Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

SKKN THCS biện pháp giáo dục kĩ năng sống nhằm nâng cao nhận thức, nhân cách của học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp 7 ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 51 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu:
Trong thời đại, nền kinh tế đang mở cửa, xã hội phát triển mạnh mẽ và
đầy thách thức như hiện nay, cuộc sống ln tạo ra những khó khăn, thử thách
để con người cần phải vượt qua.Vì vậy, mỗi người cần phải trang bị cho mình
những kỹ năng cần thiết để giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc sống, nếu
thiếu kỹ năng sống sẽ thiếu khả năng phân tích, ứng xử các tình huống khó
khăn, giới trẻ dễ gặp lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề của bản thân.
Từ đó dẫn đến trạng thái khủng hoảng tâm lý hay dễ bị sa ngã vào các tệ nạn xã
hội. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phạm pháp ở
thanh thiếu niên, đặc biệt ở độ tuổi THCS, ngày càng gia tăng đến mức độ đáng
báo động . Tình trạng bạo lực học đường, về phạm tội, về liều lĩnh, ứng phó
khơng lành mạnh, dễ mắc các tai tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vơ tâm, khép mình,
…. ngày một gia tăng, có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân sâu xa là do
các em thiếu kỹ năng sống. Khi thiếu một bản lĩnh vững vàng, một kỹ năng ứng
phó, các em có nhiều biểu hiện sống xa rời các giá trị đạo đức truyền thống, đạo
đức bị xuống cấp, nhận thức lệch lạc, có phản ứng tiêu cực, dễ rơi vào bế tắc,
khơng tự mình kéo lên được…
Đứng trước thềm hội nhập quốc tế đòi hỏi thế hệ trẻ phải tự tin; phải nắm
bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một số kỹ năng: sống khỏe, sống lành
mạnh, giỏi lập trình, giỏi tiếng Anh… Đồng thời rèn kỹ năng thực hành, kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng tự phục vụ bản thân cũng là nhu
cầu cần thiết…
- Vấn đề học sinh thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ,
vơ tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là những cản trở lớn
cho sự phát triển của thanh thiếu niên khiến khơng ít các bậc cha mẹ phải phiền
lịng vì con, trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay.
- Nhiều vị phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin,
ln tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đơng hoặc khơng biết
cách xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ người
khác, tìm đường, định hướng, đi xe buýt,...


- Thêm nữa trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kỹ
năng tự bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi các nhóm trẻ xấu luôn lấy
sức mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các trẻ hiền, ngoan , ít
nói....

1


- Nhiều em học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong
thế giới ảo của Internet của thế giới game,... mà quên đi và đánh mất những cơ
hội kết bạn , thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình, lo sợ, rụt rè khi tiếp
xúc với cộng đồng, xã hội.
Trong quan hệ hằng ngày, tôi nhận thấy kỹ năng sống của các em còn
nhiều hạn chế, các em nhận thức chưa đúng về kỹ năng sống. Hầu hết các em
lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các tình huống thường gặp trong
cuộc sống, trong giao tiếp. Đặc biệt các em học sinh đầu cấp, kỹ năng tự bảo vệ
trước những vấn đề xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn cuộc
sống như: kỹ năng nhận diện một vấn đề, biết cách xác định tình huống, biết
cách từ chối, kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, tự chăm sóc sức
khỏe... cịn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, giáo dục KNS là con đường ngắn nhất,
giúp các em định hướng về cách sống và hành động một cách tích cực. Nắm
được KNS, các em sẽ dễ dàng áp dụng những kiến thức lý thuyết, những “cái
mình biết”, “cái mình tin tưởng”,.. vào thực tiễn thành những hành động tích
cực, giúp các em thích ứng nhanh nhẹn với những sự thay đổi ngày càng nhanh
của xã hội, vững bước tương lai.
Đặc biệt từ năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã có Chỉ thị, kế
hoạch về thực hiện phong trào:“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” trong các trường phổ thơng, thì việc giáo dục kỹ năng sống là 1 trong 5 nội
dung thiết thực để “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Mục tiêu
giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ ,

