Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Điều chỉnh chính sách thuế của Việt Nam - Phạm Hương Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.98 KB, 108 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
Lời nói đầu.
ở bất cứ chế độ xã hội nào, thuế luôn là công cụ để huy động nguồn thu
đáp ứng nhu cầu chi tiêu vào các mục tiêu kinh tế- xã hội và chi tiêu cho bộ
máy Nhà nớc đó. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới hiện
nay thì thuế lại càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết đối với sự phát
triển hoạt động kinh tế thơng mại của các nớc nói chung và của Việt nam nói
riêng.
Cùng với chính sách đổi mới- mở cửa nền kinh tế, đa dạng hoá và đa ph-
ơng hoá quan hệ quốc tế từ những năm cuối thập kỷ 80 và 90, nớc ta đã có
những bớc đi dài và vững chắc trên con đờng hội nhập kinh tế quốc tế. Việt
nam đã trở thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế quan
trọng nh: ASEAN( tháng 7/1995), APEC( tháng 11/1998),ASEM...; đã ký kết
các Hiệp định thơng mại song phơng với nhiều nớc trên thế giới trong đó phải
nói đến là Hiệp định thơng mại Việt-Mỹ, chính thức có hiệu lực từ tháng
11/2001 và hiện nay con tàu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam đang đi
đến ga cuối, đó là trở thành thành viên của Tổ chức thơng mại quốc tế( WTO).
Để có thể tham gia WTO, chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện công cuộc
cải cách hành chính, cải cách chính sách thơng mại, kinh tế trong đó việc điều
chỉnh và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế là một nhiệm vụ hết sức quan
trọng.
Trong quá trình học tập ở trờng và qua một thời gian tìm hiểu, nghiên
cứu, em đã quyết định chọn vấn đề: Điều chỉnh chính sách thuế của Việt nam
trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới làm đề tài cho Khoá luận
tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần lời mở đầu, mục lục, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo,
khoá luận tốt nghiệp điều chỉnh chính sách thuế của Việt nam trong
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của em gồm ba chơng:
Chơng I: Sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách thuế.
1
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37


Chơng II: Chính sách thuế của Việt nam hiện nay và những điểm cha
phù hợp với yêu cầu của các tổ chức quốc tế.
Chơng III: Định hớng các biện pháp điều chỉnh chính sách thuế.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, mặc dù đã có sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô, đặc biệt là sự chỉ bảo của cô giáo- Thạc sĩ Bùi Thị Lý, nhng khoá luận
tốt nghiệp của em sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết, sai sót hoặc nhầm
lẫn, Em rất mong nhận đợc sự giúp đỡ, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn
để các nội dung trong đề tài này của em có thể hoàn thiện hơn.
chơng i.
sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách thuế của Việt nam
trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
2
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
1. Vai trò của thuế đối với nền kinh tế Việt nam.
1.1. Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nớc.
Các nguồn thu ngân sách của các quốc gia, thông thờng gồm các khoản
thu nh: thuế, phí và các khoản vay cho ngân sách của chính phủ; trong đó thuế
đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu. Thuế luôn là nguồn thu chủ yếu cho ngân
sách đối với mọi quốc gia (thờng chiếm từ 78%-95% tổng thu ngân sách nhà n-
ớc), là nguồn lực tài chính để Nhà nớc thức hiện chức năng quản lý và cung cấp
hàng hoá, dịch vụ công cộng cho xã hội.
Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới, tại 85 nớc trên thế giới thì 60 nớc
có khoản thu thuế chiếm 80% tổng thu ngân sách. Đặc biệt các nớc nh: Đức,
Nhật, Pháp, Mỹ đạt tỷ trọng rất cao:
Nớc Nhật Pháp Mỹ Đức
Tỷ trọng thuế trong
tổng thu ngân sách
(%)
95.4 95.3 95 92.7
(Nguồn: Giáo trình thuế và hệ thống thuế Việt Nam - Trờng Đại học

Ngoại Thơng, 1999).
Còn ở Thuỵ Điển, trong vòng gần 40 năm, từ năm 1950 đến 1988, mức
đóng góp của thuế vào ngân sách của Nhà nớc không ngừng tăng:
Năm 1950 1960 1965 1970 1988
Tỷ trọng thuế trong tổng
thu ngân sách (%)
23 30 35 51 64
(Nguồn: Thuế Thuỵ Điển- Thông tin chuyên đề, Hà nội 1990 Viện Khoa học
Tài chính, Bộ Tài chính)
ở Việt nam, sự đóng góp của thuế trong ngân sách luôn giữ vị trí quan
trọng. Đặc biệt những năm gần đây thuế chiếm tỉ trọng lớn trong ngân sách
Nhà nớc.
3
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
Những số liệu trên đã khẳng định vị trí hàng đầu của thuế trong tổng thu
ngân sách Nhà nớc. Mặt khác, những số liệu đó còn cho ta thấy vị trí đó ngày
càng có xu hớng quan trọng hơn.
Ngoài nguồn thu chủ yếu từ thuế, còn có nhiều biện pháp làm cho ngân
sách tăng lên, nh việc Nhà nớc nâng giá sản phẩm, dịch vụ hoặc ngợc lại hạ
mức lơng của các đối tợng Nhà nớc trả lơng. Song, cả hai biện pháp này đòi hỏi
Nhà nớc phải là nhà độc quyền sản xuất và cung ứng mọi hàng hoá cho xã hội.
Điều này là phi thực tế vì từ trớc đến nay Nhà nớc cha bao giờ là nhà độc quyền
cả, có chăng chỉ độc quyền đối với một số ngành nh: điện, nớc, công nghiệp
quân sự, thông tin...
Mặt khác, ngời phải chịu giá hàng hoá cao và mức lơng hạ lại chính là
tầng lớp dân c rất đông đảo có thu nhập ít. Đây là một khó khăn mà Nhà nớc
không thể dùng nó để làm nguồn bổ sung vào ngân sách.
Do vậy, nếu so sánh ba biện pháp chuyển thu nhập từ cá nhân vào ngân
sách Nhà nớc thì biện pháp thuế có nhiều điểm lợi hơn: tế nhị, tinh vi, năng
suất thu. Song cũng cần chú ý một số điểm sau:

