa phương cũng về đóng nơi tạm
thời an tồn. Bộ máy chính quyền các cấp được kiện tồn.
\ Đảng mở đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ, đảng viên về rèn luyện
tu dưỡng, gương mẫu về đạo đức, trau dồi về chun mơn, nghiệp vụ, một
lịng, một dạ vì dân, chống bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, địa
phương chủ nghĩa, bè phái, vô kỷ luật.
Trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ và Thư gửi các đồng chí Trung Bộ
(tháng 3 - 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục yêu cầu cán bộ, đảng viên
cần nêu cao hơn nữa việc tu dưỡng, gương mẫu về đạo đức, trau dồi về
chun mơn, nghiệp vụ, một lịng, một dạ vì dân, chống bệnh chủ quan,
quan liêu, mệnh lệnh, địa phương chủ nghĩa, bè phái, vô kỷ luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Trong lúc này tư tưởng và hành
động của mỗi đơng chí rất có quan hệ đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất,
một việc sơ suất là có thể hỏng việc to, sai một ly đi một dặm".
\ Tăng cường công tác phát triển đảng viên “ lớp tháng Tám” trong cơng
nhân, nơng dân, trí thức và chiến sĩ lực lượng vũ trang
10
Hàng nghìn cơng nhân, nơng dân, trí thức cách mạng và chiến sĩ lực
lượng vũ trang ưu tú đã gia nhập Đảng. Tính đến cuối năm 1947, tổng số
đảng viên có trên 70.000 người (trong cách mạng tháng Tám chỉ có 5000
đảng viên) .
\ Cùng với việc phát triển nhanh lực lượng vũ trang, phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong Qn đội, thơng qua cơng tác chính trị trong Quân
đội
Lực lượng vũ trang được chăm lo xây dựng, công tác Đảng trong quân
đội được tăng cường một bước. Riêng mùa hè năm 1947 có tới 35.000 người
tình nguyện nhập ngũ. Bộ đội chủ lực cũng phát triển từ 80.000 lên 120.000
chiến sĩ. Lực lượng dân quân tự vệ lên tới 1 triệu người. Nhiều căn cứ địa
kháng chiến ở địa phương được xây dựng.
- Đảng chỉ đạo đẩy mạnh kháng chiến sang giai đoạn mới, chiến
thắng biên giới 1950.
+ Đảng chỉ đạo kháng chiến (giới thiệu nhanh)
\ Trong những năm 1948-1949, tình hình có những chuyển biến mới,
thn lợi cho cuộc kháng chiến của ta
Trong những năm 1948 - 1949, tình hình thế giới có những chuyển biến
lớn ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Liên Xô thực
hiện vượt kế hoạch 5 năm 1946 - 1950, đạt những thành tựu quan trọng về
kinh tế - xã hội và thử thành công bom nguyên tử (9-1949) làm mất thế độc
quyền về vũ khí nguyên tử của Mỹ. Các nước dân chủ nhân dân ở châu Âu
và châu Á xây dựng xã hội mới đạt nhiều thắng lợi. Phong trào giải phóng
dân tộc phát triển ở châu Phi, châu Á và Trung Cận Đông. Mỹ thực hiện kế
hoạch Mácsan nhằm vừa vực dậy các nước Tây Âu, vừa khống chế các nước
này.
Tại Pháp cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài: thất bại bước đầu trong
chiến tranh Đơng Dương làm cho Pháp khó khăn thêm. Chỉ tính đến đầu
năm 1949, Chính phủ Pháp đã bị đổ tới 8 lần. Phong trào phản chiến của
nhân dân Pháp phát triển.
11
Ở Đông Dương, từ năm 1948 thực dân Pháp phải chuyển từ chiến lược
đánh nhanh thắng nhanh sang chiến lược đánh lâu dài, "lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt". Chúng bình định vùng chiếm
đóng, mở các cuộc hành quân nhỏ nhằm tiêu diệt cơ sở kháng chiến, mở
rộng nguỵ quân (năm 1948 có 8 vạn nguỵ binh, chiếm gần 30% tổng số quân
địch).