sức khỏe, thẩm mỹ nghề nghiệp và hình thành nhân cách, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam xã hội chủ nghĩa.
Trong khi đó, chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, chưa
chú trọng đúng mức đến giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Mà vấn đề giáo
dục kỹ năng sống hiện nay đang được các bậc phụ huynh, nhà trường và toàn xã
hội quan tâm, nhằm đào tạo con người với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để
đáp ứng yêu cầu xã hội hiện tại. Với học sinh THCS, việc rèn luyện KNS nhằm
xây dựng cho học sinh 12 giá trị, nhân cách của cuộc sống, đó là: “tơn trọng,
hịa bình, hợp tác, hạnh phúc, chân thật, nhân đạo, tình thương, trách nhiệm,
giản dị, khoan dung, tự do và đoàn kết”.
Giáo dục là q trình tồn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục
đích, có kế hoạch, thơng qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của lồi người. Giáo dục là
q trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành
niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong

2


xã hội. Khi bàn về vai trò yếu tố giáo dục trong sự phát triển nhân cách con
người, Bác Hồ đã viết trong bài thơ “Nữa đêm”
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, con người ta mới sinh ra vốn bản chất
là tốt, nhưng chỉ sau do ảnh hưởng giáo dục và môi trường sống cùng sự phấn
đấu, rèn luyện của mỗi cá nhân mà hình thành những con người thiện, ác khác
nhau. Câu nói của người xưa trong Tam Tự Kinh:”Nhân chi sơ, tính bản thiện”
đã từng được Người nhắc lại nhiều lần trong các bài viết, bài nói chuyện. Theo
Người, con người sinh ra bản chất là tốt, song trong xã hội ln có thiện và có
ác nên trong bản thân mỗi con người cũng có thiện và ác. Cái ác có là do ảnh

hưởng của xã hội và sự biến đổi của mỗi người. Do đó, giáo dục làm một nhiệm
vụ vơ cùng cần thiết và rèn luyện,biến đổi dần dần tính cách con người, hướng
người ta đến sự hoàn thiện của một nhân cách tốt đẹp, xây dựng một xã hội với
những người có ích cho mai sau.
Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người
không chỉ là sự nghiệp của tồn nhân loại nói chung mà cịn của tồn Đảng, tồn
dân ta nói riêng. Đối với nước ta, giáo dục được xác định là “quốc sách hàng
đầu”, là vô cùng quan trọng và cấp thiết bởi sự thành đạt của một con người, sự
phát triển của một thế hệ, sự hưng thịnh của đất nước đều phụ thuộc vào kết quả
của hoạt động giáo dục “Vì lợi ích mười năm trồng cây,vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Hơn thế, trong một thời đại hội nhập kinh tế, thời đại công nghệ thông
tin phát triển như vũ bão hiện nay thì giáo dục lại vơ cùng cần thiết. Làm thế nào
để những người chủ tương lai của đất nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế nào để
sự nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt? Đây chính là trách nhiệm chung của
tồn xã hội, của tất cả những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là của người
giáo viên chủ nhiệm lớp – người chịu trách nhiệm trực tiếp và thường xuyên tiếp
xúc, uốn nắn, chỉ bảo các em học sinh. Là một nhà giáo dục tương lai, một con
người của xã hội, chúng ta cần phải thấy rõ vai trò của việc trang bị KNS cho
HS. Học sinh THCS (12-16 tuổi) là lứa tuổi có nhiều thay đổi mạnh mẽ về thể
chất, sức khỏe và tâm sinh lý, tuổi dậy thì các em dễ thay đổi tình cảm, hành vi,
chóng vui chóng buồn. Mâu thuẫn giữa ý muốn thoát khỏi sự giám sát của bố
mẹ, muốn khẳng định mình trong gia đình lẫn ngồi xã hội, với ý thức “các em
vẫn còn là trẻ con” trong suy nghĩ của các bậc cha mẹ, thầy cô đã nảy sinh
những xung đột mà các em chưa được trang bị kỹ năng cần thiết để ứng phó và
giải quyết.

