Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt - Nguyễn Thị Thanh Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.58 KB, 82 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
Lời mở đầu
----
Hiện nay nớc ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện
đại hoá. Với chính sách mở cửa nền kinh tế trong bối cảnh quốc tế hóa nền kinh tế
thế giới đang đợc đẩy mạnh thì hoạt động thơng mại quốc tế nói chung và bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng chiếm một vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân.
Trên thế giới, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đờng
hàng không đã ra đời từ lâu, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng. Còn ở
Việt Nam, tuy nghiệp vụ này đã đợc triển khai từ trớc nhng mới chỉ chiếm một vị
trí rất khiêm tốn trong thị trờng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Nguyên nhân
chủ yếu là do sự phát triển ngành vận tải hàng không còn chậm, khối lợng hàng
hoá vận chuyển cha nhiều.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nớc ta luôn tăng trởng với tốc độ cao
và ổn định làm cho nhu cầu về vận tải hàng không ngày càng lớn. Khối lợng cũng
nh giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đờng hàng không tăng lên
đáng kể kéo theo nhu cầu bảo hiểm cho hàng hoá cũng tăng lên. Do vậy, đây chính
là nghiệp vụ đầy tiềm năng mà ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Việt
nói riêng cần nghiên cứu và xem xét.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, trớc sự ra đời của một loạt các công ty
bảo hiểm mới cùng với quy luật cạnh tranh của cơ chế thị trờng thì việc nghiên cứu
nghiệp vụ bảo hiểm mới mẻ này là yêu cầu cấp thiết đối với Bảo Việt để đứng vững
và duy trì đợc thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của mình. Đó chính là
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 1 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
lý do mà em chọn đề tài "bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng


đờng hàng không tại Bảo Việt " làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Đề tài đợc kết cấu theo 3 chơng:
Chơng I: Khái quát về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng
đờng hàng không
Chơng II: Thực trạng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng
đờng hàng không tại Bảo Việt
Chơng III: Phơng hớng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đờng hàng
không tại Bảo Việt
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Vũ Sỹ Tuấn đã tận tình h-
ớng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận. Xin cám ơn
các cán bộ thuộc Phòng bảo hiểm Hàng hoá - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khoá luận này.
Tuy nhiên, do nhận thức còn hạn chế, lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên
khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận đợc những ý
kiến phê bình của các thầy cô giáo để khoá luận này đợc hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2002
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Xuân
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 2 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
Chơng I :
Khái quát về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đờng hàng không
I. Khái niệm và các nguyên tắc về bảo hiểm
1. Sự ra đời, khái niệm và bản chất của bảo hiểm
1.1. Khái niệm rủi ro và sự ra đời của bảo hiểm

Trong cuộc sống sinh hoạt cũng nh hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng, nhng con ngời vẫn có nguy cơ gặp
phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân nh: do môi
trờng thiên nhiên, các sự cố xảy ra do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và cả từ
phía môi trờng xã hội. Vậy : thế nào là rủi ro?
"Rủi ro là những đe doạ nguy hiểm, không lờng trớc đợc, và là khả năng xảy
ra tổn thất".
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thờng đem lại cho con nguời
những khó khăn trong cuộc sống. Chính vì vậy, đã có rất nhiều phơng pháp đối phó
với những rủi ro đợc con ngời áp dụng mà phơng pháp có thể coi là u việt nhất là
san sẻ rủi ro.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con ngời có thể chế
ngự và hạn chế đợc phần nào những hậu quả mà thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra.
Tuy nhiên, những tổn thất về ngời và của hàng năm con ngời phải gánh chịu vẫn
còn rất lớn. Do vậy, để đủ sức đơng đầu với thiên nhiên, khắc phục nhanh chóng
hậu quả - tổn thất thì con ngời phải đoàn kết - hợp sức nhau lại. Một trong những
cách hợp sức nh vậy là tiến hành bảo hiểm, nghĩa là nhiều ngời cùng nhau góp tiền
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 3 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
lập ra một quỹ chung để khi có rủi ro bất ngờ xảy ra thì trích từ quỹ chung đó bù
đắp cho ngời bị nạn. Chỉ có nh vậy, ngời bị nạn mới có thể nhanh chóng khắc phục
đợc hậu quả nặng nề do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra.
ý tởng về việc hình thành một quỹ chung là tiền để đa bảo hiểm trở thành
một lĩnh vực kinh tế mới : "kinh tế bảo hiểm". Không giống nh hình thức bảo hiểm
sơ khai khi nhiều ngời cùng liên doanh khi có lợi nhuận thì chia nhau, có tổn thất
thì cùng nhau san sẻ. Ngày nay, có các tổ chức bảo hiểm chuyên môn chịu trách
nhiệm về các rủi ro trên cơ sở ngời chuyển nhợng rủi ro nộp một khoản phí bảo
hiểm. Và nh thế bảo hiểm đã ra đời cùng với sự xuất hiện của khái niệm rủi ro.

Bảo hiểm ra đời là do đòi hỏi khách quan của cuộc sống và của hoạt động sản
xuất kinh doanh. Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an toàn về tính chất cũng nh các
nhu cầu của con ngời, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu
đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Xã hội ngày nay, sự giao lu
kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia ngày càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày
càng mở rộng.
1.2. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm
Cho đến nay đã có rất nhiều khái niệm về bảo hiểm đợc đa ra, nh :
- Bảo hiểm là một hệ thống các biện pháp kinh tế nhằm tổ chức các quỹ bảo hiểm
huy động từ các đơn vị và cá nhân tham gia bảo hiểm để bồi thờng những tổn thất,
thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra.
- Hay có thể định nghĩa : bảo hiểm là phơng thức xử lý rủi ro, nhờ đó, việc chuyển
giao, phân tán rủi ro trong từng nhóm ngời đợc thực hiện thông qua các công ty
bảo hiểm.
- Bảo hiểm là chế độ cam kết bồi thờng về mặt kinh tế, trong đó ngời đợc bảo
hiểm phải đóng góp một khoản tiền đợc gọi là phí bảo hiểm cho đối tợng đợc bảo
hiểm theo các điều kiện bảo hiểm đã đợc quy định, còn ngời bảo hiểm có trách
nhiệm bồi thờng những tổn thất của đối tợng bảo hiểm do các rủi ro đã bảo hiểm
gây nên.
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 4 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
Điều này có nghĩa là : ngời tham gia chuyển giao rủi ro cho ngời bảo hiểm
bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi ngời tham gia bảo hiểm
gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, ngời bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thờng
thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho ngời tham gia.
Đây là một khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm.
Từ một số khái niệm trên, ta có thể thấy bảo hiểm chính là một ngành kinh
doanh rủi ro mà đối tợng của nó chính là những rủi ro, sản phẩm là sự bồi thờng