- Để đảm bảo cho nguồn thu thuế ổn định, đáp ứng nguồn chi thờng
xuyên thì cần coi trọng thuế gián thu bởi vì loại thuế này đánh vào hàng hoá,
dịch vụ đợc tính vào giá cả hàng hoá- dịch vụ nên khi nền kinh tế đình trệ, suy
thoái, ngời ta vẫn không thể ngừng hẳn việc mua sắm cho nhu cầu tiêu dùng
thiết yếu nên Nhà nớc vẫn còn nguồn thu, tính ổn định của loại này cao hơn
thuế trực thu. Mặt khác, thuế gián thu dễ đợc ngời chịu thuế chấp nhận hơn
theo nguyên lý: đánh vào những gì mà ngời chịu thuế lấy đi của xã hội có tác
dụng tốt hơn là đánh vào những gì mà họ nhập vào cho xã hội.
- Một yêu cầu quan trọng là thuế phải bao quát đợc hầu hết mọi hoạt
động từ sản xuất kinh doanh, chế biế, sửa chữa, chế tạo, khai thác, xây dựng,
vận tải, buôn bán, ăn uống...đến dịch vụ từ mọi nguồn thu nhập thờng xuyên
hay không thờng xuyên. mọi hoạt động tiêu dùng xã hội.
- Một chú ý thứ nữa có tính nguyên tắc là khi thu thuế cần tránh gây tình
trạng thuế giết thuế, trái lại thuế phải nuôi dỡng thuế (có nghĩa là khi mức
4
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
thuế cao quá mức cần thiết, làm cho ngời sản xuất không có lãi nữa, dẫn đến
việc doanh nghiệp ngừng hẳn sản xuất, số thuế đáng ra phải nộp cho ngân sách
không còn nữa).
1.2. Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân.
Bên cạnh vai trò là nguồn thu ngân sách chủ yếu, hệ thống thuế ngày
càng đợc các nớc sử dụng nh là một trong những công cụ quan trọng để điều
tiết vĩ mô nền kinh tế quốc gia. Vì chính sách thuế có ảnh hởng trực tiếp đến
giá cả, đến quan hệ cung cầu, đến cơ cấu đầu t và sự phát triển cũng nh suy
thoái của nền kinh tế mỗi quốc gia.
a) Nếu tăng thuế mà không tăng chi tiêu chính phủ một cách tơng ứng sẽ làm
giảm GNP và công ăn việc làm.
Trong kinh tế học ngời ta đề cập đến các yếu tố cấu thành GNP( Gross
National Product) gồm:

- Chi phí cho tiêu dùng cá nhân (C: Consumer spending).
- Chi phí để đầu t ( cả đầu t trong nớc lẫn xuất khẩu ròng(I + X - M). (I:
Investment; X: Export ; M: Inport)
- Chi phí của chính phủ để mua sắm hàng hoá- dịch vụ (G: Government
spending).
Có nghĩa là: GNP = G+I+C.
Giả sử mức chi tiêu của chính phủ và chi đầu t không thay đổi thì khi
tăng thuế, thu nhập có thể sử dụng (Yd: disposable income) sẽ giảm sút ngay
lập tức vì Yd= thu nhập cá nhân- thuế cá nhân, lúc đó cá nhân sẽ cắt giảm tiêu
dùng, dẫn đến C giảm, kéo theo GNP, công ăn việc làm cũng giảm theo.
Từ kết luận trên cùng, ta còn thấy một số vấn đề phát sinh, khi tăng thuế
mà chính phủ không tăng chi tiêu. Sẽ dẫn đến một câu hỏi: Tăng thuế để làm
gì? Điều đó sẽ dẫn đến sự chán nản, không muốn làm việc ở tầng lớp dân
chúng. Song thật may mắn, hiện tợng đó hầu nh không có, ngay cả với Việt
nam. Nhà nớc thờng dùng nguồn thuế để chi tiêu, thay vì chi tiêu cá nhân, ngời
5
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
dân chuyển một phần thu nhập sang Nhà nớc (qua việc nộp thuế) để chi tiêu
công cộng cho toàn xã hội mà trong đó từng cá nhân cũng đợc hởng. Do vậy,
đem một phần chi tiêu cá nhân chuyển sang chi tiêu công cộng là một hành
động rất đáng khích lệ.
b) Nhà nớc còn dùng thuế để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Lúc hoàn cảnh kinh tế cực thịnh, chính phủ có thể gia tăng thuế để làm
cán cân thu nhập nghiêng về phía Nhà nớc, hạn chế thu nhập có thể sử dụng,
tăng mức tích luỹ cho Nhà nớc, tạo ra một nguồn vật chất dự phòng khi nền
kinh tế bị suy thoái hoặc gặp thiên tai và những điều kiện bất lợi.
Hoặc có thể hạ thấp mức thuế khi nền kinh tế đang suy thoái, đình đốn
để nâng cao mức cầu kích thích sản xuất phát triển, từng bớc ổn định và phục
hồi nền kinh tế.
c) Thuế còn có tác dụng nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội.

Thông qua từng mức thuế suất phân biệt đối với từng sản phẩm- dịch vụ
hoặc giữa các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau để có chính sách u đãi thuế
đối với một mặt hàng, ngành hàng hoặc hàng sản xuất, tự nó góp phần điều
chỉnh lại cơ cấu sản xuất.
Chính sách thuế của Nhà nớc Việt nam hện nay thể hiện rõ quan điểm
khuyến khích sản xuất hơn thơng mại, dịch vụ; khuyến khích các dịch vụ thiết
yếu hơn xa xỉ.
Tuỳ theo yêu cầu và định hớng phát triển trong từng thời kỳ, nhà nớc có
thể tăng đầu t bằng cách giảm tỷ lệ động viên từ thuế thu nhập hoặc tăng thuế
đối với tiêu dùng hàng hoá nhằm giảm tiêu dùng, tăng tỷ lệ tiết kiệm, tức làm
tăng nguồn tài chính cho đầu t.
1.3. Thuế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối thu nhập.
Trong cơ chế thị trờng, các quy luật khách quan đợc phát huy tác dụng
một cách tối đa. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng phân cực đối lập nhau: một bên
là thiểu số ngời giàu có lên nhanh chóng, còn đa số đại bộ phận dân c chỉ đạt đ-
ợc mức tăng thu nhập nhỏ nhoi. Tình trạng trên không chỉ nói lên mức sống bị
6
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
phân biệt mà còn liên quan đến đạo đức, công bằng xã hội. Mà thực sự ý nghĩa
của sự phát triển kinh tế-xã hội vì mọi mặt của một quốc gia là kết quả của nỗ
lực cộng đồng. Bởi vậy sự can thiệp, điều tiết của Nhà nớc là đặc biệt hữu ích
trong đó thuế là một công cụ có vai trò quan trọng.
Việc điều hoà thu nhập xã hội phần nào đợc thực hiện thông qua thuế
doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức. Thuế đánh cao vào những hàng
hoá-dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của các công ty, cá nhân có
thu nhập cao so với bình quân của xã hội.
Những loại thuế gián thu nh thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt... thoạt
nhìn cứ nghĩ sẽ có lợi cho ngời giàu hơn. Song không hẳn nh vậy, điều đó đợc
giải thích thông qua ví dụ sau:

- Thuế suất doanh thu đánh vào khiêu vũ là 30%.
- Thuế suất doanh thu cửa hàng ăn uống cao cấp là 10%.
- Thuế suất doanh thu đánh vào bào chế thuốc chữa bệnh là 1%
- Thuế suất đánh vào quán ăn bình dân là 4%.
Hai loại thuế đánh vào trên loại hình giải trí, ăn uống dành cho tầng lớp
những ngời có thu nhập cao. Do vậy, nên chăng chuyển sử dụng cá nhân của
nhóm ngời này sang sử dụng xã hội bằng cách đóng thuế cao khi đi khiêu vũ
hoặc ăn uống sang trọng.
Còn hai loại thuế sau (bào chế thuốc chữa bệnh và quán ăn bình dân) là
hai loại hình sản xuất dịch vụ mà đối tợng phục vụ chủ yếu là đại đa số dân
chúng nhng có thu nhập thấp.
Đây chính là sự thanh minh cho thuế gián thu trong việc điều hoà thu
nhập đợc phân phối trong xã hội.
Khi bàn về vai trò của thuế, ngời ta còn thấy rõ ràng hơn khi nói đến thuế
luỹ tiến. Hiện nay có hai quan điểm đề cập đến vấn đề này song đối lập nhau:
Quan điểm một: cho rằng không nên áp dụng đánh thuế suất luỹ tiến vì hai
lý do sau:
7
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
- Lý do thứ nhất: Đánh thuế luỹ tiến sẽ có tác dụng làm nản ý chí làm giàu
của từng cá nhân mà đây chính là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế
xã hội, vì có thu nhập cao thì thuế lại đánh cao theo.
- Lý do thứ hai: Gây nên sự bất bình đẳng trong thuế khoá.
Trớc thuế, mọi ngời đều bình đẳng nhng nếu áp dụng thuế suất gia tăng,
ngời giàu sẽ phải nộp nhiều hơn ngời nghèo( cả mặt tơng đối lẫn tuyệt đối) dẫn
đến không bình đẳng.
*Quan điểm thứ hai: nhất trí với đánh thuế luỹ tiến.
- Lý do thứ nhất: phân phối đồng đều gánh nặng thuế khoá giữa những cá nhân
có mức thu nhập chênh lệch nhau.
Điều này có nghĩa một cá nhân có thu nhập lớn nếu phải nộp thêm một

