Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Vai trò của viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự từ thực tiễn áp dụng tại viện kiểm sát nhân dân tỉnh đăklăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

Trần Thị Xuân Linh Byă

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI VIỆN KIỂM SAT NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã ngành: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người Hướng Dẫn Khoa Học: TS. Bành Quốc Tuấn

TP HỒ CHÍ MINH

- Năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa
học của Ts. Bành Quốc Tuấn. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài
liệu tham khảo.
Ngồi ra, trong luận văn cịn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả
khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung luận
văn của mình.
Đăklăk, năm 2018



tác giả

Trần Thị Xuân Linh Byă


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm về công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự .....................................................11
1.1.1. Khái niệm vụ án dân sự ............................................................................................................11
1.1.2. Khái niệm về công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự ............................................. 13
1.2. Vai trị của Viện kiểm sát trong cơng tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự ........................16
1.3. Quá trình xây dựng và phát triển pháp luật về vai trị của Viện kiểm sát trong cơng tác kiểm sát
việc giải quyết vụ án dân sự ...............................................................................................................18
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959 .............................................................................................18
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến 1988 ........................................................................................ 20
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến 2004 ........................................................................................ 20
1.3.4. Giai đoạn từ 2004 đến nay .................................................................................................. 22
CHƢƠNG 2: CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIÁI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân
sự ........................................................................................................................................................27
2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ án hoặc trả lại đơn khởi kiện của Toà án ...................................... 27
2.1.2. Tham gia phiên toà giải quyết quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm ......................................................................................................................... 29
2.1.3. Kiểm sát bản án, quyết định giải quyết các vụ án dân sự của Toà án ................................ 39
2.1.4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định giái quyết
vụ án dân sự của Toà án ............................................................................................................... 40

2.2. Thực trạng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án tại Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk .......................................................................................................................42

1


2.2.1. Đặc điểm tình hình Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong công tác kiểm sát giải
quyết các vụ án dân sự từ năm 2011 đến nay................................................................................ 43
2.2.2. Thực trạng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của Toà án tại Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk từ năm 2011 đến nay ............................................................................... 45
2.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong cơng tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự ...................55
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .......................................................................................................................59
CHƢƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự .................60
3.2. Định hướng của việc nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự ...........62
3.2.1. Làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, các qui định
của pháp luật về VKSND, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của
VKSND trong kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự...................................................................... 63
3.2.2. Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự phải bám sát, phục vụ nhiệm vụ chính trị của
Đảng .............................................................................................................................................. 64
3.2.3. Nắm vững và quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về chức năng, nhiệm vụ của ngành
Kiểm sát nhân dân trong kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự .................................................... 64
3.2.4. Nâng cao vai trò chủ động và trách nhiệm của Viện trưởng VKSND các cấp; Thủ trưởng
các đơn vị trực thuộc VKSND tối cao trong quản lý, chỉ đạo, điều hành ..................................... 65
3.2.5. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong kiểm sát giải
quyết các vụ án dân sự .................................................................................................................. 66
3.2.6. Đổi mới công tác kế hoạch - tài chính, cơng tác thống kê, tăng cường hợp tác quốc tế, đảm
bảo cơ sở vật chất cho hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành trong kiểm sát giải
quyết các vụ án dân sự .................................................................................................................. 67

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự .......68
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tư pháp phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp ............................................................................................................... 68
3.3.2. Nâng cao trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp của Kiểm sát viên ............................... 69
3.3.3. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan .................................................. 71

2


3.3.4. Về bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ............................. 71
3.4. Một số kiến nghị cụ thể về đảm bảo hiệu quả kiểm sát việc tuân theopháp luật của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự......................................................................................................72
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .......................................................................................................................79
KẾT LUẬN ............................................................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................82

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình

BLDS

Bộ luật Dân sự bắc kỳ

DLBK


Dân luật bắc kỳ

DLGYNK

Dân luật giản yếu Nam kỳ

DLTK

Dân luật trung kỳ

TAND

Tòa an nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

HĐTPTANDTC

Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

TTLT

Thông tƣ liên tịch


BTP

Bộ tƣ pháp

SL

Sắc lệnh

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

4


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống luôn phát sinh những tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân
hoặc giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức hoặc giữa cơ quan, tổ chức với nhau, chủ yếu
là tranh chấp về dân sự nhƣ: Tranh chấp hợp đồng dân sự, tranh chấp về hơn nhân gia
đình, tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp chia di sản thừa kế.... Khi một cá nhân,
cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự quy định quyền và lợi ích của mình bị xâm
phạm khi đó cá nhân, cơ quan, tổ chức đó có quyền khởi kiện đến Tịa án có thẩm
quyền để u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình – đây là nguyên
tắc cơ bản trong tố tụng dân sự.
Khi quyền khởi kiện phát sinh sẽ diễn ra quá trình tố tụng dân sự hay quá trình
giải quyết các vụ án dân sự, quá trình này phải tuân theo thủ tục bắt buộc mà Bộ luật
tố tụng dân sự quy định. Trong q trình giải quyết Tịa án có thể vì điều kiện khách
quan hoặc chủ quan làm sai luật định hoặc vận dụng không đúng quy định pháp luật,
làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích của các đƣơng sự trong vụ án hoặc giải quyết vụ