và giá cả của ngành kinh doanh này chính là phí bảo hiểm.
Một vấn đề đặt ra là : các công ty bảo hiểm làm sao để có nguồn vốn đủ lớn
để chi trả, bồi thờng thiệt hại khi các rủi ro xảy ra? ở đây, quy luật số lớn đã đ-
ợc vận dụng. Nghĩa là, với sự đóng góp tuy ít của nhiều ngời đã đem lại lợng vốn
đủ lớn để trang trải cho một số ít ngời bị rủi ro.
Nh vậy bản chất cuối cùng của bảo hiểm là sự phân tán rủi ro, chia nhỏ tổn
thất của một hoặc một số ít ngời ra cho tất cả những ngời tham gia bảo hiểm cùng
chịu. Hay nói cách khác, đó chính là quá trình phân phối lại thu nhập giữa những
ngời tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngời
xảy ra gây tổn thất đối với ngời tham gia bảo hiểm.
Rõ ràng là không phải tất cả những ngời mua bảo hiểm đều gặp rủi ro mà chỉ
một số ít ngời. Những ngời không bị tổn thất hiển nhiên bị mất không số phí bảo
hiểm đã đóng góp. Vậy : lý do gì khiến ngời ta mua bảo hiểm? Đó chính là do sự
cần thiết của bảo hiểm.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm
Trong đời sống xã hội, con ngời phải thờng xuyên có mối quan hệ tác động
qua lại với tự nhiên để tồn tại và phát triển. Trong mối quan hệ đó, con ngời luôn
phải chịu sự tác động của các quy luật khách quan của tự nhiên và của các điều
kiện kinh tế - xã hội. Những tác động này có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Đối với
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 5 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
những tác động tiêu cực, có những điều con ngời có thể khống chế và điều chỉnh đ-
ợc song cũng tồn tại những điều nằm ngoài khả năng kiểm soát của con ngời. Rủi
ro thuộc loại thứ hai. Vì vậy con ngời đã dùng nhiều biện pháp để đối phó với
những rủi ro ấy :
a) Tránh rủi ro : tức là không làm một việc gì đó quá mạo hiểm, không chắc
chắn. Dùng biện pháp này để đối phó với rủi ro là rất tiêu cực. Vì nếu muốn tránh
rủi ro con ngời sẽ không dám làm bất cứ một việc gì và nh vậy họ cũng sẽ chẳng

thu đợc gì. Hơn nữa, tránh rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh đợc mà trong
cuộc sồng lại luôn có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể né tránh đợc.
b) Ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, tổn thất: bằng những biện pháp đề phòng và hạn
chế những hậu quả của nó. Biện pháp này có thể hạn chế đợc phần nào những hậu
quả của rủi ro nhng cũng vẫn không giải quyết hết đợc những thiệt hại.
c) Tự khắc phục rủi ro : là việc các công ty hay cá nhân dự trữ một khoản tiền
nhất định để khi có rủi ro xảy ra thì dùng khoản tiền đó để bù đắp, khắc phục hậu
quả. Biện pháp này còn đợc gọi là tự bảo hiểm. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc
nguồn vốn không đợc sử dụng một cách tối u hay nếu có đi vay thì sẽ bị động và
còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất.
d) Chuyển nhợng rủi ro - bảo hiểm : là việc một cá nhân hay công ty khi tự mình
không thể đơng đầu với một hoặc một số rủi ro lớn, có tính chất thảm hoạ thì san
sẻ bớt cho những công ty chuyên nghiệp bằng cách thuê các công ty chuyên
nghiệp đó chịu trách nhiệm về các rủi ro thay mình. Khi ngời nhận trách nhiệm về
các rủi ro là các công ty bảo hiểm thì biện pháp này gọi là bảo hiểm. Khi nhận
trách nhiệm về các rủi ro, các công ty bảo hiểm phải bồi thờng những thiệt hại do
những rủi ro đã thoả thuận gây ra còn ngời chuyển nhợng rủi ro phải trả một khoản
tiền gọi là phí bảo hiểm. Biện pháp này không những khắc phục đợc những hạn chế
của những biện pháp trên mà trong thực tế, nó đã mang lại lợi ích kinh tế - xã hội
thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị tham gia.
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 6 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
3. Vị trí, tác dụng của bảo hiểm đối với nền kinh tế quốc dân.
Với xu hớng khu vực hoá và toàn cầu hoá nh hiện nay, hoạt động bảo hiểm
nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát
triển kinh tế theo cơ chế thị trờng. Nó có một ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với
nền kinh tế quốc dân mà còn đối với các doanh nghiệp và đời sống xã hội. Cùng

với sự phát triển của sản xuất và đời sống, nhu cầu bảo hiểm càng lớn và đa dạng
thì bảo hiểm càng phát huy rộng rãi những tác dụng của mình. Tuy nhiên, xét về
tổng thể, bảo hiểm có những tác dụng cơ bản sau :
3.1. Bảo hiểm là một phơng thức giúp tập trung đợc một nguồn vốn lớn, nguồn
vốn này đầu t lại vào nền kinh tế và giúp cho quá trình tái sản xuất xã hội phát
triển
Quá trình tập trung vốn diễn ra dới hình thức huy động sự đóng góp của các
tổ chức, các cá nhân ngời tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm tập
trung. ở các nớc có thị trờng bảo hiểm phát triển cao thì các quỹ bảo hiểm có
nguồn vốn lớn, là một trong những nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, là
một phần quan trọng của thị trờng tài chính.
ở Việt Nam, trong những năm gần đây hoạt động của bảo hiểm ngày càng
phát triển, chỉ tính riêng năm 1987 - là năm đầu nớc ta bắt đầu thực hiện chính
sách mới về kinh tế - toàn ngành bảo hiểm đã thu đợc xấp xỉ 1 tỷ đồng, gần bằng
doanh thu suốt cả 20 năm hoạt động trớc đó. Tiếp tục đà phát triển đó, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trờng và nhiều loại hình bảo hiểm phong phú, tổng
doanh thu bảo hiểm năm 1999 trên 2000 tỷ đồng với mức đầu t trở lại nền kinh tế
chiếm 0,5% GDP (khoảng 1648 tỷ đồng). Toàn bộ số vốn bảo hiểm tập trung đợc
gửi vào tài khoản ngân hàng và ngân hàng sử dụng để đầu t cho các ngành sản
xuất. Để minh họa cho điều này, ta có bảng số liệu sau :
Bảng 1: Tình hình hoạt động kinh doanh bảo hiểm giai đoạn 1995 - 1999
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 7 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
(Đơn vị : tỷ đồng)
Năm 1995 1996 1997 1998 1999
1. Tổng doanh thu
- % GDP
1027

0,46
1253
0,47
1401
0,48
1811
0,56
2000
0,58
2. Bồi thờng
- Tỷ lệ bồi thờng (%)
604
58,8
663
52,9
630
45
632
34,9
650
32,5
3. Đầu t trở lại nền kinh tế
- Chiếm tỷ lệ GDP (%)
75
0,03
157
0,06
962
0,3
1399