\ Ngày 20-1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng, nhận
định tình hình sau chiến thắng Việt Bắc và đề ra những nhiệm vụ toàn diện
trên các lĩnh vực trong giai đoạn mới.
Về quân sự, mở rộng chiến tranh du kích, nhất là trong vùng địch kiểm
soát, tuỳ điều kiện tập trung đánh vận động tiêu diệt địch, tăng cường công
tác địch vận.
Tháng 11-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự.
Chỉ trong một thời gian ngắn, tính từ Liên khu IV trở ra đã có thêm 50 vạn
thanh niên ghi tên tòng quân.
Từ 8 vạn người lúc bắt đầu kháng chiến qua hơn ba năm, quân đội ta đã
có 23 vạn người.
Đầu năm 1950 hai đại đoàn và hai trung đoàn chủ lực thuộc Bộ Tổng
Tư lệnh và 12 trung đoàn chủ lực các liên khu đã ra đời.
Về quân số lực lượng cơ động của ta nhiều hơn lực lượng cơ động địch.
Dân quân tự vệ và du kích lên tới gần 3 triệu người.
Về chính trị, củng cố khối đồn kết tồn dân kháng chiến, thực hiện khẩu
hiệu "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", củng cố bộ máy kháng chiến, phá
tan chính quyền bù nhìn, làm thất bại âm mưu "dùng người Việt trị người
Việt".
Từ năm 1949, nhiều địa phương đã xúc tiến việc thống nhất Việt Minh
và Liên Việt. Các đồn thể Tổng liên đồn lao động, Hội Nơng dân cứu
quốc, Thanh niên cứu quốc. Hội liên hiệp phụ nữ... được củng cố và phát
triển. Tại các vùng tập trung đồng bào có đạo, Đảng chỉ đạo việc đi sâu giác
ngộ quần chúng, tranh thủ tầng lớp trên và kiên quyết trừng trị bọn phản
động đội lốt tôn giáo. Đảng tích cực đấu tranh chống những khuynh hướng
12
tư tưởng và chính trị sai lầm, như chống khuynh hướng đòi chia quyền lãnh
đạo với Đảng ta của những phần tử phái hữu trong Đảng Dân chủ, chống
khuynh hướng đòi tư pháp độc lập, đòi quyền tự do cá nhân theo quan điểm
tư sản trong ngành tư pháp.
Về kinh tế, tăng gia sản xuất tự cấp tự túc, cải thiện đời sống nhân dân
lao động, phá kinh tế địch, tịch thu tài sản, ruộng đất của bọn phản quốc chia
cho dân nghèo, giảm tô, chia lại công điền, khuyến khích đổi cơng trong
nơng dân lao động, thí điểm lập hợp tác xã.
Đến cuối năm 1949, chỉ tính từ Liên khu IV trở ra, hơn 113.000 ha ruộng
đất đã được tạm cấp cho nông dân, giảm tô được thực hiện với mức ít nhất là
25%. Liên khu V nêu cao tinh thần tự lực tự cường, không những tự cấp
được vải, gạo và vật dụng cần thiết mà còn dành ra được một phần để tương
trợ những vùng lân cận.
Về văn hoá, động viên mọi lực lượng văn hoá phục vụ kháng chiến, chấn
chỉnh giáo dục, xoá nạn mù chữ.
Nền văn hố ngu dân, nơ dịch của thực dân Pháp bị xoá bỏ; nền văn
hoá mới được xây dựng. Đường lối, nhiệm vụ cơng tác văn hố kháng
chiến được xác định tại Hội nghị văn hố tồn quốc tháng 7-1948. Hội
Văn hoá Việt Nam được thành lập. Các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ
bạc, rượu chè... giảm đi nhiều. Phong trào xoá nạn mù chữ phát triển
mạnh. Chương trình giáo dục phổ thơng bước đầu được cải tiến theo nội
dung dân tộc, dân chủ, nhân dân và phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến.