án không đúng quy định pháp luật.
Trong trƣờng hợp này đặt ra vấn đề ai sẽ là ngƣời đứng ra bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho các đƣơng sự khi mà sự hiểu biết của họ về pháp luật có hạn và ai sẽ
là ngƣời bảo vệ sự công bằng trong chế độ xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân.
Tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định “Viện kiểm sát nhân dân kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ
việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật”. Những quy định tƣơng đối đầy đủ và cụ thể của
Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi, bổ sung năm 2011 về nhiệm vụ và quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân cũng nhƣ trình tự, thủ tục giải quyết các vụ, việc dân sự nói
chung và việc giải quyết các vụ án dân sự nói riêng đã tạo điều kiện thuận lợi để Viện
kiểm sát thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực này. Theo
Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự quy định thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Viện kiểm sát đƣợc thực hiện trong mọi giai đoạn của tố tụng dân sự, từ khi
thụ lý đơn khởi kiện cho đến khi thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tịa án. Viện kiểm sát khơng những kiểm sát việc tuân theo pháp luật của ngƣời tiến
hành tố tụng mà còn kiểm tra, giám sát những hành vi tố tụng của những ngƣời tham
5


gia tố tụng khác. Trên thực tế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk khi thực hiện gặp khơng ít các khó khăn, vƣớng mắc. Do đó, tơi
đã chọn đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự từ thực tiễn
áp dụng tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk” để làm đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sỹ luật học cho mình, qua đề tài này giúp nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề đang
cịn tồn tại, khó giải quyết khi kiểm sát giải quyết án dân sự và đƣa ra một số kinh
nghiệm, giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng trong công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ án dân sự tại địa phƣơng.
2. Tình hình nghiên cứu
Vai trị của VKS trong giải quyết vụ án dân sự là vấn đề đƣợc toàn ngành Kiểm

sát cũng nhƣ cả xã hội quan tâm. Do yêu cầu và đòi hỏi khách quan đó, đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu dƣới nhiều hình thức khác nhau nhƣ luận văn, tạp chí chun
ngành, sách chuyên khảo, chuyển đề tổng kết rút kinh nghiệm của ngành Tòa án,
ngành Kiểm sát… liên quan đến nội dung này. Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài có thể phân loại tài liệu thành hai nhóm:
- Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tƣ pháp nhƣ: "Đổi mới vị trí,
vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của tác
giả Nguyễn Minh Hằng, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Tƣ pháp, năm 2008; "Hoàn
thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự", Đề tài khoa học
cấp Bộ của tiến sĩ Trần Văn Trung, năm 2003; Luận án tiến sĩ "Quá trình hình thành,
phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam", của tác giả Trần Văn Nam, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận
và thực tiễn đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam" của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học
"Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" của
tác giả Võ Thị Phƣợng, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án theo
quy định của pháp luật hiện hành” của tác giả Khuất Thu Hƣơng, năm 2014; "Vị trí,
vai trị của Viện kiểm sát - Viện cơng tố trong tố tụng dân sự ở một số nước trên thế
giới” của tác giả Phạm Hoàng Diệu Linh đăng trên tạp chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Số 24/2010, tr. 49 – 51; “Cơ sở lý luận về vị trí, vai trị của Viện
6


kiểm sát và kiểm sát viên ở các địa phương” của tác giả Ngơ Thái Hịa đăng trên tạp
chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 20/2014, tr. 24 - 28...
- Nhóm thứ hai, nhóm các chuyên đề báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm nhƣ:
"Kết luận của TS. Khuất Văn Nga - Nguyên Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao tại Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự về thực hiện các

quy định về quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự",
Tạp chí Kiểm sát, số 18, tháng 9/2006; "Những kiến nghị từ hoạt động thực tiễn qua 1
năm thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004" của Tịa soạn Tạp
chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 18, tháng 9/2006; "Việc áp dụng một số quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự" của Tồ soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 13,
tháng 3/2006; "Vị trí, vai trị Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách
tư pháp" của Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008;
"Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 kể từ ngày Bộ
luật Tố tụng dân sự có hiệu lực pháp luật đến ngày 31/5/2005" của VKSNDTC...
Qua nghiên cứu những cơng trình, bài viết nêu trên cho thấy: có nhiều quan
điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển đƣợc khi nghiên cứu và hồn thành đề
tài. Tuy vậy, các cơng trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực
chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nƣớc; các vấn đề về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự dƣới góc độ của Luật nhà nƣớc. Hoặc có
cơng trình, bài viết tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhƣng do thời điểm nghiên
cứu đã lâu nên không cập nhật đƣợc những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực
tiễn hiện nay, nhất là trong điều kiện BLTTDS 2015 với nhiều quy định mới, nên vấn
đề này cần tiếp tục đƣợc nghiên cứu.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực
hiện vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án dân sự tại Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
4. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn vai
trị của VKS trong cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự; đánh giá tính có
căn cứ và khoa học về thực trạng pháp luật về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ

7



án dân sự, từ đó đề xuất giải pháp hồn thiện và bảo đảm thực hiện có hiệu quả vai trị
của VKS trong cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự.
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trị của VKS trong cơng tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án dân sự;
- Phân tích quy định pháp luật về vai trị của VKS trong cơng tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ án dân sự qua các thời kỳ, đặc biệt là các quy định pháp luật tố tụng
dân sự hiện hành từ đó xác định những ƣu điểm, hạn chế và nguyên nhân;
- Đề xuất những phƣơng hƣớng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm, nâng cao vai
trị của VKS trong cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự trong thời gian
tới, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự của Tịa án có căn cứ, đúng
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, tổ chức, xã hội và công
dân.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Vai trò của VKS trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự; việc
tổ chức thực hiện các quy định về vai trị của VKS trong cơng tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án dân sự trên thực tế và những quy định của pháp luật có liên quan đến
các vấn đề nêu trên. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn thực hiện công tác kiểm sát giải
quyết vụ án dân sự tại tỉnh Đăk Lăk, thời điểm lấy số liệu từ năm 2011 đến nay. Trong
phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về vai trị của VKS trong
cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án thuộc tỉnh Đăk Lăk (ở
Việt Nam, hiện nay, có hai quan điểm khác nhau về tố tụng dân sự. Quan điểm thứ
nhất cho rằng, tố tụng dân sự, bao gồm toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân
sự và thi hành án dân sự. Quan điểm khác cho rằng, tố tụng dân sự chỉ bao gồm trình
tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án)
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin: Tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối liên hệ biện chứng. Pháp luật là
một bộ phận của kiến trúc thƣợng tầng xã hội, đƣợc hình thành từ một cơ sở hạ tầng

phù hợp. Pháp luật đƣợc coi là tấm gƣơng phản chiếu xã hội, cịn về phần mình, xã hội
đƣợc coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Về lý thuyết và thực tiễn cho thấy, các qui
8