0,43
1648
0,48
4. Nộp ngân sách 84 100 105 110 120
(Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam, số 2/2000)
3.2. Thông qua việc giải quyết bồi thờng thiệt hại, bảo hiểm có tác dụng góp
phần ổn định sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống
Thông thờng, ngời tham gia bảo hiểm chỉ thấy đợc vai trò này của bảo hiểm
khi phát sinh trách nhiệm bồi thờng của bảo hiểm. Khi đối tợng bảo hiểm bị tổn
thất thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thờng toàn bộ hay một phần số tiền thiệt hạI, lúc
đó lợi ích của việc tham gia bảo hiểm mới rõ ràng. Ngợc lại, khi cha có tổn thất
xảy ra với đối tợng bảo hiểm thì ngời tham gia bảo hiểm cha thấy đợc sự cần thiết
tất yếu của việc đóng góp hình thành nên quỹ bảo hiểm.
Do thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít nên hoạt động bảo hiểm tập
trung đợc một lợng tiền khá lớn dùng để bù đắp những thiệt hại, mất mát về ngời
và tài sản do các rủi ro, tai nạn bất ngờ xảy ra. Do đó, doanh nghiệp hay cá nhân
ngời bị thiệt hại có thể phục hồi lại năng lực tài chính của mình, ổn định tình hình
sản xuất kinh doanh và đời sống.
Việc thực hiện tốt giải quyết bồi thờng sẽ khiến cho nhiều ngời thấy đợc vai
trò của bảo hiểm trong cuộc sống của mình, và từ đó lôi cuốn đợc nhiều ngời hơn
tham gia bảo hiểm. Nhờ đó, quỹ bảo hiểm ngày càng lớn và việc bồi thờng lại càng
đợc thực hiện tốt hơn.
3.3. Bảo hiểm còn góp phần tăng cờng công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con ngời
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 8 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
Do đặc thù kinh doanh của mình, các công ty bảo hiểm thông qua việc thống
kê thờng xuyên các vụ tai nạn và tổn thất trong các lĩnh vực của đời sống, phát

hiện nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại. Trên cơ sở đó đề xuất
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất những tổn thất
có thể xảy ra. Mặt khác, với chức năng của mình, các tổ chức bảo hiểm tích cực
đôn đốc ngời tham gia bảo hiểm tăng cờng các biện pháp bảo vệ tài sản của mình
nhằm hạn chế số vụ rủi ro và mức độ thiệt hại.
Về phía ngời tham gia bảo hiểm muốn đợc hởng quyền lợi bồi thờng khi có
tổn thất xảy ra, bên cạnh trách nhiệm đóng phí, họ còn phải thực hiện trách nhiệm
đề phòng và hạn chế tổn thất. Nếu ngời tham gia bảo hiểm thực hiện không tốt
công tác bảo vệ và phòng tránh tổn thất do đối tợng bảo hiểm thì khi có tổn thất
xảy ra, ngời bảo hiểm có thể không bồi thờng cho tổn thất hoặc giảm mức bồi th-
ờng. Điều này phù hợp với nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm : bảo hiểm không
có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho ngời bảo hiểm.
Với vai trò này, bảo hiểm cùng với ngời tham gia bảo hiểm thực hiện các
biện pháp để phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả, thiệt
hại.
3.4. Bảo hiểm làm tăng tích luỹ và tiết kiệm cho ngân sách Nhà nớc, góp phần
tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho cán cân thanh toán
Với tính chất hoạt động kinh doanh dịch vụ, bảo hiểm phải tính đến hiệu quả
và lợi nhuận thể hiện ở chênh lệch thu chi sau khi đã tổng hợp các khâu trong hoạt
động bảo hiểm. Ngoài ra, phần chính của lợi nhuận lại là ở sự quay vòng vốn sinh
lời trong phần nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm. Lợi nhuận thu đợc từ việc đầu t kinh
doanh của các công ty bảo hiểm đem lại cho các công ty này một nguồn thu đáng
kể.
Theo báo "Thời báo kinh tế Việt Nam - ngày 12/8/2002" : hết 6 tháng đầu
năm nay, doanh thu từ hoạt động đầu t tài chính của Bảo Việt đạt 137 tỷ đồng, tăng
68% so với cùng kỳ năm 2001. Tổng nguồn vốn đầu t tăng bình quân 50% so với
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 9 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt

cùng kỳ năm 2001, đến nay đạt gần 4.000 tỷ đồng. Bảo Việt còn đầu t vào các lĩnh
vực khác nh : trái phiếu Chính phủ, cho vay theo dự án.
Qua hoạt động đầu t sinh lời, bảo hiểm nộp một phần vào ngân sách Nhà nớc
theo luật định góp phần tăng tích luỹ cho ngân sách, do đó chi tiêu cho phúc lợi
tăng, đời sống nhân dân đợc cải thiện. Phần còn lại để phát triển, mở rộng hoạt
động bảo hiểm phục vụ cho lợi ích chung của nền kinh tế.
Mặt khác, để nâng cao hiệu quả hoạt động, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm
đều tăng cờng công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Từ đó, Nhà nớc giảm bớt đợc
gánh nặng về y tế, làm lại các công trình công cộng Ngân sách Nhà n ớc sẽ tiết
kiệm đợc một khoản lớn để đầu t vào những ngành sản xuất chính, tạo nhiều công
ăn việc làm cho ngời lao động cũng nh thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đối với Bảo Việt, một doanh nghiệp Nhà nớc lớn trong lĩnh vực bảo hiểm,
tổng nộp ngân sách trong 5 năm gần đây đợc thể hiện qua đồ thị sau :
Bảng 2 : Tổng nộp ngân sách Nhà nớc của Bảo Việt từ 1997 - 2001
79.62
97.22
90.14
96.9
103.93
0
20
40
60
80
100
120
1997 1998 1999 2000 2001
Tỷ VND
(Nguồn : report)
Thêm vào đó, khi mở rộng và phát triển các loại hình bảo hiểm trong nớc, các