khoản thì cũng gây ra ít hi sinh hơn là lấy ra từ một cá nhân có thu nhập thấp.
Điều này thực sự chỉ muốn nói đến công bằng về mặt đối nhân chứ không phải
công bằng về mặt toán học.
- Lý do thứ hai: Phân phối hợp lý tơng đối hơn cả thu nhập xã hội, tài nguyên
xã hội.
Trong bất cứ xã hội nào cũng có ngời giàu ngời nghèo. Để ngời nghèo
bớt khổ, không chỉ bằng cách kêu gọi lòng từ thiện, mà còn phải thông qua
thuế, từ đó ngân sách tăng, dùng chi tiêu công cộng, san sẻ bớt thu nhập từ ngời
giàu sang ngời nghèo, thông qua nhiều cách (trợ cấp xã hội, cứu tế xã hội...).
- Lý do thứ ba: Góp phần ổn định và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế muốn ổn định đợc thì tổng cung và tổng cầu phải có sự tơng
quan phù hợp. Thuế đánh luỹ tiến chủ yếu áp dụng cho ngời có thu nhập cao.
Song thực chất so với mức thu nhập của họ cũng không ảnh hởng gì. Mặt khác
đại bộ phận dân c không bị đánh thuế hoặc bị đánh thuế thì cũng ở mức thấp.
Do vậy, nó vẫn giúp cho nền kinh tế chống đỡ đợc bởi một lợng cầu đông đảo,
dồi dào tơng đối ổn định sinh ra từ thu nhập thấp, tạo ra nền móng để chống đỡ
sự suy sụp của nền kinh tế.
- Lý do thứ t: Đạt năng suất cao trong thu thuế.
8
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
Xu hớng chung của các quốc gia là tìm ra những nguồn thu nhập lớn để
thu nhiều thuế theo một chiến lợc đợc hiểu một cách đơn giản là: Lời nhiều
tiền ở chỗ nhiều tiền. Nh vậy, việc đánh thuế luỹ tiến sẽ đạt đợc năng suất cao
vì thu những ngời có tiền.
Nh vậy, ở phần trên chúng ta đã đề cập đến vai trò của thuế. Nhng vai trò
này không xuất hiện cùng một lúc mà nó bộc lộ theo sự gia tăng vai trò quản lý
vĩ mô của Nhà nớc và những tiến bộ xã hội.
2. Sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách thuế trong quá trình hội
nhập
Không chỉ ở Việt nam mà hầu nh ở bất kỳ một nớc nào trên thế giới, yêu

cầu phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế nói chung và chính
sách thuế nói riêng luôn đợc u tiên hàng đầu vì nó phản ánh sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia.Trong điều kiện nền kinh tế đang trong giai đoạn
chuyển đổi lại có vị trí quan trọng trong khu vực kinh tế năng động có tốc độ
tăng trởng kinh tế nhanh nhất thế giới, nớc ta thực sự cần và phải có những điều
chỉnh thích hợp trong chính sách thuế để góp phần là công cụ điều chỉnh và
quản lý hoạt động kinh tế- xã hội trong thiên niên kỷ mới. Một số lý do giải
thích cho sự cần thiết này nh sau:
- Xuất phát từ xu hớng đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa các nớc trong khu
vực và trên thế giới, hội nhập kinh tế đã trở thành một yêu cầu tất yếu, là một
trong những nguồn lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc góp
phần giải phóng các nguồn lực kinh tế nh thống nhất thị trờng vốn, thị trờng lao
động, khuyến khích chuyển giao công nghệ, xoá bỏ mọi rào cản đối với hoạt
động đầu t quốc tế trong đó chính sách thuế đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tái sản xuất, đầu t mở rộng.
- Bớc đầu của cải cách thuế giai đoạn II đã mang lại một số kết quả khả
quan nhất định, khẳng định bớc đi đúng đắn của cải cách thuế qua thực tế thi
hành các luật thuế mới ban hành không gây lạm phát, đảm bảo nguồn thu ngân
sách...Trong kế hoạch cải cách thuế, vẫn còn một số luật thuế mới cần đợc ban
hành thay thế dần các luật thuế cũ không còn phù hợp với điều kiện mới.
9
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
- Bản thân hệ thống chính sách thuế hiện nay còn có nhiều khiếm
khuyết, cần phải hoàn thiện nhằm mục đích nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp
luật thuế trong dân c, ngăn ngừa trốn lậu thuế, xoá bỏ các quy định bất bình
đẳng trong nghĩa vụ thuế của các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên dới đây là hai lý do chính:
2.1 Thực hiện đờng lối đổi mới kinh tế trong quá trình hội nhập:
Cải cách thuế đang là một xu thế, đang là mối quan tâm chung của mỗi
quốc gia trên thế giới. Với mỗi nớc, mỗi khi chuyển sang một thời kỳ phát triển

mới thì đồng thời cũng phải cải cách hệ thống chính sách thuế cho phù hợp
nhằm phát huy tác dụng của chính sách đó. Thực tế cho thấy quá trình liên kết
kinh tế quốc tế trong những năm qua đã gắn liền với những thay đổi căn bản
trong chính sách thuế của mỗi nớc. Quá trình hội nhập kinh tế với thế giới và
khu vực đòi hỏi từng quốc gia phải có những bớc điều chỉnh cơ chế chính sách
của mình trong đó cải cách thuế đợc xem là một nội dung có tầm quan trọng
hàng đầu nhằm phát huy tối đa vai trò của công cụ thuế và phù hợp với thông lệ
quốc tế.
ở nớc ta, song song với việc thực hiện đờng lối đổi mới kinh tế, Đảng và
Nhà nớc ta đã giành nhiều sự quan tâm cho việc đổi mới hệ thống thuế mà cụ
thể là qua hai lần cải cách thuế bớc I (1990-1995) đã đạt đợc nhiều kết quả khả
quan:
- Về thu ngân sách Nhà nớc: số thu về thuế và phí tăng nhanh qua các
năm đã đáp ứng đợc nhu cầu chi thờng xuyên và tăng dần phần dành cho đầu t
phát triển. Tỷ lệ động viên về thuế và phí/ GDP cũng đợc nâng dần từ 12,83%
(năm 1991) lên 21,59% (năm 1995) đã góp phần giảm tỷ lệ thiếu hụt ngân sách
từ 2.3% GDP (năm 1991) xuống còn 0,4% (năm 1995) chấm dứt việc phát hành
để bù đắp thiếu hụt ngân sách thay bằng việc vay trong nớc và nớc ngoài.
- Về kinh tế: Bớc đầu đã phát huy đợc tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
10
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
- Về xã hội: Hệ thống chính sách thuế áp dụng cho các thành phần kinh
tế, các tầng lớp dân c về cơ bản đã đảm bảo sự bình đẳng và công bằng về nghĩa
vụ nộp thuế.
- Về pháp lý: Các loại thuế chủ yếu đợc ban hành dới hình thức luật,
pháp lệnh nên có tính pháp luật cao hơn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,
hệ thống thuế còn có nhiều điểm cha phù hợp với tình hình thực tế trong nớc
cũng nh bối cảnh quốc tế. Vì vậy, chúng ta cần phải có những cải cách mới làm
cho hệ thống thuế vừa đáp ứng đợc yêu cầu quản lý kinh tế trong nớc, vừa phù