3


Từ năm học 2009 – 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đưa giáo dục

kĩ năng sống vào nhiệm vụ năm học. Để thực hiện thành công nhiệm vụ giáo
dục giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, chỉ giao phó trách nhiệm cho nhà
trường là khơng đủ mà cần có sự phối hợp hiệu quả giữa “Giáo dục nhà trường
kết hợp với gia đình và ngồi xã hội”. Trong “ba ngôi giáo dục” này, giáo dục
nhà trường đóng vai trị chủ đạo và vai trị của giáo viên chủ nhiệm được coi là
một khâu 2 quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến mức độ thành cơng của việc
giáo dục kĩ năng sống.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ giáo dục giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh, không thể không quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp. Bởi lẽ, thầy cơ
chủ nhiệm lớp có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Vì
thầy cơ là người hiểu các em nhất, gần gũi với các em nhất trong thời gian các
em đến trường học tập. Các em dễ tâm tình chia sẽ với thầy cơ chủ nhiệm về
những khó khăn mà các em gặp phải. Bên cạnh đó, thầy cơ chủ nhiệm lớp còn là
người được nhà trường giao trách nhiệm trực tiếp tổ chức các hoạt động giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Có thể nói,
giáo viên chủ nhiệm vừa là nhà giáo dục, người quản lý, người tổ chức, người
nuôi dưỡng các ước mơ, khát vọng của tập thể cũng như của từng cá nhân học
sinh, vừa là người đại diện, là cầu nối giữa nhà trường, cha mẹ và các giáo viên
khác trong trường với học sinh. Người giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là thầy dạy
học vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của
các em. Từ đó có thể uốn nắn các em đi theo đúng qui định giáo dục trong nhà
trường, có những tác động tích cực đến các em cũng như giúp các em điều chỉnh
hành vi theo hướng tích cực, có lợi nhất. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp ngày càng trở nên thiết yếu.
Nhưng việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải phù hợp với lứa tuổi,
với đặc điểm tình hình riêng của từng lớp học, cấp học, văn hóa của từng địa
phương… sao cho học sinh cảm thấy gần gũi với cuộc sống của bản thân, gia
đình, nhà trường và xã hội, chứ khơng chỉ trên sách vở hay những lời nói sng.
Từ nhận thức đó, là người giáo viên chủ nhiệm , tôi hết sức tâm đắc trong việc
hướng dẫn và đào tạo các em thành “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức,

trí, thể, mỹ”, “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi rất mong muốn học trị của mình là
những người con ngoan, người học trị giỏi, tài đức vẹn tồn để sau này lớn lên
các em tự tin, năng động, bản lĩnh bước vào đời, trở thành những người cơng
dân có ích cho xã hội.
Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn tâm niệm làm sao để “dạy” và “dỗ”,
giáo dục các em trở thành người hữu ích cho xã hội, xứng đáng với hình ảnh đẹp
4


mà xã hội cũng như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề
cao quý nhất trong các nghề cao q vì nó tạo ra những con người sáng tạo”. Để
thực hiện điều này, tôi quyết tâm làm tốt cơng tác chủ nhiệm vì chỉ có một môi
trường tập thể tốt mới mong ươm mầm tương lai mạnh khỏe được. Từ những lý
do đó tơi chọn nghiên cứu đề tài: “Biện pháp giáo dục kĩ năng sống nhằm nâng
cao nhận thức, nhân cách của học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp 7 ở
Trường THCS Nguyễn Trung Trực”
Năm học 2018-2019 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua
“Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh là một trong những nội dung thiết thực nhất của phong trào.
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ 20, tổ chức UNESCO đã vạch rõ ba
thành tố của học vấn, đó là : kiến thức, kỹ năng và thái độ, trong đó thái độ và
kỹ năng đóng vai trị then chốt . Chính thái độ tích cực, năng động, dấn thân,...
và những kỹ năng cần thiết trong học tập và làm việc, trong quan hệ giao tiếp,
trong xử trí, ứng phó trước những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống đã chủ yếu
giúp cho người học tự tin để vững bước tới một tương lai có định hướng. Riêng
về giáo dục kỹ năng sống tuy chỉ mới xuất hiện từ những năm 1990 của thế kỷ
trước song đã nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới. Và có nơi, giáo dục kỹ
năng sống khơng chỉ là một sinh hoạt ngoại khóa mà cịn là một mơn học chính