công ty, doanh nghiệp trong nớc sẽ không phải mua bảo hiểm của nớc ngoài, các
công ty nớc ngoài tại Việt Nam cũng có thể mua bảo hiểm của các công ty bảo
hiểm Việt Nam. Do đó làm tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho Nhà nớc.
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 10 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
3.5. Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế với nớc ngoài,
nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm
Xu thế đổi mới của hoạt động sản xuất và giao lu hàng hoá với nớc ngoài ở n-
ớc ta ngày càng phát triển, đòi hỏi nhu cầu bảo hiểm càng lớn nhằm làm cho quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển ổn định, đảm bảo đủ khả
năng trang trải khi thiệt hại rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo hiểm có
trờng hợp giá trị của đối tợng bảo hiểm vợt quá khả năng thanh toán của công ty
bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo hiểm Việt Nam - với khả năng tài chính còn
hạn chế, nên các công ty bảo hiểm phải thực hiện hình thức tái bảo hiểm - mà chủ
yếu là với các công ty bảo hiểm lớn hơn của nớc ngoài. Khi thực hiện tái bảo hiểm
thì rủi ro sẽ đợc san sẻ và cũng làm cho các mối quan hệ hợp tác ngày càng đợc mở
rộng.
Từ những phân tích trên, ta có thể thấy rõ vị trí quan trọng của bảo hiểm đối
với nền kinh tế quốc dân. Với những tác dụng thiết thực của mình, bảo hiểm đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu đợc của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để thực
hiện những vai trò này, tất cả các bên tham gia vào hoạt động bảo hiểm đều phải
tuân thủ tuyệt đối những nguyên tắc của bảo hiểm.
4. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm
Giống nh các ngành kinh doanh khác, bảo hiểm cũng có những nguyên tắc
hoạt động riêng. Nguyên tắc đầu tiên và cơ bản nhất của bảo hiểm là lấy số đông
bù số ít, san sẻ và phân tán rủi ro. Quỹ bảo hiểm đợc hình thành từ nguồn phí bảo
hiểm do những ngời tham gia bảo hiểm đóng góp, sau đó nó đợc phân phối lại cho
một số ít ngời gặp rủi ro. Phí bảo hiểm chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với giá trị

bảo hiểm, do vậy, phải tính toán chính xác sao cho vừa đảm bảo kinh doanh bảo
hiểm có lãi vừa đảm bảo đợc khách hàng chấp nhận.
Ngoài nguyên tắc trên thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn phải tôn trọng
các nguyên tắc cơ bản sau :
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 11 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
4.1. Nguyên tắc bảo hiểm rủi ro chứ không bảo hiểm cái chắc chắn
Theo nguyên tắc này, ngời bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm rủi ro tức là bảo hiểm
một sự cố tai nạn, tai hoạ xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con ngời
chứ không bảo hiểm cái chắc chắn xảy ra, đơng nhiên xảy ra, có thể lờng trớc đợc
cũng nh chỉ bồi thờng những thiệt hại do rủi ro gây ra chứ không bồi thờng những
thiệt hại chắc chắn hay đơng nhiên xảy ra.
4.2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối
Theo nguyên tắc này, bảo hiểm phải tiến hành trên cơ sở trung thực và tin t-
ởng lẫn nhau giữa ngời đợc bảo hiểm và ngời bảo hiểm thể hiện ở :
- Ngời bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc, thể lệ, biểu
phí cho ngời đợc bảo hiểm biết; không đợc nhận bảo hiểm khi biết đối tợng bảo
hiểm đã đến nơi an toàn hay đã bị tổn thất.
- Ngời đợc bảo hiểm phải kê khai chính xác các chi tiết liên quan đến đối tợng bảo
hiểm và các rủi ro hay hiểm hoạ có thể gây tổn thất cho đối tợng bảo hiểm; phải
thông báo kịp thời những thay đổi về đối tợng bảo hiểm; không đợc mua bảo hiểm
khi đối tợng bảo hiểm đã bị tổn thất.
Hợp đồng bảo hiểm còn là hợp đồng của sự tín nhiệm: "contract of
goodfaith", do đó, nếu một bên vi phạm thì hợp đồng bảo hiểm trở nên không có
hiệu lực.
4.3. Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm
Theo nguyên tắc này, chỉ có những ngời có lợi ích bảo hiểm thực sự thì mới
đợc kí kết hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng đó mới hợp pháp. ở đây, lợi ích bảo

hiểm là lợi ích của quyền lợi gắn liền với, liên quan đến, hay phụ thuộc vào sự an
toàn hay không an toàn của đối tợng bảo hiểm. Nh vậy, ngời có lợi ích bảo hiểm là
ngời bị thiệt hại về tài chính khi đối tợng bảo hiểm gặp rủi ro. Do đó, chỉ những
ngời có lợi ích bảo hiểm mới đợc mua bảo hiểm và khi có tổn thất xảy ra, chỉ
những ngời đợc bảo hiểm đã có lợi ích bảo hiểm mới đợc bồi thờng.
4.4. Nguyên tắc bồi thờng
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 12 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
Theo nguyên tắc này, bảo hiểm phải bồi thờng đầy đủ kịp thời cho ngời đợc
bảo hiểm trong một thời gian quy định khi xảy ra tổn thất thuộc một rủi ro đợc bảo
hiểm, để đảm bảo cho ngời đợc bảo hiểm có vị trí tài chính nh trớc khi xảy ra tổn
thất, không hơn không kém. Cũng có nghĩa là, nếu ngời đợc bảo hiểm mua bảo
hiểm quá giá trị của đối tợng bảo hiểm thì khi có tổn thất anh ta cũng chỉ đợc bồi
thờng đúng bằng giá trị của đối tợng bảo hiểm mà thôi. Nguyên tắc này nhằm
tránh sự trục lợi của các bên.
4.5. Nguyên tắc thế quyền
Theo nguyên tắc này, ngời bảo hiểm - sau khi bồi thờng cho ngời đợc bảo
hiểm - có quyền thay mặt ngời đợc bảo hiểm đòi ngời thứ ba có trách nhiệm bồi th-
ờng cho mình. Để thực hiện nguyên tắc này, ngời đợc bảo hiểm phải cung cấp đầy
đủ các biên bản chứng từ cần thiết cho ngời bảo hiểm.
4.6. Nguyên tắc đóng góp
Theo nguyên tắc này, nếu một ngời đi mua bảo hiểm của nhiều công ty bảo
hiểm thì ngời đợc bảo hiểm chỉ đợc bồi thờng tối đa tới số tiền bảo hiểm, hạn mức
trách nhiệm hay trị giá bảo hiểm.
4.7. Nguyên tắc quyền lợi và nghĩa vụ phải tơng xứng
4.8. Nguyên tắc bảo hiểm không có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho nguời
bảo hiểm
5. Hợp đồng bảo hiểm

Hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng, qua đó một ngời (đợc bảo hiểm) tự cam
kết trả một khoản tiền (phí) để mình hay một ngời thứ ba (ngời thụ hởng), trong tr-
ờng hợp rủi ro xảy ra (sự cố bất ngờ và gây ra thiệt hại) có trợ giúp bởi một ngời
khác (ngời bảo hiểm).
Đó chính là thoả thuận giữa một ngời bảo hiểm và một ngời đợc bảo hiểm để
kí hợp đồng : nguời bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho rủi ro đợc yêu cầu và ngời
đợc bảo hiểm trả phí theo thoả thuận.
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 13 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
II. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đờng hàng không
Bảo hiểm là một ngành kinh tế đặc biệt đã đợc con ngời biết đến từ hàng
nghìn năm nay, trong đó, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một trong những
nghiệp vụ bảo hiểm cổ xa nhất trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 600 năm. Ng-
ời ta biết đến đơn bảo hiểm hàng hoá đầu tiên đã đợc cấp cho chuyến hàng xếp trên
tàu Santa Clara từ Giơnoa đến Marjorca vào năm 1347).
Trong thơng mại quốc tế ngày nay, có lẽ khó mà tìm đợc một hoạt động nào
mà lại không có bảo hiểm. Có chăng chỉ còn xuất khẩu điện bằng dây cáp hay xuất
khẩu nhiên liệu bằng đờng ống là cha đợc bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu chiểu theo luật
của một số nớc thì những trờng hợp trên cũng phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ sở hữu đờng dây điện hay đờng ống đối với những tổn thất bất ngờ
có thể xảy ra trên đờng vận chuyển, gây thiệt hại co ngời thứ ba hay đối với môi tr-
ờng xung quanh.
Sự cần thiết phải có bảo hiểm cho các loại hàng hoá, sản phẩm giờ đây đã
thực sự là điều không ai có thể nghi ngờ đợc. Bảo hiểm là phơng thức linh hoạt
nhất, thuận tiện nhất để bù đắp cho chủ hàng bị tổn thất trong quá trình sản xuất,
vận chuyển hay sử dụng trong các trờng hợp thiên tai hay tai nạn bất ngờ, là tấm lá
chắn hữu hiệu nhất để bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp.

Là một loại hình của bảo hiểm thơng mại, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đờng hàng không cũng có những tác dụng và vị trí quan trọng nh
đã trình bày ở phần trên. Hơn nữa, do tính chất đặc thù của hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hoá cũng nh quá trình chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đờng
hàng không, hoạt động bảo hiểm này lại đóng một vai trò không nhỏ đối với hoạt
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 14 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
động xuất nhập khẩu, đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trờng và ngành hàng
không phát triển mạnh mẽ nh ở nớc ta hiện nay.
1. Đặc điểm quá trình chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đờng hàng
không
Do sự phân bố không đồng đều về tài nguyên thiên nhiên và sức lao động nên
mỗi quốc gia đều có một lợi thế so sánh. Cùng với sự phát triển của phân công lao
động và hợp tác quốc tế, các quốc gia có quan hệ kinh tế với nhau nhằm phát huy
tối đa lợi thế so sánh của mình. Sự buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nớc mà cụ
thể là xuất nhập khẩu hàng hoá đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong
sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Cùng với sự phát triển không ngừng của
khoa học kỹ thuật, hàng hoá sản xuất ra không những đáp ứng đợc nhu cầu tiêu
dùng trong nớc mà còn có thể vơn ra thị trờng nớc ngoài, đem lại một nguồn thu
đáng kể cho ngân sách Nhà nớc. Ngợc lại, đối với những loại hàng hoá trong nớc
cha sản xuất đợc hay kém lợi thế so sánh hơn, ta có thể nhập khẩu từ nớc ngoài.
Nói chung, xuất nhập khẩu hàng hoá không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ
mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền thơng mại có tổ chức
nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bớc
nâng cao đời sống nhân dân. Do đó, xuất nhập khẩu hàng hoá là một hoạt động
kinh tế đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả cao song cũng có thể gây thiệt hại vì
nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong n-
ớc tham gia xuất nhập khẩu không thể khống chế đợc.

Nh vậy, hoạt động xuất nhập khẩu thực sự là một hoạt động có tính rủi ro
cao. Rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ công đoạn nào của hoạt động xuất nhập
khẩu, từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau nh thiên nhiên, kỹ thuật, môi trờng kinh
doanh, chính sách của Nhà nớc, ... Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ nh hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu đợc mở rộng,
ngời ta không chỉ quan hệ buôn bán với những nớc láng giềng nữa mà còn với tất
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 15 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
cả các nớc trên thế giới. Khoảng cách về không gian và thời gian càng rộng tất yếu
sẽ kéo theo xác suất về rủi ro tăng lên. Chính vì vậy, việc mua bảo hiểm cho hàng
hoá xuất nhập khẩu là một công việc không thể thiếu trong quá trình xuất nhập
khẩu hàng hoá và hiện nay nó đã trở thành thông lệ quốc tế.
Hàng hoá xuất nhập khẩu hiện nay có thể đợc chuyên chở bằng nhiều phơng
thức vận tải khác nhau nh : máy bay, ô tô, tàu hoả, ... trên nhiều tuyến đờng khác
nhau nh : đờng không, đờng sắt, đờng biển, ... và còn có nhiều phơng thức vận tải
hiện đại nh : vận tải liên hợp, vận tải đa phơng thức, ... Trong thực tế, phơng thức
vận chuyển đờng biển đợc áp dụng nhiều hơn cả, chiếm tới khoảng 90% tổng khối
lợng hàng hoá xuất nhập khẩu của thế giới do những u điểm riêng của phơng thức
vận tải này nh : năng lực vận tải lớn, cớc phí thấp, ... Tuy nhiên, phơng thức vận
chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đờng hàng không trong buôn bán quốc tế
vẫn chiếm một vị trí không thể thiếu. Tuy chỉ chuyên chở khoảng 1% tổng khối l-
ợng hàng hoá trong buôn bán quốc tế nhng lại chiếm khoảng 20% trị giá hàng hoá
trong mua bán quốc tế. Đối với các nớc phát triển, chuyên chở hàng hoá bằng đờng
hàng không chỉ chiếm một lợng nhỏ hơn 1%, nhng lại chiếm khoảng 30% trị giá.
Điều này cho thấy : nếu nói về khối lợng hàng hoá thì rất nhỏ nhng về giá trị, vận
tải hàng không chiếm vị trí tơng đối quan trọng; và chứng tỏ rằng : hàng hoá đợc
chuyên chở bằng đờng hàng không chủ yếu là hàng hoá có giá trị cao. Bên cạnh
đó, do đặc điểm về tốc độ của vận chuyển hàng không là nhanh nhất so với các ph-

ơng thức khác nên hàng hoá chuyên chở bằng đờng hàng không còn có thể là
những hàng hoá có sự nhạy cảm với thời gian, hàng hoá bán theo mùa vụ,