Về đối ngoại, Trong tháng 1 và 2 năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô, các nước
XHCN Đông Âu đã công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.
Nhân dân nhiều nước châu Á, châu Phi đã dành cho nhân dân ta mối cảm tình
đặc biệt và sự ủng hộ tích cực.
Mối quan hệ đồn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đơng Dương ngày
càng thắt chặt, ta đã giúp cách mạng Lào, Campuchia đạt nhiều thắng lợi
Ngày 21-1-1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp, đề ra chủ
trương "hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công" và
13
quyết định tổng động viên theo khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng".
Song vì nóng vội và ỷ lại vào tình hình khách quan thuận lợi, trong Đảng đã có
một số lệch lạc khi chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Để kịp thời uốn
nắn, khắc phục những lệch lạc, mùa hè năm 1950 đồng chí Trường Chinh viết bài
Nhận định đúng, hành động đúng và một số bài khác đăng trên Tạp chí Cộng sản.
Tháng 6-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào, cán bộ Liên khu IV
phê bình sai lầm của cán bộ trong tổng động viên. (Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương (khoá II) đã tự phê bình về chủ trương "chuyển mạnh sang
tổng phản cơng" nêu ra ở Hội nghị toàn quốc lần thứ ba tháng 1-1950. Bản báo
cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương ba (khố II) có đoạn viết, đây là
chủ trương "vội vàng, chủ quan, đã tạo ra một khơng khí chủ quan, ảnh hưởng
đến cơng tác trong tồn Đảng").
Trước yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến, để giải phóng vùng biên giới
phía bắc phá thế bao vây của địch, tiến tới giành quyền chủ động về chiến lược
trên chiến trường chính, tháng 6-1950 Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ
trương mở Chiến dịch biên giới. Trong chỉ thị ngày 12-8-1950, Trung ương Đảng
nhấn mạnh nhiệm vụ của các địa phương trong toàn quốc phối hợp với chiến dịch
kiềm chế và tiêu hao lực lượng địch.
+ Đảng chỉ đạo về xây dựng Đảng(giảng kỹ, cùng người học trao đổi)
\ Một là, củng cố Đảng, phải làm cho Đảng thực sự có tính chất quần chúng
mạnh mẽ, Đảng phải gần dân, sát dân, cùng dân, gương mẫu và luôn đi dầu trong
các phong trào của nhân dân.
\ Hai là, tiếp tục phát triển đảng, tích cực phát triển đảng ở các vùng địch
kiểm soát, nhằm đẩy mạnh ảnh hưởng của Đảng và phong trào đấu tranh trong
lòng địch.
\ Ba là, tăng cường giáo dục đảng viên, nâng cao chất lượng tồn diện đội
ngũ đảng viên, nhất là tính tiền phong gương mẫu, luôn đi tiên phong trong mọi
công tác. Nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình, giúp nhau cùng tiến bộ.
\ Bốn là, khẩn trương đào tạo cán bộ cho Đảng, chính quyền, Mặt trân, các
đồn thể và cán bộ quân sự.
14
\ Năm là, Tích cực chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc.
\ Sáu là, Khéo tổ chức sự lãnh đạo cuả Đảng trong điều kiện liên lạc khó khăn.
Trong điều kiện chiến đấu ngày càng ác liệt liên lạc gặp nhiều khó khǎn, Đảng
chủ trương xây dựng các "chi bộ tự động cơng tác", phát huy tính chủ động sáng
tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ đảng ở các khu, tỉnh, thành v.v... Tǎng
cường quyền hạn cho Uỷ ban kháng chiến khu. Khi mất liên lạc, Uỷ ban kháng
chiến khu có tồn quyền điều khiển mọi mặt hoạt động ở địa phương theo đường
lối của Đảng.