hợp với luật lệ và thông lệ quốc tế. Tiếp tục cải cách thuế bớc II (1996 đến nay)
là một yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn để đảm bảo sự phù hợp giữa chính sách
thuế với yêu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn mới. Giai đoạn này, nớc ta
đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, mở rộng quan hệ kinh tế
với các nớc trong khu vực cũng nh trên thế giới. Vì vậy, việc điều chỉnh hệ
thống thuế cho phù hợp với yêu cầu của đổi mới kinh tế là một yếu tố tất yếu,
không thể thiếu.
2.2. Đáp ứng yêu cầu của các tổ chức quốc tế
Nớc ta đã có những quan hệ kinh tế, thơng mại song phơng, đa phơng đa
dạng, là thành viên của ASEAN, APEC- những tổ chức kinh tế đầy năng động
trong khu vực và đang tiếp tục hoàn thành các thủ tục để gia nhập Tổ chức th-
ơng mại thế giới- WTO, trong đó các nghĩa vụ về thuế mà chúng ta cam kết
tuân thủ còn có những khác biệt với chính sách hiện hành. Do đó, hệ thống
chính sách thuế cần có sự thay đổi, hoàn thiện cho phù hợp với các cam kết
quốc tế.
Dới đây là những cam kết cụ thể đối với từng tổ chức quốc tế.
2.2.1. Cam kết với ASEAN:
- Ngày 28/7/1995, Việt nam trở thành thành viên của ASEAN. Theo cam
kết giữa Việt nam và ASEAN, Việt nam sẽ thực hiện việc giảm thuế nhập khẩu
theo hiệp định CEPT từ 1/1/1996-1/1/2006. Danh mục các mặt hàng thực hiện
giảm thuế theo CEPT gồm: danh mục giảm thuế ngay (IL), danh mục loại trừ
11
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
tạm thời (TEL), danh mục hàng nông sản cha chế biến nhạy cảm (SL), danh
mục loại trừ hoàn toàn (GEL).
Cam kết giảm thuế nhập khẩu với ASEAN theo Hiệp định CEPT là một
thoả thuận quốc tế về kinh tế có nội dung hoàn toàn mới với Việt nam, trớc đây
ta cha hề có một thoả thuận quốc tế nào nh vậy. Chúng ta phải hoàn thành ch-
ơng trình Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) (với thuế suất thuế nhập
khẩu trong khoảng 0%-5% áp dụng cho khoảng 5800/6500 mặt hàng của biểu

thuế) vào năm 2006, trong đó: tối đa hoá dòng thuế có thuế suất thuế nhập khẩu
từ 0%-5% vào năm 2003; mở rộng số dòng thuế có thuế suất thuế nhập khẩu
0% vào năm 2006 (với khoảng 60% các mặt hàng).
- áp dụng Danh mục biểu thuế quan chung của ASEAN (dựa trên cơ sở Danh
mục phân loại và mã hoá hàng hoá- HS 96 do Tổ chức hải quan Thế giới ban
hành) và thực hiện biện pháp xác định giá trị hải quan theo
GATT/WTO vào năm 2002.
- Thực hiện không phân biệt đối xử về thuế đối với hàng hoá, cá nhân và pháp
nhân.
2.2.2 Cam kết với APEC:
Ngày 14/11/1998, Việt nam đã trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu á - Thái bình dơng (APEC) và đa ra Chơng trình hành động quốc
gia (IAP) để thực hiện tự do hoá thơng mại vào năm 2010 (đối với các nớc phát
triển) và năm 2020 (đối với những nớc đang phát triển) với mức thuế nhập
khẩu giữa các quốc gia là 0%.
Mục tiêu hoạt động của APEC là nhằm lập ra một diễn đàn kinh tế mở
để xúc tiến các biện pháp thúc đẩy thơng mại và đầu t giữa các thành viên, trên
cơ sở hoàn toàn tự nguyện, thực sự mở cửa đối với tất cả các nớc khác. Một số
nguyên tắc hoạt động của APEC khác với các tổ chức khác là nguyên tắc
đồng đều (comparability), nguyên tắc giữ nguyên hiện trạng (standstill),
nguyên tắc không phân biệt đối xử (non-discrimination). Theo những nguyên
tắc này, các thành viên của APEC, tuy ở những trình độ phát triển kinh tế khác
12
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
nhau, đều phải cùng cải cách và thực hiện các biện pháp để tự do hoá thơng mại
và đầu t. Các nớc không đợc tăng thêm mức bảo hộ so với hiện trạng (và phải
giảm dần theo thời gian) nhằm giúp tạo cơ sở dự báo cho việc thực hiện tự do
hoá thơng mại. Việc tự do hoá thơng mại và đầu t sẽ đợc áp dụng giữa các
thành viên APEC với nhau cũng nh giữa các thành viên APEC với các nền kinh
tế không thuộc APEC. Điều này khác hẳn so với hợp tác trong EU, AFTA,

NAFTA, nơi mà việc thực hiện không phân biệt đối xử chỉ dành cho những nớc
thành viên.
Với mục tiêu đó, APEC đòi hỏi cắt giảm mạnh thuế quan và công khai
các chế độ thuế quan của các nớc thành viên; cùng hành động để cắt giảm
mạnh và tiến tới xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu, xoá bỏ những hạn chế phi thuế quan
không chính đáng đối với xuất nhập khẩu; đơn giản hoá và thống nhất các thủ
tục hải quan để thúc đẩy tự do hoá thơng mại trong nội bộ khối; từng nền kinh
tế phải làm rõ và công khai hoá chính sách thuế quan, các biện pháp phi thuế
quan và liên tục thực hiện cắt giảm thuế quan và phi thuế quan.
Chơng trình cắt giảm thuế trong APEC dựa trên thoả thuận cam kết song
phơng hoặc tự nguyện của các quốc gia thành viên, đảm bảo nguyên tắc có đi
có lại.
Việt nam tham gia các chơng trình Tự do hoá tự nguyện đối với một số
lĩnh vực nhằm đạt tới mục tiêu tự do hoá thơng mại với các lộ trình sau:
Phạm vi áp dụng Lộ trình thực hiện tự do hoá
1 Các sản phẩm lâm nghiệp (giấy các
loại, sản phẩm gỗ, đồ dùng bằng gỗ)
Loại bỏ thuế quan từ năm
2000-2004.
2 Cá và các sản phẩm từ cá Loại bỏ thuế quan trớc năm
2006 trong đó tự do hoá sớm tr-
ớc năm 2004 đối với các sản
phẩm có thuế suất thuế nhập
khẩu thấp hơn hoặc bằng 20%.
3 Đồ chơi các loại Loại bỏ thuế quan trong giai
đoạn 2000-2005.
4 Thiết bị y tế Loại bỏ thuế quan vào năm
13
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
2001.