2. Sự cần thiết và tác dụng
Từ khi chiếc máy bay đầu tiên ra đời năm 1903 và chuyến bay quốc tế đầu
tiên đợc thực hiện từ London đi Paris năm 1919 thì ngành hàng không trên thế giới
đã có những bớc phát triển cực kỳ mạnh mẽ. Với sự phát triển không ngừng của
khoa học kỹ thuật đã cho ra đời những chiếc máy bay hiện đại có thể chở tới hơn
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 16 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
400 hành khách nh Boeing 767, kèm theo đó là sự tăng lên không ngừng của giá trị
các loại máy bay và khối lợng hàng hoá chuyên chở. Vì vậy, khi có tai nạn xảy ra
thì thiệt hại về vật chất là rất lớn, điều này không những ảnh hởng trực tiếp đến khả
năng tài chính của các hãng hàng không mà còn ảnh hởng đến hành khách đi trên
máy bay cũng nh là các chủ hàng hoá. Ngành vận tải hàng không là một ngành sử
dụng công nghệ cao với đội ngũ nhân viên lành nghề nhằm đạt đuợc tốc độ cao,
khả năng bay xa; bên cạnh đó, mỗi chuyến bay cũng đòi hỏi sự an toàn rất cao bởi
vì tính mạng con ngời và giá trị tài sản của máy bay, hàng hoá mà nó mang theo.
Các chuyến bay dân dụng cũng còn đòi hỏi một sự an toàn rất cao bởi tính mạng
con ngời, giá trị tài sản của chiếc máy bay và hàng hoá mà nó mang theo, và bởi
không thể dừng lại để sửa chữa trên không khi máy bay bị trục trặc. Vì vậy, hoạt
động hàng không đòi hỏi sự nghiêm ngặt tuân thủ nội quy, quy định nhằm đảm
bảo sự an toàn cao nhất cho mỗi chuyến bay. Tuy nhiên, trên thực tế thì vẫn xảy ra
tai nạn dù rất ít, nhng mức độ tổn thất thì lại rất lớn. Giá trị tổn thất của toàn ngành
hàng không nếu xét trên toàn thế giới từ năm 1982 là 520 triệu USD thì nay đã lên
tới 3.000 triệu USD. Một phần không nhỏ trong giá trị tổn thất đó là trách nhiệm
bồi thờng đối với hàng hoá đợc vận chuyển trên máy bay. Bởi vậy, ngay từ năm
1929 Công ớc quốc tế đầu tiên về vận chuyển hàng không đã đợc ký tại Vac-sa-va

quy định trách nhiệm của ngời vận chuyển hàng không đối với hành khách, hành
lý, hàng hoá và các bên thứ ba khác. Về sau, các mức trách nhiệm này lại đợc nâng
lên dần theo sự phát triển của nền kinh tế và ngành hàng không và đến nay có thể
lên đến hàng trăm triệu USD một vụ tổn thất.
Với đặc điểm riêng có của hình thức vận tải hàng không nh : tuyến đờng
trong vận tải hàng không là không trung và hầu nh là đờng thẳng không phụ thuộc
vào địa hình mặt đất, mặt nớc, không phải đầu t xây dựng; tốc độ vận tải cao, thời
gian vận tải ngắn; an toàn nhất trong các phơng thức vận tải;... thì dờng nh chuyên
chở hàng hoá bằng đờng hàng không đã khắc phục đợc những hạn chế cố hữu gây
ra nhiều tổn thất cho hàng hoá của hình thức vận tải đờng biển. Tuy nhiên, do giá
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 17 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
trị của mặt hàng trong vận tải hàng không thờng rất lớn nên việc lựa chọn tất yếu
của các chủ hàng để đảm bảo công việc kinh doanh của mình ổn định, nếu có tổn
thất xảy ra, chính là mua bảo hiểm.
Hơn nữa, ngày nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, ngành
hàng không phát triển với tốc độ rất nhanh và trở nên vô cùng quan trọng không
chỉ về mặt vận chuyển hành khách mà còn đáp ứng cả nhu cầu ngày càng cao về
vận chuyển hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất nhập khẩu. Đi kèm với nó, dịch vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đờng hàng không cũng ngày
một phát triển và thiết yếu hơn bao giờ hết.
III. Một số nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đờng hàng không

Khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá bằng đờng hàng không, mỗi một chủ
hàng đều có thể mua bảo hiểm cho hàng hoá của mình theo hai cách : mua trực
tiếp từ hãng hàng không thông qua cớc phí vận chuyển phải trả cho hàng hoá đó,
hoặc là mua bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm chuyên ngành. Trong nội dung bài

viết này, chỉ đề cập đến cách thứ hai : đó là bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
bằng đờng hàng không đợc mua từ hãng bảo hiểm.
1. Đặc điểm của hàng hoá xuất nhập khẩu và trách nhiệm của các bên liên
quan trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
1.1. Đặc điểm của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
Hàng hoá xuất ra và nhập vào đều phải đi qua các cửa khẩu biên giới quốc
gia. Vì vậy, nó phải tuân thủ các quy chế của từng quốc gia về số lợng, chủng loại
hàng hoá, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của hải quan, của cơ quan kiểm dịch.
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 18 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
- Xuất nhập khẩu hàng hoá giữa các cá nhân, các tổ chức thơng mại giữa các nớc
đều phải thực hiện theo hợp đồng mua bán ngoại thơng. Hợp đồng này đồng thời
phải theo đúng thông lệ quốc tế và những quy định của quốc gia của ngời bán và
ngời mua. Trong hợp đồng phải quy định về quy cách, phẩm chất, số lợng, ký mã
hiệu, đóng gói bao bì, giá cả, cớc vận chuyển, phí bảo hiểm, đồng tiền thanh
toán, ... theo thoả thuận giữa bên mua và bên bán.
- Hàng hoá đợc vận chuyển theo thông lệ quốc tế phải mua bảo hiểm. Việc mua
bảo hiểm phải đợc thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm cho lô
hàng đợc vận chuyển. Hợp đồng bảo hiểm có thể thực hiện giữa bên bán hoặc bên
mua với cơ quan bảo hiểm. Nếu ngời bán hàng mua bảo hiểm, có thể nhợng lại
quyền lợi bảo hiểm bằng cách kí nhận cho ngời mua hàng để khi hàng nhập khẩu,
nếu bị tổn thất thì có thể đòi cơ quan bảo hiểm bồi thờng.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu đợc vận chuyển bằng các phơng tiện khác nhau theo
hợp đồng. Ngời vận chuyển hàng hoá cũng đồng thời là ngời giao hàng cho ngời
mua. Do đó, ngời vận chuyển có trách nhiệm rất cao trong việc bảo đảm an toàn
cho số hàng hoá đợc vận chuyển. Để có những chứng cứ về mối ràng buộc trách
nhiệm, khi vận chuyển hàng phải có vận đơn (trong đó thể hiện bằng chứng của
hợp đồng chuyên chở), bằng chứng về quyền sở hữu hàng hoá và bằng chứng hoàn