\ Bảy là, Đảng đã kịp thời uốn nắn, khắc phục những lệch lạc trong nhận thức
và hành động nóng vội trước chủ trương chuyển mạnh sang tổng phản công, huy
động sức dân vượt quá khả năng của dân, không được dân đồng tình.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá II), tháng 4- 1952 đã ra
chủ trương chỉnh Đảng, làm từng bước và có trọng tâm. Cụ thể:
. Chỉnh huấn cán bộ trước rồi chỉnh đốn đến chi bộ. Chỉnh đốn tư tưởng trước
rồi mới chỉnh đốn tổ chức.
. Chỉnh huấn cán bộ cao cấp phải do Trug ương trực tiếp lãnh đạo vì đó là mấu
chốt của việc chỉnh đốn toàn Đảng..
Việc chỉnh đốn tổ chức và công tác của chi bộ và của Hội nông dân cứu quốc
sẽ cùng làm trong đợt phát động quần chúng này.
Tuy nhiên, thời kỳ này còn một số khuyết điểm trong cơng tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng:
Sau Hội nghị tồn quốc lần thứ ba của Đảng họp ngày 21- 1- 1950 đưa ra chủ
trương "hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công" và
quyết định tổng động viên theo khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng".
Tháng 6-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào, cán bộ Liên khu
IV phê bình sai lầm của cán bộ trong tổng động viên.
Tháng 9-1950, Đảng quyết định tạm ngừng phát triển Đảng để củng cố. Chủ
trương này được thực hiện một cách nhất loạt và kéo dài. Việc đóng cửa Đảng
vào lúc kháng chiến đang quyết liệt và quần chúng đã được thử thách qua chiến
đấu nên có ảnh hưởng lớn đến sự lãnh đạo của Đảng.
15
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khố II), tháng 4- 1952 đã tự
phê bình về chủ trương "chuyển mạnh sang tổng phản công" nêu ra ở Hội nghị
toàn quốc lần thứ ba tháng 1-1950.
Kết quả:
. Trong hai năm 1948 - 1949, Đảng đã kết nạp hơn 50 vạn đảng viên.
. Tổ chức cơ sở Đảng được xây dựng rộng khắp.
. Qua cuộc vận động xây dựng "chi bộ tự động công tác", tổ chức cơ sở
Đảng được tôi luyện và trưởng thành thật sự là hạt nhân lãnh đạo kháng chiến
ở các địa phương, các ngành và trong quân đội.
Tuy nhiên, trong công tác xây dựng Đảng, có nhiều trường hợp khơng
nắm vững tiêu chuẩn đảng viên, củng cố không theo kịp phát triển. Để khắc
phục thiếu sót đó, tháng 9-1950 Đảng quyết định tạm ngừng phát triển để
củng cố.
- Đảng chỉ đạo đẩy mạnh phản công, chiến thắng Điện Biên Phủ
+ Đảng chỉ đạo kháng chiến ( giới thiệu h/v tự nghiên cứu)
+ Đảng chỉ đạo xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Tháng 2-1951, Đại hội II của Đảng diễn ra tại Hà Nội. Nội dung quan trọng
của Đại hội là xác định mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng
thời, đề ra hai nhiệm vụ cụ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau là đưa kháng
chiến đến thắng lợi hồn tồn và Đảng ra hoạt động cơng khai lấy tên là Đảng
lao động Việt Nam. Đại hội khẳng định tư tưởng chiến lược là nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc va chủ nghĩa xã hội đã nêu trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng (1980) là đúng đắn. Đại hội đã phát triển và cụ thể hoá tư tưởng chiến
lược đó theo hướng: "Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, do nhân dân
lao động làm động lực, cách mạng đó khơng chỉ giải quyết những nhiệm vụ
phản đế và phản phong kiến, mà còn phát triển chế độ dân chủ nhân dân một
cách mạnh mẽ, đông thời gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện
tiến lên chủ nghĩa xã hội" Đại hội cũng xác định phương hướng phát triển của
cách mạng Việt Nam đại thể qua ba giai đoạn: độc lập dân tộc, dân chủ nhân
dân và chủ nghĩa xã hội. ở giai đoạn đầu, nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm
16
cả nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến. Sự "mơ hình hố" và sự
khẳng định ngun tắc chỉ đạo chiến lược trên đánh dấu bước tiến mới của
Đảng về nhận thức quy luật cách mạng ở nước thuộc địa nửa phong kiến, giải
quyết đúng mối quan hệ có tính quy luật giữa nhiệm vụ trước mắt và xu hướng
tiến lên của cách mạng. Đại hội cũng thảo luận và quyết định những nội dung
cơ bản về xây dựng và củng cố chính quyền, quân đội, mặt trận dân tộc thống
nhất, phát triển kinh tế, vǎn hoá, nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến giành thắng
lợi.