5 Hoá chất Loại bỏ thuế quan vào năm
2004 trong đó tự do hoá sớm
vào năm 2001 đối với các sản
phẩm có thuế suất thuế nhập
khẩu thấp hơn hoặc bằng 10%.
6 Vàng, bạc, đá quý Loại bỏ thuế quan vào năm
2005 và có thể áp dụng thuế
suất trên 0% và dới 5% đối với
một số mặt hàng nhất định.
7 Thiết bị môi trờng( mới thoả thuận
đợc 153 mặt hàng: lò phản ứng hạt
nhân, thiết bị lọc...)
Loại bỏ thuế quan trớc năm
2004, các mặt hàng khác cha
xác định đợc thời gian.
8 Sản phẩm liên quan tới lĩnh vực
năng lợng (xăng, dầu, than, khí đốt,
thiết bị khai thác dầu khí)
Loại bỏ thuế quan vào
2003-2004.
9* Cao su tự nhiên và tổng hợp Loại bỏ thuế quan vào
2002-2005, trong đó có thể áp
dụng thuế suất 0%-5%.
10* Phân bón Loại bỏ thuế quan vào
2002-2004.
11* Thực phẩm
áp dụng thuế suất trong khoảng
0%-5% vào năm 2004.
12* Dầu thực vật và hạt có dầu Loại bỏ thuế quan vào cuối năm
2002.

13* Máy bay dân dụng Loại bỏ thuế quan đối với máy
bay hoàn chỉnh vào năm 2000,
đối với phụ tùng và phụ kiện vào
năm 2002.
(Nguồn: Chơng trình hành động tập thể APEC (Cooperative Action Plan Of
APEC, 1999)
* Nhóm ngành hàng cha đợc các nớc thành viên thống nhất ý kiến toàn bộ
14
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
- Các lĩnh vực khác sẽ phải đợc thực hiện tự do hoá vào năm 2020.
- áp dụng Danh mục biểu thuế quan theo HS 96 và thực hiện biện pháp
quản lý giá tính thuế nhập khẩu theo GATT/WTO đồng thời với lịch trình giảm
thuế sớm nhất (2002).
Không phân biệt đối xử về thuế nội địa đối với hàng nhập khẩu và hàng
sản xuất trong nớc.
2.2.3. Cam kết với WTO:
Các nớc xin gia nhập WTO phải thực hiện các cam kết ràng buộc về thuế
suất thuế nhập khẩu cho các mặt hàng( gọi là các dòng thuế) cụ thể để đảm bảo
trong tơng lai các mức thuế nhập khẩu cho các mặt hàng đó không tăng lên vợt
quá các mức thuế đã cam kết ràng buộc này. Sự quy định này nhằm định hớng
cho các doanh nghiệp sản xuất xác định chiến lợc xuất khẩu vào từng nớc cho
phù hợp.
Trờng hợp các nớc thành viên WTO sau này muốn nâng thuế lên cao hơn
mức ràng buộc sẽ phải đàm phán lại và có thể phải bồi thờng cho những nớc
xuất khẩu chủ yếu mặt hàng đó hoặc phải đa ra những nhợng bộ cắt giảm thuế
quan tơng xứng ở những mặt hàng khác. Việc đàm phán này cũng áp dụng đối
với trờng hợp có sản phẩm mới.
Khi xác định các cam kết ràng buộc thuế quan không có những quy định
cụ thể về cách thức, mức độ ràng buộc áp dụng cho mọi nớc mà tất cả các nội
dung cam kết đều là đối tợng để đàm phán, thơng lợng giữa nớc xin gia nhập và

các nớc thành viên WTO về mở cửa thị trờng. Từ đó tạo thành Danh mục các
cam kết nhợng bộ của nớc thành viên mới gia nhập.
Trên thực tế, nội dung ràng buộc về thuế theo WTO của các nớc xin gia
nhập không nhất thiết phải cam kết ràng buộc 100% các mặt hàng nhập khẩu,
trừ các mặt hàng nông sản.
- Các mặt hàng không nhất thiết phải thực hiện ràng buộc thuế quan
gồm hai loại:
15
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
+ Các mặt hàng liên quan đến việc bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ quyền
sức khoẻ con ngời, bảo vệ động thực vật, vàng hoặc bạc, bảo vệ tài sản quốc
gia, về nghệ thuật, lịch sử hoặc khảo cổ, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, an ninh
quốc phòng.
+ Có thể chủ động không thực hiện ràng buộc thuế quan cho những mặt
hàng cụ thể tuỳ thuộc theo chủ trơng, định hớng chính sách phát triển của từng
nớc. Điều quy định này gợi mở cho chúng ta xác định đúng hớng những mặt
hàng có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế xã hội để không thực hiện đàm
phán cắt giảm thuế nhập khẩu.
- Đối với những mặt hàng có cam kết ràng buộc thuế quan gồm ba loại:
+ Cam kết thực hiện mức thấp hơn mức thuế suất đang áp dụng. Để thể
hiện rõ ý chí giảm thuế, phải đa ra lịch trình cắt giảm thuế cụ thể tơng ứng với
mức thời gian đạt đợc cam kết.
+ Thực hiện ràng buộc ở mức bằng thuế suất đang áp dụng.
+ Thực hiện ràng buộc ở mức cao hơn các mức thuế suất đang áp
dụng( trờng hợp này đợc gọi là ràng buộc trần). Đối với các loại mặt hàng này,
về tơng lai có thể nâng mức thuế suất cao hơn mức đang áp dụng hiện nay nh-
ng phải trong phạm vi ràng buộc. Nhìn chung, các nớc đang phát triển cam kết
ràng buộc thuế quan theo hớng này. Các cam kết ràng buộc trần của các nớc
đang phát triển chủ yếu nhằm tạo ra sự an toàn về mặt pháp lý khi xuất khẩu
vào thị trờng của họ hơn là tăng cờng mở cửa thị trờng.