thành nhiệm vụ chuyên chở và giao hàng theo đúng hợp đồng mua bán. Ngời vận
chuyển chỉ giao hàng cho ngời sở hữu hàng hoá, tức là ngời có vận đơn gốc.
Nh vậy, trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá chủ yếu có 4 bên liên quan
là : ngời bán, ngời mua, ngời vận chuyển và ngời bảo hiểm.
1.2. Trách nhiệm của các bên liên quan trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu
Ngời bán hàng (ngời xuất khẩu hàng) có trách nhiệm :
+ chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp đồng đã kí kết về số lợng, chất lợng, ...
+ làm thủ tục hải quan và kiểm dịch
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 19 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
+ nếu ngời bán mua bảo hiểm thì khi hàng qua khỏi biên giới, địa phận quốc gia
phải chuyển nhợng quyền lợi bảo hiểm sang cho ngời mua
Ngời mua hàng (ngời nhập khẩu hàng) có trách nhiệm :
+ nhận hàng từ ngời chuyên chở theo số lợng, chất lợng, chủng loại trong vận đơn
hay hợp đồng mua bán
+ kiểm tra các loại giấy tờ có liên quan nh biên bản kết toán giao nhận hàng với
chủ tàu, bên mua phải tiến hành các thủ tục pháp lý để bên bán xác định thiệt hại
(nếu có)
+ nhận phần chuyển nhợng bảo hiểm từ ngời bán hay tự mua bảo hiểm và theo dõi
cho đến khi hàng về tới kho
+ nếu hàng hoá có vấn đề tổn thất thì phải kịp thời thông báo cho các bên liên
quan để giải quyết
Ngời chuyên chở hàng hoá có trách nhiệm :
+ chuẩn bị phơng tiện và con ngời để nhận và đảm bảo chuyên chở hàng hoá theo
hợp đồng với bên bán và giao hàng cho bên mua
+ về số lợng hàng hoá trong quá trình chuyên chở
+ khi có tổn thất xảy ra phải kịp thời ghi chép lại, thông báo cho các bên liên quan

biết, là ngời trực tiếp đứng ra làm chứng trong khâu giám định
Ngời bảo hiểm nhận tiền bảo hiểm từ bên mua hay bên bán, có trách nhiệm :
+ bảo hiểm cho số hàng hoá đợc vận chuyển
+ kiểm tra các chứng từ về hàng hoá, kiểm tra lịch trình và phơng tiện, ...
+ khi nhận đợc thông báo tổn thất, ngời bảo hiểm phải kịp thời cử nhân viên hay
ngời đại diện cho mình đi giám định, sau đó xem xét bồi thờng cho các chủ hàng
theo đúng nguyên tắc : chính xác, khách quan và trung thực theo hợp đồng đã kí
kết.
Nh vậy, từ đặc điểm của quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá và trách nhiệm
của các bên liên quan đã phân tích ở trên, chúng ta thấy cần phải nghiên cứu thêm
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 20 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
về đối tợng, phạm vi và những điều khoản riêng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đờng hàng không. Từ đó, có thể với t cách ngời bảo hiểm
hay ngời đợc bảo hiểm kí hợp đồng với những điều kiện hợp lý, có những biện
pháp hạn chế tổn thất hữu hiệu đối với nghiệp vụ này.
2. Đối tợng bảo hiểm
Đối tợng bảo hiểm của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng
đờng hàng không là những loại hàng hoá đợc chuyên chở bằng máy bay; trừ th, bu
kiện bu phẩm, và hàng chuyển phát nhanh. Trong vận tải hàng không quốc tế, hàng
hoá thông thờng đợc chuyên chở bằng máy bay chiếm khoảng 80%, còn lại 16% là
hàng chuyển phát nhanh, 4% là bu phẩm bu kiện.
Hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đờng hàng không thờng gồm
những loại chính sau đây :
Hàng có giá trị cao (high value commodity) : là những loại hàng :
+ hàng giá trị cao (có giá trị vận chuyển từ 1.000 USD/kg trở lên)
+ vàng, bạch kim, đá quý hay các sản phẩm bằng vàng, bạch kim
+ tiền, séc du lịch, thẻ tín dụng, các loại chứng từ có giá

+ kim cơng và các đồ đá quí, đồ trang sức, ...
Hàng dễ h hỏng do thời gian (perisable) : bao gồm hoa quả tơi, thực phẩm đông
lạnh, ...
Hàng nhạy cảm với thị trờng (market sensitive air freight) : nh các loại hàng
bán theo mùa, hàng mốt, hàng thời trang (fashion goods)
Động vật sống (alive animals) : loại này gồm động vật nuôi trong nhà, động vật
ở các vờn thú. Động vật sống cần có yêu cầu về kiểm dịch, chăm sóc đặc biệt,
đòi hỏi vận chuyển nhanh để không ảnh hởng tới sức khoẻ.
3. Các điều khoản bảo hiểm hàng hoá chuyên chở bằng đờng hàng không
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 21 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
Điều kiện, điều khoản bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là những quy định
phạm vi trách nhiệm của ngời bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hoá. Hàng hoá
mua bảo hiểm theo điều kiện, điều khoản nào thì chỉ những rủi ro xảy ra trong điều
kiện, điều khoản đó mới đợc bồi thờng.
Khác với các loại hình bảo hiểm hàng không khác nh : bảo hiểm thân máy
bay; bảo hiểm trách nhiệm đối với hành khách, hành lý và hàng hoá; bảo hiểm
trách nhiệm sản phẩm; do hãng hàng không mua từ các công ty bảo hiểm, bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đờng hàng không có thể do các
chủ hàng mua từ các công ty bảo hiểm chuyên ngành, nó tơng tự nh hình thức xuất
nhập khẩu hàng hoá bằng đờng biển. Do vậy, điều khoản bảo hiểm này không nằm
trong các Công ớc hay các Nghị định th của vận tải hàng không mà đợc ban hành
trong điều khoản bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của ICC.
Trên thế giới đã có 2 lần ban hành và sửa đổi điều kiện bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu vào năm 1963 và 1982. Lần thứ nhất: ở Anh, ngày 1-1-1963 ban
hành 3 điều kiện cơ bản là bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA), bảo hiểm tổn thất
riêng (WA), điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (AR), đợc áp dụng rộng rãi. Nhng do
giao lu thơng mại quốc tế ngày một thay đổi và phát triển, ngày1-1-1982, Viện