định của pháp luật phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
thì mới có tính khả thi trong q trình thực hiện và áp dụng pháp luật; từ đó tạo cơ sở
cho xã hội ổn định và phát triển.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tơi đã sử dụng một số
phƣơng pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp lịch sử đƣợc sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu vai trị của
VKS trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo quy định của pháp
luật qua các thời kỳ ở Việt Nam;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp đƣợc sử dụng khi phân tích các vấn đề
liên quan đến vai trị của VKS trong cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự
theo quy định của pháp luật và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề đƣợc
nghiên cứu trong luận văn;
+ Phương pháp so sánh đƣợc thực hiện nhằm tìm hiểu qui định của pháp luật
hiện hành với hệ thống pháp luật trƣớc đây ở Việt Nam cũng nhƣ pháp luật của một số
nƣớc khác qui định về vai trị của VKS trong cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
án dân sự. Qua đó, phân tích nét tƣơng đồng và đặc thù của pháp luật Việt Nam qui
định về vai trị của VKS trong cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo
quy định của pháp luật, phù hợp với điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán
của Việt Nam;
+ Phương pháp thống kê đƣợc thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn
hoạt áp dụng pháp luật, với các số liệu cụ thể giải quyết các vấn đề trong công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo quy định của pháp luật. Tìm ra mối liên
hệ giữa các qui định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chƣa? Các lý
do? Từ đó mà xem xét nội dung qui định của pháp luật về vai trị của VKS trong cơng
tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, với thực tiễn của đời sống xã hội nhằm

nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đâu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Lý luận chung về vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát
việc giải quyết vụ án dân sự

9


Chương 2: Công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự tại Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trị của Viện kiểm sát trong
cơng tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự

10


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm về công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm vụ án dân sự
Các quan hệ xã hội rất đa dạng và phức tạp. Khi tham gia vào bất kỳ quan hệ xã
hội, các chủ thể đều xuất phát từ những động cơ nhất định để hƣớng tới mục đích cụ
thể, đó là khách thể của quan hệ xã hội. Theo nghĩa này, khách thể của quan hệ dân sự
(nhóm quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự) là những giá trị
lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà các chủ thể hƣớng tới khi tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự nhất định. Tuy nhiên, chỉ những quyền và lợi ích của các chủ thể
đƣợc Nhà nƣớc cơng nhận và bảo hộ thì mới đƣợc coi là quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng quyền và nghĩa

vụ của mình theo quy định của luật pháp tất yếu sẽ dẫn tới ảnh hƣởng đến việc hƣởng
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, từ đó phát sinh tranh chấp.
Để duy trì trật tự, bảo đảm công bằng xã hội và thúc đẩy giao lƣu dân sự, Nhà
nƣớc thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong
quan hệ dân sự. Theo đó, các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị chủ thể khác xâm
phạm, cản trở, hạn chế hoặc có nguy cơ bị xâm phạm, cản trở, hạn chế, có quyền sử
dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp đó, nhƣ
u cầu ngƣời có hành vi trái pháp luật phải chấm dứt ngay hành vi đó, u cầu Tồ án
hoặc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền khác thực hiện các hoạt động cần thiết nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Tồ án xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật, để bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dân. Thơng qua hoạt động của mình, Tồ án giáo dục công
dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy
tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm
pháp luật khác. Do đó, khi chủ thể yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, trong trƣờng hợp họ cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình (hoặc của
11


ngƣời khác) bị chủ thể khác xâm phạm, cản trở, hạn chế hoặc có nguy cơ bị xâm
phạm, cản trở, hạn chế, thì Tồ án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để xem
xét, thụ lý giải quyết yêu cầu đó. Tuỳ theo nhóm quan hệ pháp luật bị chủ thể thực
hiện hành vi xâm phạm mà vụ án do Toà án thụ lý giải quyết là vụ án hình sự, vụ án
dân sự, vụ án hơn nhân và gia đình, vụ án lao động, vụ án hành chính hay vụ án kinh
tế.
Thuật ngữ “vụ án dân sự” là một thuật ngữ pháp lý chuyên ngành. Trong các
cuốn Từ điển phổ thông đang lƣu hành, nhƣ Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ

học, Từ điển Bách khoa toàn thƣ Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt, đều không đề cập
thuật ngữ “vụ án dân sự”; ngay cả cuốn Từ điển chuyên ngành luật học duy nhất của
nƣớc ta cho đến thời điểm này là cuốn Từ điển Luật học, do Nhà xuất bản Từ điển
bách khoa và Nhà xuất bản Tƣ pháp phối hợp phát hành năm 2006 cũng không đề cập
thuật ngữ này.
Hiện tại, duy nhất chỉ có cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (thực ra đây
chỉ có thể coi là sổ tay tham khảo dành cho việc học tập và giảng dạy Luật học), do
Trƣờng đại học luật Hà Nội biên soạn và Nhà xuất bản Công an nhân dân phát hành
năm 1999 là có đƣa ra giải thích về thuật ngữ “vụ án dân sự”, theo đó: “Vụ án dân sự
là việc phát sinh tại Toà án, thuộc thẩm quyền xét xử về dân sự của Toà án, do cá
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức xã hội khởi kiện, Viện kiểm sát khởi
tố yêu cầu Tồ án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, của tập thể
hay của người khác. Các vụ án dân sự có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ dân sự giữa
các đương sự gọi là việc kiện dân sự. Các vụ án dân sự khơng có tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ giữa các đương sự, trong đó người khởi kiện chỉ u cầu Tồ án xác định sự
kiện pháp lý thơng qua đó làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ giữa các
đương sự được gọi là việc dân sự. Các vụ án dân sự chủ yếu phát sinh từ quan hệ
pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình. Một số vụ án dân sự có thể
phát sinh từ quan hệ pháp luật hành chính hoặc quan hệ pháp luật khác”.1 Nhƣ vậy,
khái niệm “vụ án dân sự” dùng để chỉ những tranh chấp, những yêu cầu phát sinh từ
quan hệ dân sự (theo nghĩa hẹp) và những tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ
hôn nhân và gia đình. Cho nên, bên cạnh khái niệm “vụ án dân sự” cịn có các khái
1

Trƣờng đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học: Luật dân sự, Luật hơn nhân và gia đình,
Luật tố tụng dân sự, nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999

12



niệm “vụ án kinh tế”, “vụ án lao động”. Tuy nhiên, so với quy định của pháp luật hiện
hành thì khái niệm “vụ án dân sự” nhƣ đã nêu trên đã khơng cịn phù hợp nữa.
BLTTDS đƣợc ban hành đã thống nhất ba loại thủ tục tố tụng về dân sự, kinh tế
và lao động thành một thủ tục tố tụng dân sự chung và các loại vụ việc đƣợc giải quyết
theo thủ tục này đƣợc gọi là vụ việc dân sự. Tuy không đƣa ra khái niệm “vụ án dân
sự”, nhƣng theo Điều 1 của BLTTDS hiện hành 2015 thì “vụ việc dân sự” bao gồm
“vụ án dân sự” và “việc dân sự”; trong đó:
- “Vụ án dân sự” là những tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thƣơng mại, lao động về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đƣơng sự, phát sinh từ
quan hệ pháp luật dân sự đƣợc Toà án thụ lý, giải quyết;
- “Việc dân sự” là những yêu cầu về dân sự đƣợc Toà án thụ lý, giải quyết. Tức
việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khơng có tranh chấp, nhƣng có u cầu Tịa án cơng
nhận hoặc khơng cơng nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động của mình hoặc của
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án cơng nhận cho mình quyền về dân sự,
hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động.
Nhƣ vậy, so với quan niệm trƣớc đây là tất cả những vụ việc đƣợc Toà án thụ lý
giải quyết đều là “vụ án”, thì quan niệm hiện tại về “vụ án dân sự” đã có sự thay đổi
đáng kể:
Thứ nhất, phải là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đƣơng
sự mới là “vụ án dân sự”; còn những yêu cầu của đƣơng sự chỉ nhằm xác nhận sự kiện
pháp lý nhất định mà khơng có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ thì khơng phải vụ án
dân sự mà là “việc dân sự”.
Thứ hai, “vụ án dân sự” phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng
(bao gồm quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại và
lao động).
Từ phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm vụ án dân sự nhƣ sau: Vụ án dân sự
là tranh chấp giữa các đương sự về quyền và nghĩa vụ, phát sinh trong quan hệ pháp
luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động, do người có
quyền khởi kiện và được Tồ án thụ lý, giải quyết.

1.1.2. Khái niệm về công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự

13


Cụm từ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến
nƣớc ta tại Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp năm 1980, đƣợc cụ thể hóa trong
các văn bản luật: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân 1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992, Bộ luật Tố tụng Hình
sự 1988. Tới Hiến pháp năm 2013 ra đời, một lần nữa khẳng định VKSND là cơ quan
chịu trách nhiệm kiểm sát hoạt động tƣ pháp.2 Khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân 2014 diễn giải cụ thể thuật ngữ này nhƣ sau: Kiểm sát hoạt động tư pháp
là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện
ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính,
vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, kiểm sát là hoạt động riêng có của cơ quan kiểm sát, một loại cơ
quan hiến định. Viện Kiểm sát là một loại cơ quan quyền lực, do cơ quan quyền lực
nhà nƣớc cao nhất (Quốc hội) lập ra để kiểm soát quyền lực. Cơ quan này, theo ý
tƣởng của những ngƣời thiết kế ra nó, chính là cơ quan thay thế cho một số cơ quan
kiểm soát quyền lực độc lập nhƣ Thanh tra Nghị viện, Thanh tra Nhà nƣớc… Theo các
Hiến pháp trƣớc đây, tuy Quốc hội lập ra rất nhiều cơ quan, nhƣng duy nhất chỉ có
Viện Kiểm sát mới đƣợc trao quyền "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" của cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Thật ra, khi lập Viện Kiểm sát nhân dân ở nƣớc ta, theo mơ hình
Viện Kiểm sát các nƣớc XHCN, nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan độc lập này là tập
trung kiểm sát việc tuân theo pháp luật của hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc - cơ
quan hành pháp. Tuy nhiên, đến năm 2001, với Nghị quyết của Quốc hội khoá X Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 thì chức năng kiểm

sát việc tuân theo pháp luật của Viện Kiểm sát nhân dân nƣớc ta bị thu hẹp đáng kể.
Giờ đây, Viện Kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện kiểm sát hoạt động tƣ pháp. Và quy
định Luật tổ chức Viện kiểm sát nêu trên đã giải thích chính thức về nội dung kiểm sát
hoạt động tƣ pháp cho thấy, kiểm sát hoạt động tƣ pháp đƣợc nhìn nhận nhƣ là kiểm