Khi đàm phán gia nhập WTO, các nớc thành viên cũ, đặc biệt là các nớc
phát triển thờng đòi hỏi các cam kết theo khả năng thấp hơn hoặc bằng mức
đang áp dụng. Muốn đạt đợc thoả thuận theo khả năng thứ ba, các nớc phải tiến
hành đàm phán và phải đa ra đợc những dẫn chứng cụ thể để minh chứng sự
cần thiết phải cam kết ở mức độ đó. Ví dụ: các mặt hàng hiện đang sử dụng
mức thuế suất thấp vì nhu cầu trong nớc thấp hoặc sản phẩm đó cần thiết bảo
hộ sản xuất trong tơng lai.
16
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
Vì Việt nam đã nộp đơn (1995) và đã qua một số vòng đàm phán đa ph-
ơng gia nhập WTO nên từ nay đến trớc thời điểm kết nạp chính thức, chúng ta
phải thực hiện đúng nghĩa vụ của một nớc thành viên, bao gồm:
- Thực hiện đúng các nguyên tắc của WTO về không phân biệt đối xử
(gồm nguyên tắc Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia), nguyên tắc Có đi có lại, chỉ
bảo hộ bằng thuế quan, áp dụng giá tính thuế nhập khẩu theo GATT/WTO, áp
dụng biểu thuế theo HS 96, kiểm soát trợ cấp (không áp dụng trợ cấp để khuyến
khích xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu), xoá bỏ các u đãi về đầu t liên
quan đến thơng mại (không áp dụng quy định về nội địa hoá sản phẩm hay u
đãi thuế dựa trên thành tích xuất khẩu);
- Cắt giảm thuế quan trên cơ sở đàm phán song phơng với các đối tác th-
ơng mại chính có thị phần tiêu thụ tại Việt nam (thờng là các đối tác lớn nh :
Mỹ, Nhật, EU, Canada, ASEAN, úc và Trung quốc).
Các yêu cầu chính mà ta phải chuẩn bị là:
- Bảng Cam kết nhợng bộ về thơng mại hàng hoá: trong đó cụ thể sẽ đề
cập đến các mức cam kết ràng buộc cụ thể về thuế nhập khẩu cho từng mặt
hàng với mã số theo đúng Danh mục Hài hoà HS, về các loại phí và phụ thu
khác áp dụng với hàng xuất nhập khẩu, phân biệt cho hàng nông sản và hàng
công nghiệp.
- Bảng Cam kết về các mức trợ cấp trong nớc và trợ cấp xuất khẩu: (có
tác động đến thơng mại, trong đó kể cả các chính sách tài chính u đãi đặc biệt

cho những ngành, doanh nghiệp cụ thể).
- Bảng Cam kết nhợng bộ về dịch vụ: trong đó miêu tả cụ thể đến các
biện pháp chính sách hạn chế đối với việc mở cửa thị trờng trong nớc hoặc
mang tính phân biệt đối xử đối với dịch vụ và ngời cung cấp dịch vụ nớc ngoài
hiện đang đợc áp dụng trong từng lĩnh vực dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ bảo
hiểm và dịch vụ kế toán- kiểm toán và đề cập cụ thể lịch trình về thời gian bỏ
dần các hạn chế này. Trong lĩnh vực này, các cam kết hiện đợc đa ra dới các
hình thức:
17
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
+ Cam kết về mở cửa thị trờng
Nớc thành viên sẽ dành cho các dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của
một nớc thành viên khác chế độ đãi ngộ không kém u đãi hơn những điều
khoản, hạn chế và điều kiện mà nớc đó đã thoả thuận và cam kết cụ thể trong
lịch trình của mình. Các hạn chế, điều khoản và điều kiện về mở cửa thị trờng
có thể đợc đa ra dới các dạng sau:
Hạn chế về số lợng các nhà cung cấp dịch vụ, có thể dới dạng hạn ngạch về
số lợng, các quy định độc quyền, các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền hay
các quy định xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế.
Hạn chế về tổng giá trị giao dịch hoặc tài sản, có thể dới dạng hạn ngạch về
số lợng hoặc các yêu cầu xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế.
Hạn chế về tổng số giao dịch hay sản lợng dịch vụ cung cấp thể hiện dới
dạng đơn vị số lợng cụ thể phân bổ theo hình thức hạn ngạch hay chuẩn theo
nhu cầu của nền kinh tế.
Hạn chế về tổng số thể nhân có thể tuyển dụng trong một ngành dịch vụ cụ
thể hay do một nhà cung cấp dịch vụ tuyển dụng.
Hạn chế hay quy định có liên quan đến loại hình pháp nhân hay dạng liên
doanh mà qua đó nhà cung cấp dịch vụ có thể tiến hành cung cấp dịch vụ.
Hạn chế về mức độ tham gia vốn nớc ngoài, có thể dới dạng tỷ lệ phần trăm
tối đa mà bên nớc ngoài có thể tham gia góp vốn cổ phần hay giới hạn tổng

giá trị của từng khoản đầu t riêng rẽ hay của tất cả các khoản đầu t cộng gộp
lại.
+ Cam kết về chế độ đãi ngộ quốc gia
Một nớc thành viên sẽ dành chế độ đối xử quốc gia đầy đủ trong một lĩnh
vực dịch vụ cụ thể và đối với một phơng thức cung cấp dịch vụ nhất định nếu
nh nó dành cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của các nớc thành viên
khác chế độ đối xử không kém u đãi hơn chế độ đối xử mà nó dành cho các
dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ tơng tự của nớc mình.
18
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
Việc dành chế độ đối xử không kém u đãi hơn không bắt buộc phải hiểu
là chế độ đối xử chính thức giống nhau mà có thể là chế độ đối xử phân biệt
chính thức. Các biện pháp phân biệt chính thức vẫn có thể đem lại sự bình đẳng
thực tế giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong nớc và nớc ngoài. Ngợc lại, chế độ
đối xử chính thức giống nhau trong một số trờng hợp lại gây ra tình trạng nhà
cung cấp dịch vụ nớc ngoài bị đối xử kém u đãi hơn. Do đó, khái niệm phân
biệt đối xử quốc gia đợc hiểu trên cả hai khía cạnh là phân biệt đối xử trên thực
tế (de facto) và phân biệt đối xử theo luật (de jure).
+ Các cam kết khác bổ sung
Bên cạnh các cam kết nêu trên, các nớc thành viên có thể đàm phán và
đa vào bản cam kết của mình các biện pháp có ảnh hởng đến thơng mại dịch vụ
mà không thuộc về các hạn chế gia nhập thị trờng hay đối xử quốc gia. Những
cam kết này thờng đợc diễn đạt dới dạng những việc quy định cần đợc thực
hiện chứ không mang hình thức là những hạn chế, chẳng hạn nh yêu cầu về
trình độ bằng cấp, tiêu chuẩn kỹ thuật hay các yêu cầu về thủ tục liên quan đến
việc xin cấp giấy phép ...
Quá trình đàm phán gia nhập WTO cũng sẽ đòi hỏi Việt nam phải thực
hiện hay cam kết thực hiện (ngay khi gia nhập hoặc trong một khoảng thời gian
chuyển tiếp nhất định) thay đổi một số biện pháp chính sách mà hiện đang
không phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Các cam kết điều chỉnh trong