\ Đại hội II đã chỉ ra những tồn tại, khuyết điểm trong xây dưng Đảng và
đội ngũ đảng viên, và nhấn mạnh: phải mở rộng dân chủ, tăng cường tập trung
và mở rộng phê bình, coi việc “phát triển phê bình và tự phê bình là khâu chính
để mở rộng dân chủ trong Đảng”.
\ Đại hội II chủ trương cần nâng cao trình độ lý luận của Đảng, “ cần
khuyến khích, giúp đỡ quần chúng ngồi Đảng phê bình chủ trương chính
sách của Đảng,phê bình cán bộ và đảng viên”.
\ Đại hội II nhấn mạnh cần chống cả chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa
giáo điều, nhưng “ trong Đảng ta hiện nay kẻ thù chính là chủ nghĩa kinh
nghiệm”.
\ Năm 1952, Đảng tổ chức "Cuộc vận động chỉnh Đảng". Thực hiện đấu
tranh phê bình và tự phê bình nghiêm túc nhằm thống nhất nhận thức, đoàn
kết nội bộ, xây dựng tư tưởng tự lực, tự cường, kháng chiến lâu dài trong
cán bộ, đảng viên, làm rõ yêu cầu giữa vấn đề dân tộc và dân chủ.
Sau thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng và sự
giúp đỡ quốc tế có mạnh hơn trước, trong Đảng ta xuất hiện một số nhận
thức không đúng như ỷ lại vào bên ngồi, hoặc lạc quan tếu, muốn thắng
nhanh, khơng thấy hết tính phức tạp, trường kỳ, gian khổ của cuộc kháng
chiến. Để uốn nắn những nhận thức sai, nâng cao tinh thần tự lực tự cường,
nǎm 1952, Đảng tổ chức "Cuộc vận động chỉnh Đảng". Đây là một cuộc đấu
tranh phê bình và tự phê bình nghiêm túc nhằm thống nhất nhận thức, đoàn
kết nội bộ, xây dựng tư tưởng tự lực tự cường, kháng chiến lâu dài trong cán
bộ, đảng viên, làm rõ yêu cầu giữa vấn đề dân tộc và dân chủ.
17
\ Đảng chỉ đạo cải cách ruộng đất kết hợp với củng cố tổ chức Đảng dã
thúc đẩy cuộc kháng chiến, nhưng đã mắc sai lầm trong tổ chức thực hiên là
giáo điều, rập khuôn, mở rộng diện đấu tranh quá mức
Nhưng trong tổ chức cuộc vận động chỉnh Đảng cũng đã mắc một số
khuyết điểm. Thiếu sót của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là
tuy có nêu vấn đề thực hiện từng bước chính sách ruộng đất, nhưng không
khẳng định chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất nguy trong kháng chiến
khi yêu cầu của cuộc kháng chiến đặt ra. Để khắc phục thiếu sót đó, tháng
11-1953, Đảng ban hành cương lĩnh ruộng đất và quyết định tiến hành cải
cách ruộng đất trong vùng tự do. Cương lĩnh ruộng đất và chủ trương tiến
hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến là đúng, đã thúc đẩy cuộc kháng
chiến phát triển mạnh mẽ. Nhưng trong khi tổ chức thực hiện, ta đã mắc sai
lầm giáo điều, rập khuôn, mở rộng diện đấu tranh quá mức.