2

Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013

14


sát tố tụng tƣ pháp, tức là kiểm sát không chỉ q trình xét xử mà cịn là q trình điều
tra và thi hành án.
Hoạt động tƣ pháp là hoạt động thực hiện quyền lực - quyền nhân danh nhà
nƣớc xét xử và tuyên án, do đó hoạt động tƣ pháp cũng cần đƣợc kiểm soát chặt chẽ để
tránh lạm dụng quyền lực - vốn là một căn bệnh cố hữu của mọi thứ quyền lực. Kiểm
soát hoạt động tƣ pháp mà thực chất là kiểm soát hoạt động xét xử đƣợc thực hiện
bằng hình thức kiểm sốt tự thân và kiểm sốt từ bên ngồi hệ thống. Kiểm sát hoạt
động tƣ pháp hay kiểm sát xét xử - một loại hình của kiểm sốt quyền lực nói chung
chính là dạng kiểm sốt từ bên ngồi, hiện đang đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm,
nghiên cứu. Xuất phát từ nguyên lý độc lập xét xử, nhiều ý kiến cho rằng, kiểm sốt
quyền lực tƣ pháp khơng cần thiết phải từ bên ngồi, mà chỉ cần cơ chế kiểm sốt nội
bộ, theo hƣớng cơ quan xét xử cấp trên kiểm tra, giám sát cơ quan xét xử cấp dƣới.
Theo đó, cần loại bỏ hình thức kiểm sát hoạt động xét xử nhƣ hiện nay vì vừa vi phạm
nguyên tắc xét xử độc lập, vừa "không giống ai”. Ý kiến khác, tuy tán thành quan điểm
mọi thứ quyền lực, kể cả quyền lực tƣ pháp đều cần sự kiểm soát từ bên ngồi, nhƣng
khơng đồng tình với việc kiểm sát tƣ pháp của Viện kiểm sát, từ Viện kiểm sát. Theo
họ, đối với hoạt động xét xử, chỉ có Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội mới đủ
thẩm quyền giám sát và kiểm soát.

Theo quan điểm cá nhân tác giả ủng hộ quan điểm giữ hình thức kiểm sát xét xử
của Viện Kiểm sát vì cho rằng, điều đó phù hợp với thể chế nhà nƣớc Cộng hòa XHCN
Việt Nam, nơi quyền lực nhà nƣớc cao nhất thuộc về Quốc hội. Về nguyên tắc, chính
Quốc hội mới là cơ quan có tồn quyền kiểm sốt, giám sát hoạt động xét xử. Để thực
hiện quyền hạn của mình, Quốc hội, ngồi việc tự mình tiến hành các hoạt động kiểm
sốt, cịn lập ra và giao nhiệm vụ kiểm soát quyền lực cho một số thiết chế độc lập,
trong đó có Viện Kiểm sát. Viện Kiểm sát khơng gì khác, chính là cánh tay nối dài của
Quốc hội, giúp Quốc hội thực hiện một phần việc quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt
động kiểm sốt quyền lực tƣ pháp - đó là hoạt động kiểm sát tƣ pháp hay có thể gọi là
kiểm sát xét xử, khi chúng ta đã coi tƣ pháp chính là xét xử. Cần lƣu ý rằng, ngồi Viện
Kiểm sát, Quốc hội còn dựa vào các cơ quan của Quốc hội mà tiêu biểu là Uỷ ban Tƣ
pháp của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội để thực hiện việc giám sát hoạt động xét
xử. Tuy nhiên, với cách thức tổ chức và thẩm quyền hạn chế nhƣ hiện nay, có thể nói,
Quốc hội chƣa làm đƣợc gì nhiều trong lĩnh vực kiểm sốt quyền lực tƣ pháp.
15


Giải quyết vụ án dân sự là một trong những hoạt động tố tụng dân sự của những
ngƣời tiến hành tố tụng dân sự và những ngƣời tham gia tố tụng dân sự, là đối tƣợng
kiểm sát của VKSND. Kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự là giám sát, kiểm tra tính
hợp pháp và tính có căn cứ đối với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố
tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ án dân sự của chủ thể tiến hành
tố tụng và đó là hình thức thực hiện quyền lực nhà nƣớc, một trong những hoạt động
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tƣ pháp của VKSND.
Mục đích của hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự là nhằm bảo đảm
cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố tụng và văn bản áp dụng
pháp luật giải quyết vụ án dân sự đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội
dung hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự là việc VKSND sử dụng các biện
pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi
phạm, tiêu cực của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng và những ngƣời tham gia tố tụng,

nhằm bảo đảm cho pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi
ích nhà nƣớc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Để có thể sử
dụng đƣợc các biện pháp, quyền năng pháp lý quy định trong BLTTDS, Nhà nƣớc trao
cho VKSND những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định.
1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
Trên thế giới, ở các nƣớc khác nhau, theo hệ thống pháp luật khác nhau thì vị trí,
vai trò của VKS trong bộ máy nhà nƣớc cũng khác nhau. Trong mơ hình của các nƣớc
theo hệ thống luật Anh - Mỹ (hệ thống common law), hệ thống cơ quan công tố đƣợc tổ
chức rất gọn nhẹ, chủ yếu tham gia vào các lĩnh vực hình sự. Các cơng tố viên có thể
đƣợc tuyển chọn theo từng vụ việc cụ thể. Mặc dù hiện nay tình hình đã có nhiều thay
đổi nhƣng ở các nƣớc này vẫn tồn tại một quan niệm: "Càng ít có sự can thiệp của Nhà
nƣớc, càng ít có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội càng vận hành có hiệu quả". Theo
pháp luật của những nƣớc này (ví dụ Đan Mạch, Thụy Điển...) thì Viện cơng tố khơng
có vai trị gì trong vụ án dân sự. Trong quá trình tố tụng, các cơng tố viên khơng tham
gia trong q trình lập hồ sơ, xét xử, khơng có quyền kháng nghị3...
Đối với các nƣớc theo hệ thống luật lục địa (civil law) nhƣ Pháp, Việt Nam...
thì Nhà nƣớc hình thành một hệ thống cơ quan cơng tố mạnh, có vai trị lớn trong lĩnh
3