những ngời bảo hiểm Luân Đôn (ILU) lại ban hành những điều kiện bảo hiểm mới
thay thế điều kiện bảo hiểm cũ. Trong đó các điều kiện bảo hiểm hàng hoá bao
gồm: điều kiện bảo hiểm C, B, A và điều kiện bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình
công.
Đối với bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đờng hàng
không thì điều khoản bảo hiểm của ICC 1982 (do Viện những ngời bảo hiểm Luân
đôn ban hành ngày 1/1/1982) hiện là phổ biến nhất và trở thành điều kiện áp dụng
rộng rãi trên toàn thế giới (với hơn 200 nớc tham gia trong đó có Việt Nam). ở
Việt Nam hiện nay, ngoài điều kiện áp dụng cho bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu theo những quy tắc của ICC còn có những quy tắc riêng của Bảo Việt (Tổng
Công ty bảo hiểm Việt Nam). Tuy nhiên, trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 22 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
nhập khẩu chuyên chở bằng đờng hàng không thì hiện Bảo Việt vẫn cha có quy tắc
riêng mà việc áp dụng chủ yếu theo điều khoản bảo hiểm hàng hoá vận chuyển
đờng không của ICC 1982.
3.1. Những rủi ro đợc bảo hiểm (điều khoản rủi ro)
Theo ICC 1/2/1982 : ngời bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đờng hàng
không chịu trách nhiệm bảo hiểm mọi rủi ro, tổn thất với đối tợng bảo hiểm, trừ
các trờng hợp quy định cụ thể sau đây :
3.2. Loại trừ bảo hiểm (điều khoản loại trừ chung, điều khoản loại trừ chiến tranh,
điều khoản loại trừ đình công)
- Tổn thất hay chi phí do lỗi của ngời đợc bảo hiểm
- Rò chảy thông thờng, mất mát thông thờng về trọng lợng, thể tích (ordinary
loss in weight or volume), khối lợng hay hao mòn và rách thông thờng của đối
tợng bảo hiểm
- Mất mát, h hại hay chi phí do bao bì không đầy đủ hay không phù hợp của đối
tợng bảo hiểm

- Tổn thất hay chi phí do nội tỳ hay bản chất của đối tợng bảo hiểm
- Tổn thất hay chi phí phát sinh từ sự không phù hợp của máy bay, phơng tiện
vận chuyển, container hay băng chuyền (unfitness aircraft conveyor container
or liftman), đối với việc vận chuyển an toàn đối tợng bảo hiểm, khi ngời đợc
bảo hiểm hay ngời làm công của họ đã biết trớc sự không phù hợp nh vậy vào
lúc xếp hàng
- Mất mát, h hại hay chi phí do chậm trễ, dù chậm trễ gây ra bởi một rủi ro đợc
bảo hiểm
- Mất mát, h hỏng hoặc phát sinh chi phí do tình trạng thua lỗ tài chính mất khả
năng chi trả (loss damage or expensive arising from insolvency financial
default) của những ngời chủ, ngời quản lý, ngời thuê hay ngời khai thác máy
bay (owners, managers, chatterers or operators)
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 23 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
- Mất mát, h hại do việc sử dụng vũ khí chiến tranh, hạt nhân nguyên tử
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng
- Bị bắt, tịch thu, câu thúc, câu lu
- Bom, mìn và các vũ khí chiến tranh
- Tổn thất do những ngời đình công, cấm xởng, bạo động nổi loạn dân sự
- Tổn thất do những ngời khủng bố (terrorist), hay bất cứ ngời nào hành động vì
mục đích chính trị.
Nh vậy, nếu nh bảo hiểm hàng hoá bằng đờng biển có các đIều kiện A, B, C
tuỳ theo mức độ rủi ro thì bảo hiểm hàng hoá bằng đờng không chỉ có đIều khoản
về những rủi ro đợc bảo hiểm và loại trừ. Các rủi ro loại trừ bao quát hơn nên ngời
ta thờng gọi đIều khoản bảo hiểm hàng hoá bằng đờng không là covering institute
cargo clause
3.3. Thời hạn bảo hiểm (điều khoản vận chuyển, điều khoản kết thúc hợp đồng
vận chuyển, điều khoản thay đổi hành trình)

a) Không gian bảo hiểm
- Bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi đối tợng bảo hiểm rời khỏi kho, nơi
chứa hàng hay nơi lu giữ có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận
chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong quá trình vận chuyển bình thờng và hết hiệu lực
tại một trong các thời điểm sau đây, tuỳ theo trờng hợp nào xảy ra trớc :
- Khi giao hàng vào kho ngời nhận hàng hay kho hoặc nơi chứa hàng cuối cùng
khác hay lu kho ở nơi đến có ghi trong hợp đồng bảo hiểm
- Khi giao hàng vào bất kỳ một kho hay nơi chứa hàng nào khác hay nơi lu kho,
cho dù trớc khi đến hay tại nơi đến có ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà ngời đợc
bảo hiểm chọn dùng hoặc :
+ để lu kho ngoài quá trình vận chuyển bình thờng hoặc
+ để phân phối hay cung cấp hàng hoá.
b) Thời hạn bảo hiểm
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 24 -
Khoá luận tốt nghiệp
Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đờng hàng không tại Bảo Việt
Thời hạn bảo hiểm là 30 ngày sau khi dỡ hàng hoá ra khỏi máy bay tại nơi dỡ
hàng cuối cùng.
Nếu một trong hai điều trên xảy ra thì điều còn lại không có giá trị. Nghĩa
là : nếu hàng hoá đợc vận chuyển về kho an toàn ngay sau khi dỡ ra khỏi máy bay
thì bảo hiểm sẽ hết hiệu lực, không cần chờ 30 ngày. Ngợc lại, sau 30 ngày kể từ
ngày dỡ xong hàng mà không đa đợc hàng về kho thì bảo hiểm cũng hết hiệu lực,
không cần chờ mang vào kho.
c) Kết thúc hợp đồng vận chuyển
Ngoài ra, về thời hạn bảo hiểm ICC còn quy định về việc kết thúc hợp đồng
vận chuyển: nếu do những tình huống ngoài khả năng kiểm soát của ngời đợc bảo
hiểm mà hợp đồng vận chuyển kết thúc tại một nơi khác nơi đến có tên ghi trong
hợp đồng bảo hiểm hoặc việc vận chuyển đợc kết thúc theo cách khác trớc khi giao
hàng thì bảo hiểm này cũng sẽ kết thúc trừ khi có giấy báo gửi ngay cho ngời bảo

hiểm yêu cầu tiếp tục bảo hiểm trong khi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với điều kiện
phải nộp thêm phí bảo hiểm nếu ngời bảo hiểm yêu cầu, hoặc
- cho tới khi hàng đợc đem bán và giao ngay tại địa điểm đó, hoặc trừ khi có thoả
thuận riêng khác, cho tới khi hết thời hạn 30 ngày sau khi hàng hoá đợc bảo
hiểm đến địa điểm đó, tuỳ theo trờng hợp nào xảy ra trớc, hoặc
- nếu hàng hoá đợc gửi đi trong thời hạn 30 ngày nói trên (hoặc bất kỳ thời hạn
mở rộng nào đã thoả thuận) tới nơi đến có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm hay
tới bất kỳ nơi đến nào khác cho tới khi kết thúc bảo hiểm theo những quy định
trên.
d) Thay đổi hành trình
Sau khi bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực nếu ngời đợc bảo hiểm thay đổi nơi
đến thì bảo hiểm này vẫn giữ nguyên hiệu lực với điều kiện ngời đợc bảo hiểm
phải thông báo ngay cho ngời bảo hiểm biết với phí bảo hiểm và những điều kiện
đợc thoả thuận.
Nguyễn Thị Thanh Xuân A3 - K37 - 25 -

×