Quá trình xây dựng Đảng trong kháng chiến tuy cịn một số thiếu sót,
khuyết điểm, nhưng trên cơ sở đường lối chính trị đúng đã làm tốt cơng tác
tổ chức và công tác tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng ngang tầm với
nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc, thực sự là nhân tố quyết định thắng lợi của
cuộc kháng chiến.
b) Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ
* Tình hinh miền Nam sau năm 1954, chủ trương của Đảng
- Tình hình miền Nam sau năm 1954
+ Mỹ từng bước thế chân Pháp, độc chiếm miền Nam, dựng lên chính
quyền tay sai Ngơ Đình Diệm, quyết tâm chia cắt lâu dài hai miền Nam Bắc
nước ta bằng chính sách xâm lược thực dân mới (giới thiệu cho học viên tự
nghiên cứu).
+ Mỹ ráo riết xây dựng và tăng cường quân bị cho miền Nam
\ Đến năm 1959, chính quyền Mỹ - Diệm đã xây dựng được 150.000
quân chính quy, 52.000 bảo an và 5 vạn dân vệ.
18
\ Đi đôi với xây dựng quân đội, Mỹ ráo riết xây dựng và mở rộng các căn
cứ quân sự ở miền Nam
\ Để nắm chặt quân đội miền Nam, đế quốc Mỹ trùm lên Bộ Quốc phòng
Diệm một bộ máy chỉ huy do tướng Williams điều khiển với các cơ quan
quân sự Mỹ: MAAG, TERM, TRIM, CATO
> Tất cả các hoạt động trên đây cho thấy mục đích của Mỹ là ráo riết xây
dựng miền Nam thành một trong những căn cứ quân sự quan trọng của đế
quốc Mỹ gắn liền với các căn cứ khác của Mỹ ở Thái Bình Dương, hình
thành một phịng tuyến chung một mặt mưu đồ xâm chiếm miền Bắc,
+ Nhưng chúng đang có một nhược điểm rất lớn: quân đội chúng xây
dựng có thể có một phần về kỹ thuật nhưng tinh thần thấp kém, sợ chiến
tranh, sợ phải đánh với quân đội ta.
+ Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh và
phát triển nhanh chóng, phong trào dân tộc chủ nghĩa của các dân tộc thuộc
địa và chậm tiến ở Á - Phi và trung Nam Mỹ vùng lên làm tan rã chủ nghĩa
thực dân khơng gì ngăn cản nổi, phong trào hồ bình lớn mạnh hơn bao giờ
hết. Đó là những sự kiện vơ cùng lớn lao trong tình hình quốc tế ngày nay.
+ Các mâu thuẫn của xã hội miền Nam, đó là:
\ Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai.
\ Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với địa chủ phong kiến.
\ Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động.
Trong ba mâu thuẫn trên thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Mỹ
và tay sai là chủ yếu nổi nên.
- Chủ trương của Đảng đối với cách mạng miền Nam
+ Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc và phong kiến, tực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hồn
19
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, góp phần xây
dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh.
+ Nhiệm vụ rước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống
đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đồn thống trị độc tài Ngơ
Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền Liên hợp
dân tộc ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ,
cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hịa bình, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hịa bình
ở Đơng Nam Á và thế giới.
+ Phướng hướng phát triển của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân... Đảng cũng dự kiến khả năng cuộc đấu
tranh của nhân dân ta có khả năng chuyển thành một cuộc đấu tranh vũ
trang trường kỳ.