chính sách sau quá trình đàm phán sẽ đợc đề cập cụ thể trong Nghị định th gia
nhập, thuộc lĩnh vực tài chính có một số vấn đề sau:
+ Đảm bảo các biện pháp chính sách tài chính đợc thực hiện không phân
biệt đối xử giữa hàng hoá sản xuất trong nớc và hàng nhập khẩu.
+ Thực thi Hiệp định về trị giá tính thuế hải quan đảm bảo theo GATT cụ
thể là việc xác định trị giá hải quan để tính thuế nhập khẩu phải dựa trên giá
giao dịch đích thực chứ không đợc phép áp dụng giá tính thuế tối thiểu. Giá trị
tính thuế hải quan của hàng hoá nhập khẩu phải là giá trị giao dịch, đó là giá
thực sự đợc trả cho hàng hoá khi bán hàng xuất khẩu cho nớc nhập khẩu. Yêu
cầu này đợc đặt ra để đảm bảo tính minh bạch và công bằng của chế độ thuế
19
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
quan. Xét về mặt chính sách, đây là một phơng tiện đảm bảo thuế quan không
có những thay đổi bất ngờ và không thể sử dụng yếu tố giá tính thuế này để góp
phần bảo hộ cho hàng trong nớc. Xét về mặt thực thi thì sẽ dễ thực hiện Hiệp
định WTO hơn là việc liên tục xem xét và mở rộng bảng giá tối thiểu.
+ Đảm bảo Danh mục biểu thuế nhập khẩu phải tuân thủ theo đúng Danh
mục hài hoà HS của Hội đồng hải quan Thế giới, không đợc thực hiện những
cách phân loại, áp mã hàng hoá nhập khẩu không phù hợp các nguyên tắc của
HS.
+ Sửa đổi các biện pháp đầu t có liên quan tới thơng mại nhất quán với
Hiệp định TRIMS của GATT. Điều này sẽ đòi hỏi phải thực hiện quy chế đối
xử quốc gia (không phân biệt đối xử) đối với hàng hoá và loại bỏ dần các yếu tố
về điều tiết đầu t nớc ngoài gắn với kết quả xuất khẩu, các quy định u đãi về
thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá và khuyến khích sản xuất thay thế hàng
nhập khẩu...)
+ Các loại thuế nhập khẩu bổ sung áp dụng trong trờng hợp đặc biệt phải
đợc áp dụng theo đúng Hiệp định về quyền tự vệ của GATT. Những quy định
trong lĩnh vực này của WTO cho phép các nớc thành viên đợc áp dụng hành
động tự vệ trong một số các trờng hợp đặc biệt nh: các trờng hợp khẩn cấp để

bảo hộ cho nền công nghiệp trong nớc nếu việc tăng không lờng trớc đợc của
hàng nhập khẩu do việc hàng hoá dịch vụ hởng nhợng bộ theo Hiệp định là
nguyên nhân đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nớc;
trờng hợp có hoạt động bán phá giá, trờng hợp nớc xuất khẩu áp dụng các hoạt
động trợ cấp không đợc phép, trờng hợp cán cân thanh toán bị đe doạ. Các
biện pháp áp dụng có thể là: nâng cao mức thuế quan hoặc đa ra những quy
định về hạn chế định lợng, áp dụng loại thuế chống bán phá giá, thuế đối
kháng, thực hiện phụ thu nhập khẩu...
Mặc dù cho phép áp dụng các biện pháp bảo hộ phòng ngừa bất trắc này,
song WTO vẫn quy định rất chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp này (trong
Hiệp định về quyền Tự vệ) để tránh bị lạm dụng thành những rào cản thơng
mại.
20
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
2.2.4 Cam kết về thuế trong Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ:
Đàm phán với Mỹ đợc coi là đàm phán song phơng sớm trong quá trình
gia nhập WTO của nớc ta. Tuy nhiên, Mỹ vẫn giữ quyền tiếp tục đàm phán
song phơng trong thời gian tới. Mỹ vận dụng rất sát sao các nguyên tắc của
WTO trong tất cả các lĩnh vực của Hiệp định, bao gồm: giảm thuế nhập khẩu
đối với một số nhóm mặt hàng (điều này đồng nghĩa với giảm thuế suất u đãi
trong biểu thuế hiện hành và áp dụng chung cho các nớc mà Việt nam đã ký
Hiệp định thơng mại song phơng vì nguyên tắc Tối huệ quốc), xoá bỏ các biện
pháp phân biệt đối xử giữa hàng hoá trong nớc và nhập khẩu trong luật thuế nội
địa, xoá bỏ quy định về tỷ lệ nội địa hoá...). Thời hạn cho việc hoàn thành các
cam kết trên sẽ kéo dài trong khoảng 3-5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực
thi hành.
Năm 2001, Việt nam và Mỹ đã chính thức ký kết Hiệp định thơng mại
Việt- Mỹ. Theo nội dung của Hiệp định đã đợc ký kết, ngay từ khi Hiệp định có
hiệu lực, chúng ta phải thực hiện chơng trình cắt giảm 246 mặt hàng trong biểu
thuế hiện hành.Trong đó, chủ yếu là các mặt hàng nông nghiệp (177 mặt hàng)

và một số mặt hàng công nghiệp (49 mặt hàng). Việc giảm thuế này sẽ áp dụng
cho Mỹ và cũng nh cho tất cả các nớc đã ký kết điều khoản MFN vơí Việt nam.
Ngoài ra, Việt nam đã cam kết giữ nguyên mức thuế nhập khẩu cho 18 mặt
hàng( chủ yếu là các mặt hàng nông nghiệp) và thực hiện bãi bỏ phân biệt đối
xử trong thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe hơi dới 12 chỗ ngồi, nguyên liệu
thuốc lá và cigar. Về lâu dài, trên cơ sở nền tảng cam kết về thuế nhập khẩu với
WTO và ràng buộc của Hiệp định, chúng ta sẽ phải đàm phán để có Hiệp định
cụ thể cam kết danh mục thuế nhập khẩu cho tất cả các mặt hàng còn lại.
2.2.6 Cam kết với các nớc khác về Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
Thực hiện đờng lối đổi mới toàn diện của Đảng trong đó có chính sách
mở cửa thu hút đầu t nớc ngoài vào Việt nam để góp phần phát triển kinh tế,
nâng cao năng lực sản xuất, khả năng xuất khẩu và cải thiện cơ sở hạ tầng, Luật
đầu t nớc ngoài tại Việt nam đã đợc ban hành năm 1987. Hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các nhà đầu t nớc ngoài tại Việt nam đã làm phát sinh vấn đề có
21
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
sự đánh thuế trùng lặp đối với những tổ chức, cá nhân nớc ngoài có hoạt động
sản xuất, kinh doanh tại Việt nam. Họ trở thành đối tợng nộp thuế đồng thời
của cả Việt nam và của nớc họ c trú hoặc có quốc tịch, theo quy định của luật
thuế Việt nam và luật thuế của những nớc đó. Điều này đã tạo những cản trở
nhất định đối với việc thu hút đầu t nớc ngoài vào Việt nam. Vì vậy, từ năm
1991, Việt nam đã tiến hành đàm phán Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với
các nớc.
Hiệp định đầu tiên với Australia đã đợc ký kết năm 1992, đến năm 1995
ta đã ký đợc 19 Hiệp định, chủ yếu là với những nớc đang có đầu t lớn ở Việt
nam (Nhật bản, Singapore, Hàn quốc, Thái lan, Malaysia, Anh, Pháp, Thuỵ
điển....).
Nh vậy, song song với việc xây dựng một hệ thống pháp quy về thuế đáp
ứng những yêu cầu về thu ngân sách phù hợp với tình hình phát triển mới của
kinh tế đất nớc, các Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần đợc ký kết giữa Việt