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (1996), Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam, Kỷ yếu Dự án về pháp luật tố
tụng dân sự, Hà Nội, tr. 35

16


vực kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thẩm quyền kháng nghị trong các thủ tục tố
tụng. Từ đó, mà nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (hay VKS) cũng lớn hơn. Tại
Pháp, trong lĩnh vực tố tụng dân sự, Viện cơng tố có hai vai trị chính: thực hiện quyền
khởi kiện nhƣ một bên đƣơng sự; thực hiện quyền yêu cầu áp dụng pháp luật, với tƣ
cách nhƣ một cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, Viện cơng tố cịn có một hình thức

can thiệp thứ ba với vai trò là ngƣời đại diện cho các cơ quan nhà nƣớc4.
Tại Việt Nam, qua các thời kỳ khác nhau, mà VKS cũng có những vai trị khác
nhau. Trƣớc năm 2004, vai trò của VKSND trong lĩnh vực dân sự đƣợc mở rộng. Theo
đó mà Kiểm sát viên phải tham gia tất cả các giai đoạn tố tụng giúp quá trình kiểm sát
giải quyết các vụ việc dân sự đƣợc sâu rộng. Đến năm 2004, vai trò tham gia tố tụng
của VKSND bị hạn chế đồng thời bỏ đi quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND.
Trƣớc yêu cầu của thực tiễn, từ các tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng và phức tạp
trong khi việc xét xử của Tịa án cịn nhiều sai sót cần có cơ chế giám sát, kiểm tra, từ
năm 2012 đến nay, với sự ra đời của Bộ luật TTDS 2014, vai trò của VKS trong giải
quyết các vụ án dân sự ở nƣớc ta lại có những thay đổi theo hƣớng tăng cƣờng. Từ đó,
nhiệm vụ và quyền hạn của VKS cũng đƣợc bổ sung nhất định theo hƣớng VKS tham
gia phiên tòa sơ thẩm trong một số trƣờng hợp theo quy định của pháp luật, đối với các
phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự, phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm thì VKS phải tham gia toàn bộ.
Cụ thể, khi kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân đƣợc đặc trƣng bởi những hoạt động sau đây:
- Kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự, kiểm sát việc Tịa án thơng báo
trả lại đơn khởi kiện.
- Tham gia phiên tòa phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Tại các phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên tham gia hỏi đƣơng sự và những
ngƣời tham gia tố tụng khác; phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những ngƣời tham gia tố
tụng trong quá trình tham gia giải quyết vụ, việc dân sự; phát biểu quan điểm về việc
giải quyết đối với bản án, quyết định của Tòa án.

4

Khuất Văn Nga (Chủ biên) (2008), Vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách
tƣ pháp, Nxb tƣ pháp, Hà Nội, tr. 149


17


- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại các phiên tòa, phiên họp; kiểm sát các
bản án, quyết định giải quyết các vụ, việc dân sự của Tòa án, góp phần cùng với Tịa
án giải quyết các vụ, việc dân sự đúng pháp luật và kịp thời.
- Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dƣới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem
xét, quyết định việc kháng nghị. Yêu cầu đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung
cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để thực hiện thẩm quyền kháng nghị.
- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết
định của Tịa án.
- u cầu hỗn thi hành án, quyết định để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm; quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật khi đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Thực hiện quyền yêu cầu kiến nghị với Tịa án khắc phục vi phạm trong q
trình giải quyết vụ, việc dân sự theo quy định của pháp luật.
- Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân
sự, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tăng cƣờng công tác phát hiện vi phạm pháp
luật nội dung, pháp luật tố tụng để kiến nghị với cơ quan xét xử kịp thời khắc phục đối
với từng vụ, việc; định kỳ 6 tháng, một năm tổng hợp các vi phạm để kiến nghị cơ
quan xét xử cùng cấp rút kinh nghiệm.
Nhƣ vậy, vai trò của VKS trong giải quyết các vụ án dân sự phụ thuộc vào vị
trí, vai trị của VKS hay Viện Công tố trong tổ chức bộ máy nhà nƣớc. Ở Việt Nam vai
trò của VKS trong giải quyết các vụ án dân sự phụ thuộc vào vị trí, vai trị của VKS
trong tổ chức bộ máy nhà nƣớc ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Do đó, khi xây dựng
các quy định về vai trò của VKS trong giải quyết các vụ án dân sự hiện nay cần căn cứ
vào chức năng của VKS trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND.
1.3. Quá trình xây dựng và phát triển pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát
trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959

Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám, để xây dựng và củng cố chính quyền cách
mạng non trẻ, Nhà nƣớc ta đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật quy định về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc. Pháp luật Nhà nƣớc ta trong giai đoạn
này quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của công tố viên trong tố tụng dân sự
nhƣ sau: trong cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta lần đầu Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946
18


về tổ chức Tòa và các ngạch thẩm phán theo quy định thẩm phán đƣợc chia thành hai
ngạch: sơ cấp và nhị cấp (trong đó, Thẩm phán ở ngạch đệ nhị cấp đƣợc chia thành hai
loại: thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội). Cơng tố viện lúc đó đƣợc ra đời ở Tòa
thƣợng thẩm và chịu sự lãnh đạo của Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp, đứng đầu Công tố viện
và chƣởng lý. Cơ quan công tố không đƣợc thành lập ở tịa đệ nhị mà chỉ có cán bộ
làm công tác biện lý. Trong giai đoạn này, Thẩm phán buộc tội đã hợp thành một bộ
phận độc lập và chịu sự lãnh đạo của Chƣởng lý. Khi tham gia phiên tịa, "Biện lý ngồi
ghế Cơng tố viên". Sắc lệnh số 7/SL ngày 15/01/1946 còn quy định: "Đứng buộc tội,
tùy quyết nghị của Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp sẽ là nhân viên của Cơng tố viện do Chƣởng
lý Tịa thƣợng thẩm chỉ định". Theo quy định của Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946
thì Cơng tố viện tham gia tố tụng dân sự dƣới hình thức, đó là tham gia tố tụng đối với
những vụ án dân sự với tƣ cách là ngƣời thi hành quyền công tố (Điều 22 Sắc lệnh) và
khởi tố vụ án dân sự (đứng là Chánh tố - Điều 41 Sắc lệnh). Nhƣ vậy, công tố viện
bƣớc đầu đƣợc hình thành và nằm trong hệ thống của cơ quan Tòa án với vai trò kiểm
sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố Nhà nƣớc.
Công cuộc cải cách tƣ pháp lần thứ hai: bắt đầu vào năm 1950, công tố viện
đƣợc đặt dƣới sự điều khiển của Ủy ban kháng chiến hành chính. Trong giai đoạn này,
Cơng tố viện nằm trong cơ cấu của cơ quan hành pháp,các đƣờng lối phạm vi hoạt
động, sự tham gia tố tụng của Công tố viện đƣợc mở rộng sang các vụ việc dân sự.
Công cuộc cải cách tƣ pháp lần thứ ba: diễn ra vào năm 1958, đây là giai đoạn
giao thời, quyết định cho việc chuyển Cơng tố viện thành VKSND, một hình thức
hồn thiện hơn, đáp ứng nhƣ cầu mới của cách mạng trong những năm tiếp theo.

Trong tố tụng dân sự, theo Công văn số 1137/HCTP ngày 5/6/1958 của Bộ Tƣ pháp về
việc đơn giản một số thủ tục ở phiên tòa quy định rõ hơn về quyền khởi tố và tham gia
tố tụng của Cơng tố viện có hƣớng dẫn nhƣ sau: "… về việc dân sự, Cơng tố viện có
nhiệm vụ khởi tố và tham gia tố tụng đối với những vụ án dân sự quan trọng có liên
quan đến lợi ích Nhà nước của nhân dân. Cịn đối với những vụ án dân sự thường thì
Cơng tố viện khơng cần phải tham dự phiên tòa".
Nhƣ vậy, trong giai đoạn này, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giải
quyết các vụ án dân sự đã đƣợc quy định tƣơng đối đầy đủ, khẳng định đƣợc vị trí và
vai trị của VKSND trong giải quyết các vụ án dân sự; là cơ sở cho sự kế thừa và phát

19


triển cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về vai
trò của VKS sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến 1988
Hiến pháp 1959 ra đời, Cơng tố viện chính thức đƣợc chuyển thành VKSND,
đƣợc tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ƣơng đến địa phƣơng và
không phụ thuộc vào cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính địa phƣơng. Ngồi
chức năng cơng tố, VKSND cịn đƣợc giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật từ các Bộ trở xuống; trong đó có cả hệ thống các TAND. Quyền hạn và nhiệm vụ
của VKSND trong tố tụng dân sự đƣợc quy định cụ thể tại các Điều 17, 18 và 19 Luật
tổ chức VKSND năm 1960. Theo quy định tại các điều trên thì VKSNDTC và các
VKSND địa phƣơng có quyền:
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan
đến lợi ích của Nhà nƣớc và của nhân dân;
- Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp và
cấp dƣới một cấp;
- Kiểm sát việc chấp hành các bản án và các quyết định của TAND.
Khi VKSNDTC thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của TAND các cấp là sai lầm thì có quyền kháng nghị. Khi VKSND địa phƣơng thấy
các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp mình hoặc cấp
dƣới là sai lầm thì báo cáo lên VKSNDTC để kháng nghị. Tiếp đến, ngày 13/7/1981,
Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức VKSND, trong đó tại Điều 3 và Điều 13 có quy
định cụ thể các hình thức tham gia kiểm sát xét xử của Tòa án nhƣ tham gia tố tụng tại
phiên tòa; kháng nghị các bản án quyết định của Tòa án và khởi tố hoặc yêu cầu cơ
quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân cùng cấp khởi tố những vụ
án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nƣớc, của tập thể và quyền lợi
chính đáng của nhân dân.
Nhìn chung, cho đến năm 1989 trở về trƣớc vai trò của VKSND giải quyết các
vụ án dân sự không đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật nào khác ngoài Luật tổ
chức VKSND. Trong giai đoạn này của VKSND đã có sự thay đổi quan trọng nhằm
đáp ứng với yêu cầu mới và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến 2004