* Đảng chỉ đạo công tác xây dựng Đảng
- Sau khi biểu dương Đảng bộ và nhân dân miền Nam, Hội nghi
BCHTW lần thứ 15- khóa II của Đảng đã chỉ ra những yếu kém, khuyết
điểm của Đảng bộ miền Nam là:
Thứ nhất, Chưa chú trọng xây dựng cho cán bộ và đảng viên tư tưởng
cách mạng trường kỳ gian khổ, quyết tâm đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm
Các đảng bộ miền Nam trong mức độ khác nhau, chưa thấm nhuần tư
tưởng phai đấu tranh lâu dài nên trong một thời gian có tư tưởng ỷ lại vào
pháp lý Giơnevơ, nên có nơi chưa chú trọng đầy đủ việc xây dựng thực lực
cách mạng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh lâu dài, tiến lên đánh đổ chế độ
Mỹ - Diệm. Hữu khuynh rõ nhất là sự lãnh đạo của Thành uỷ Sài Gòn Chợ Lớn và Liên khu V..Hiện nay vấn đề trọng yếu là phải ra sức củng cố
lập trường cách mạng cho cán bộ và đảng viên.
20
Thứ hai, Không nhận rõ ta đang ở "thế " nào trong cuộc đấu tranh với
địch hiện nay ở miền Nam
Phải nhận rõ trong giai đoạn thế thủ phải tranh đấu thế nào để giữ
mình, nhưng trong thế thủ phải biết từng mặt, từng lúc giành lại chủ động,
tấn công địch bằng tuyên truyền cho sắc bén và đúng đích. Khơng biết tấn
cơng địch giành lại chủ động thì khơng thể giữ vững phong trào.
Ơ Nam Bộ, một số đồng chí lãnh đạo các địa phương vì khơng nhận rõ
phương hướng trên đây nên có nơi đã làm tổn hại đến lực lượng cách
mạng. Ở Liên khu V cũng vì khơng nhận rõ phương hướng đó nên về mặt
tổ chức lúc đầu không kiên quyết và kịp thời đổi mới, khơng đảm bảo bí
mật; về mặt đấu tranh khơng tạo được thế hợp pháp cho quần chúng để che
giấu lực lượng của Đảng, và trong một thời gian khá dài đã lãnh đạo quần
chúng đấu tranh dưới những khẩu hiệu chính trị cao, ra mặt đối lập với
địch làm bộc lộ lực lượng nên đã gây tổn thất cho phong trào ở trung du.
Thứ ba, Không nhận rõ chỗ mạnh và chỗ yếu của địch để biết hướng
phòng ngự và biết hướng tấn công
Muốn chống lại chúng phải xoay quanh các vấn đề về dân sinh và dân
chủ để tập hợp quần chúng đi từ thấp và dần dần mở rộng và nâng cao
phong trào. Qua các phong trào ta mới có thể xây dựng lực lượng làm cơ
sở vững chắc đưa phong trào ngày càng lên cao. Vì chưa nhận thức đúng
như thế nên trong lãnh đạo đấu tranh có khi ta phiêu lưu đưa quần chúng
đấu tranh với khẩu hiệu chính trị cao bị địch đàn áp, cơ sở bị tan vỡ.
Mặt khác chúng ta cũng không thấy hết chỗ yếu của địch. Bản chất phi
nghĩa cướp nước bán nước của Mỹ - Diệm trong tình hình hiện nay làm
cho chúng ở vào thế cơ lập. Vì bản chất phi nghĩa của chúng như thế nên
chúng không được các từng lớp nhân dân đồng tình. Càng khủng bố, đàn
áp, uy thế chính trị của chúng ngày càng sa sút. Đó là chỗ yếu căn bản của
địch. Phải ln luôn chủ động tấn công địch bằng tuyên truyền, để thắng
địch hằng ngày, hằng giờ, giành lấy dư luận và chính nghĩa về ta, làm cho
nội bộ chúng phân hố, tê liệt. Qua quá trình vận động ấy mà mở rộng mặt