nam và các nớc đã trở thành một bộ phận của pháp luật về thuế của Việt nam,
góp phần vào việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế và đầu t nớc ngoài tại Việt
nam dới giác độ thuế.
2.2.7 Cam kết thực hiện Hiệp định với Liên minh Châu Âu
Đến nay, chúng ta đã điều chỉnh giảm thuế suất của 248 mặt hàng trong
khuôn khổ Hiệp định. Về lâu dài, xuất phát từ yêu cầu đàm phán gia nhập
WTO, chúng ta phải tiếp tục đàm phán về thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng
còn lại trong biểu thuế để đảm bảo nguyên tắc có đầy đủ các cam kết với các
thành viên trong WTO.
Tóm lại, nhìn chung các thể chế quốc tế mà Việt nam đã và sẽ cam kết
tham gia đều cùng theo đuổi mục tiêu cơ bản là thúc đẩy tăng trởng kinh tế
thông qua tự do hoá, tạo môi trờng thông thoáng và thống nhất các chuẩn mực
cho quan hệ thơng mại quốc tế ở cấp độ song phơng cũng nh đa phơng. Những
quy định ràng buộc liên quan đến chính sách thuế nhập khẩu của các tổ chức
quốc tế, cũng nh các nớc có thoả thuận thơng mại song phơng với Việt nam đều
giống nhau về nội dung, chỉ khác nhau về mức độ và thời hạn, lịch trình thực
22
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
hiện các cam kết. Đó là cơ sở để mỗi nớc xây dựng định hớng và lộ trình cắt
giảm thuế quan trong tiến trình đàm phán.WTO không quy định thời hạn cuối
cùng cho tiến trình tự do hoá mà chỉ quy định qua các vòng đàm phán cho từng
giai đoạn cụ thể. Nội dung mức độ cam kết mở cửa thị trờng là rất khác nhau:
có cam kết không tăng thuế nhập khẩu quá một mức nhất định, có cam kết
giảm thuế đến một mức nhất định với những mức độ cụ thể khác nhau cho từng
mặt hàng tuỳ thuộc kết quả đàm phán, hoặc cũng có thể giữ nguyên thuế mà
điều chỉnh các biện pháp phi thuế quan đang áp dụng. AFTA quy định rõ ràng
thời hạn hoàn thành chơng trình cắt giảm xuống còn 0-5% và trong vòng 5 năm
khi thực hiện chơng trình cắt giảm, các hàng rào phi thuế quan phải đợc xoá bỏ.
APEC đặt mục tiêu tơng tự cho các nớc phát triển vào năm 2010 và các nớc
đang phát triển vào năm 2020. Do những cam kết với APEC, Mỹ, EU ... đều đ-

ợc xây dựng dựa trên cam kết của WTO với thời hạn thực hiện có thể sớm hơn,
mức độ giảm thuế nhập khẩu có thể nhiều hơn. Do đó các cam kết về thuế nhập
khẩu của nớc ta đối với các tổ chức và quốc gia này phải đợc xây dựng thống
nhất, phù hợp với những quy định của WTO.
Tuy nhiên, dù thực hiện kế hoạch hoặc lộ trình đối với bất kỳ tổ chức nào
thì vấn đề quan trọng cốt lõi của mỗi lộ trình là phải sử dụng thuế quan nh một
công cụ kích thích và thúc đẩy cải biến cơ cấu kinh tế, tăng cờng sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp, góp phần thu hút đầu t nớc ngoài để tăng trởng kinh tế.
Để xây dựng lịch trình chính xác, việc nghiên cứu các luận cứ khoa học
tác động ảnh hởng của cắt giảm thuế quan trong quá trình hội nhập là vô cùng
cần thiết.
23
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
chơng ii.
chính sách thuế của Việt nam hiện nay
và những điểm cha phù hợp với yêu cầu của các tổ chức quốc tế
1. Thực trạng một số cải cách trong chính sách thuế của Việt nam kể
từ khi thực hiện đờng lối đổi mới kinh tế
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam có thể nói đợc bắt đầu
từ cuối những năm 80, khi Đảng và Nhà nớc bắt đầu thực hiện chính sách mở
cửa và đổi mới nền kinh tế. Trong quá trình này, chủ trơng hội nhập kinh tế
quốc tế đã từng bớc đợc khẳng định. Trong điều kiện quốc tế thay đổi đầu thập
niên 90, Đại hội Đảng lần thứ VII( 1991) đã thông qua định hớng: đa phơng
hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII
(1996) đã quyết định đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Nghị quyết 04 của Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá VIII (12/1997)
chỉ rõ nguyên tắc hội nhập là trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán,
lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, có kế hoạch cụ thể để
chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA.
Giáo s về kinh tế học quốc tế của Khoa nghiên cứu quốc tế cấp cao thuộc

Đại học tổng hợp Jones Hopkins, Washington D.C, James Riedel đã định nghĩa
hội nhập là tự do thơng mại, không chỉ đơn giản là bản thân thơng mại. Cách
tiếp cận vấn đề tự do hoá thơng mại này có thể đi từ các chính sách tự do thơng
24
Khóa luận tốt nghiệp Phạm Hơng Giang - A10 - K37
mại đơn phơng trong chính sách kinh tế của mỗi quốc gia đến các hình thức
thoả thuận tự do hoá thơng mại ở cấp độ khu vực và quốc tế.
Có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tế của ta hiện nay không chỉ là quá
trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế nh AFTA/ASEAN, APEC,
WTO,ASEM ... mà còn đợc thể hiện trong bản thân hệ thống chính sách thơng
mại, chính sách phát triển kinh tế đang đợc Đảng và Nhà nớc định hớng và đợc
thể hiện thông qua các số liệu ngày một thay đổi về mức độ mở cửa với nền
kinh tế thế giới, đo bằng tỉ lệ kim ngạch XNK/GDP, bằng số lợng và phạm vi
rào cản thơng mại áp dụng, bằng mức ảnh hởng của những thay đổi trên thị tr-
ờng thế giới vào thị trờng trong nớc,...
1.1. Một số cải cách, điều chỉnh trong chính sách thuế xuất nhập khẩu
- Việt nam đã tham gia thực hiện AFTA từ 1/1/1996, đến nay đã cam kết
thực hiện cắt giảm qua các năm 1997, 1998, và mới đây đã công bố danh mục
cắt giảm thuế xuất nhập khẩu của Việt nam áp dụng cho ASEAN năm 1999.
Danh mục áp dụng cho năm 1999( bao trùm cả những mặt hàng đã đa vào cắt
giảm từ những năm trớc) gồm 3579 mặt hàng với thuế xuất nhập khẩu bình
quân là 2%, thuế suất bình quân thuế nhập khẩu u đãi là 9%( tính theo số dòng
thuế). Trong tổng số 3579 mặt hàng thực hiện CEPT 1999 thì đã có 2502 mặt
hàng đã đạt thuế suất 0-5%. Danh mục cắt giảm thuế của Việt nam (gồm cả
danh mục loại trừ tạm thời) gồm 6079 mặt hàng, chiếm 97,15% trong tổng số
mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu của Việt nam.
Chính phủ đã thông qua lịch trình giảm thuế suất thuế nhập khẩu của
Việt nam với ASEAN cho giai đoạn 10 năm (1996-2006). Việc chính phủ
thông qua và công bố rộng rãi trong nớc lịch trình giảm thuế đến năm 2006 áp
dụng cho các nớc ASEAN là căn cứ quan trọng để các doanh nghiệp, các

ngành, địa phơng có kế hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu sản xuất cho phù hợp
với lịch trình giảm thuế.
Là nớc tham gia thực hiện CEPT/AFTA muộn hơn so với các nớc thành
viên ASEAN khác và có trình độ phát triển thấp hơn, lợi thế so sánh của các n-
25

×