20


Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và hai đạo Luật tổ chức VKSND (1989, 1992)
ra đời tiếp tục kế thừa và quy định mới cho vai trò của VKSND đáp ứng nhu cầu thay
đổi của xã hội đặc biệt là q trình cải cách tƣ pháp trong giai đoạn tồn Đảng toàn
dân bƣớc vào xây dựng nền kink tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là thời kỳ đổi mới, trên cơ sở Hiến
pháp và Luật tổ chức VKSND, là sự ra đời của Pháp lệnh trình tự giải quyết các vụ án
dân sự (1989), pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kink tế (1994), pháp lệnh thủ tục
giải quyết tranh chấp lao động (1996)… Theo quy định của các văn bản pháp luật này,
sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự đƣợc mở rộng. Cụ thể quy định
tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1992: Khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án dân sự và những việc khác do pháp luật quy định, Viện kiểm sát nhân
dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, u cầu Tịa án nhân dân hoặc tự mình điều tra,
xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
2. Khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của pháp luật, tham gia phiên tòa
xét xử những vụ án mà Viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố hoặc kháng nghị đối với
những vụ án khác, Viện kiểm sát nhân dân có thể tham gia bất cứ giai đoạn nào nếu
thấy cần thiết;
3. Yêu cầu Tòa án cùng cấp áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy
định của pháp luật;
4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, các bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự".
Nhƣ vậy, theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 1992 đã xác định rõ hơn
các hình thức tham gia tố tụng dân sự của VKSND, đó là: khởi tố vụ kiện dân sự vì lợi
ích chung; tham gia tố tụng đối với các vụ án dân sự; kháng nghị những bản án, quyết
định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Sau đó, Điều 1 Luật
tổ chức VKSND năm 2002 ngày 02/4/2002 quy đinh: "Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật".5 Quy định này nhằm tăng cƣờng và tập trung chức năng kiểm sát hoạt

5

Điều 1, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002, Hà Nội.

21


động tƣ pháp của VKSND, trong đó có hoạt động xét xử các vụ án dân sự, kinh tế và
lao động.
Khác với quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 1992, khoản 3 Điều 21
Luật tổ chức VKSND năm 2002 xác định VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc giải
quyết đối với tất cả các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kink tế, lao động và những

việc khác theo quy định của pháp luật ở tất cả các giai đoạn tố tụng, tham gia tất cả các
phiên tòa xét xử các vụ án này ở Tòa án các cấp và phát biểu quan điểm cảu VKSND
về việc giải quyết vụ án. Quy định nhƣ vậy nhằm tăng cƣờng vai trò hoạt động kiểm
sát các hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự, kink tế, lao động và thể chế hóa quan
điểm, chủ trƣơng của Đảng về cải cách tƣ pháp.
1.3.4. Giai đoạn từ 2004 đến nay
Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 6 đó thơng qua Hiến pháp
nƣớc Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt
quan trọng, tạo cơ sở hiến định để thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nƣớc trong thời kỳ mới. Cùng với việc tiếp tục kế thừa những giá trị to lớn
của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, Hiến pháp sửa đổi
lần này đã đổi mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; thể chế hóa sâu sắc và tồn diện
chủ trƣơng đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực; trong đó tƣ tƣởng về con ngƣời, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân đƣợc xác định là tƣ tƣởng
đổi mới chủ đạo của Hiến pháp, là mục tiêu hƣớng đến của các thiết chế trong Nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những yêu cầu của Hiến pháp về dân chủ, pháp
quyền, đề cao con ngƣời có ý nghĩa tác động trực tiếp đến các cơ quan tƣ pháp nói
chung và Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát nhân dân nói riêng, địi hỏi các thiết chế
này phải thực sự đổi mới trong nhận thức, tổ chức và hoạt động.
Hiến pháp tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát là hệ thống cơ quan độc lập trong
bộ máy nhà nƣớc, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tƣ pháp; bổ sung một số nguyên tắc tiến bộ của hoạt động tố tụng tƣ pháp nhƣ nguyên
tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, tiếp tục khẳng định và ghi
nhận mới một số quyền con ngƣời, quyền công dân trong lĩnh vực tƣ pháp v.v...
Những điều chỉnh nêu ở trên của Hiến pháp đó đặt trách nhiệm rất cao với các
cơ quan tƣ pháp, yêu cầu phải tổ chức cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm và
vi phạm pháp luật theo tinh thần mới. Hoạt động tƣ pháp không chỉ dừng lại ở mục
22



tiêu phát hiện, xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật mà cịn phải tơn trọng con ngƣời,
vì sự phát triển của con ngƣời, đề cao dân chủ và phải đứng trên quan điểm đó để
chứng minh tội phạm và áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội.
Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, cơng khai, minh bạch, tơn trọng và bảo vệ quyền
con ngƣời, quyền công dân phải trở thanh mục tiêu và động lực hƣớng tới của các cơ
quan tƣ pháp nói chung, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Đây chính là thƣớc đo sự
tiến bộ của nền tƣ pháp. Xác định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân khi thực
hiện chức năng cơng tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp chính là nhằm bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật đƣợc tôn trọng và chấp hành
nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.
Thực hành quyền công tố hiểu một các khái quát là hoạt động nhằm phát hiện
tội phạm, truy tố ngƣời phạm tội ra Tòa, yêu cầu Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt
đối với họ. Kiểm sát hoạt động tƣ pháp là kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nƣớc trong lĩnh vực tƣ pháp, bao gồm kiểm sát các hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tƣ pháp... Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền
lực nhà nƣớc nói chung và thực hiện quyền lực trong lĩnh vực tƣ pháp nói riêng ở Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hoạt động có tính tất yếu, khách quan,
xuất phát từ nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm sốt quyền lực đó đƣợc khẳng
định trong Hiến pháp. Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ
pháp thực chất là để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp
luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi tội phạm và vi phạm
pháp luật đều phải đƣợc phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và ngƣời
phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội, bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp
luật, nghiêm minh.
Hiến pháp khẳng định trong điều kiện cụ thể của nƣớc ta cần thiết phải duy trì
Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập, có chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tƣ pháp đúng theo nguyên tắc tổ
chức bộ máy nhà nƣớc "Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp".6 Đảng, Quốc hội và nhân dân cần một thiết chế giám sát độc lập, hoạt động


6

Hiến pháp các năm (1946,1959, 1980,1992, 2001, 2013), Hà Nội

23


×