qui ở nhà trường.
Ở Việt Nam, dù giáo dục kỹ năng sống được du nhập vào ngay sau đó
nhưng triết lý và phương pháp giáo dục kỹ năng sống ít nhiều hãy cịn lạ lẫm đối
với xã hội ta nên chưa được sự quan tâm đúng mức. Hơn nữa, giáo dục tại Việt
Nam nhìn chung cịn kém phát triển. Ngoại trừ một số rất ít các trung tâm giáo
dục phi chính quy như Trung tâm ABS Training, Trung tâm dạy nghề GDVT
Swisscontact, Công ty Tâm Việt ở Hà Nội, Công ty bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi
Việt Nam phối hợp với Báo Người lao động, Cung văn hóa Lao động Thành phố
Hồ Chí Minh, Nhà văn hóa Thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm hỗ
trợ sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm học tập cộng đồng ở một số
địa phương... hay một số trường giáo dục trẻ khuyết tật, một số ít trường tiểu
học trọng điểm ở Hà Nội,... có các chương trình giáo dục kỹ năng sống. Cịn lại,
các trường phổ thông nhất là các trường từ bậc trung học cơ sở trở lên chưa quan
tâm nhiều cũng như chưa tạo ra được môi trường học tập trang bị đầy đủ kỹ
năng sống cho thanh thiếu niên học sinh. Cho nên giới trẻ Việt Nam nhìn chung
cịn kém so với thanh thiếu niên tại các nước phát triển. Trong khi đó, bản lĩnh
sống của thanh thiếu niên trong xã hội ngày càng chun mơn hố cao như xã
hội Việt Nam hiện nay không thể thiếu được và cần phải được nâng cao hơn ở
5


hai mảng kỹ năng đó là kỹ năng chun mơn và kỹ năng mềm mà có thể gọi
chung là những kỹ năng trong cuộc sống .
Kể từ năm học 2008-2009, Bộ GD-ĐT nước ta đã phát động trong các
trường phổ thơng trên tồn quốc phong trào "Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực" nhằm mang lại cho học sinh cả nước một "mơi trường giáo
dục an tồn thân thiện, hiệu quả, phù hợp điều kiện địa phương và đáp ứng nhu
cầu xã hội". Hưởng ứng phong trào này, Trung tâm Giáo dục môi trường và các
vấn đề xã hội đã phối hợp với Ban dự án Phát triển giáo dục THPT nhanh chóng
xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động nhằm hỗ trợ triển khai đến cơ sở một số

nội dung thiết thực. Một trong những hoạt động đó là chương trình Tập huấn
giáo dục kỹ năng sống và bình đẳng giới tổ chức tại Hà Nội vào 5 ngày đầu
tháng 10/2008 cho các giáo viên cốt cán một số trường THPT của 11 tỉnh phía
Bắc tham gia. (Trong thời gian tới, nội dung hoạt động trên sẽ được Trung tâm
triển khai tiếp tục cho các tỉnh phía Nam). Qua đợt tập huấn này, giáo viên sẽ
biết cách hình thành cho học sinh các kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng đặt mục tiêu, ... biết cách giúp các em hiểu kỹ hơn về giới và bình đẳng
giới cùng các tri thức thiết yếu để hiểu biết bản thân, tự bảo vệ mình và hịa
nhập cộng đồng. Đồng thời chính bản thân giáo viên được củng cố và phát triển
nhiều kỹ năng khác như hoạt động nhóm, xây dựng kế hoạch, xử lý tình huống,
các cách giải quyết vấn đề,... mà các học sinh cần được trang bị để tồn tại, đáp
ứng được nhu cầu của cuộc sống và phát triển tốt trong một xã hội đầy biến
động như hiện nay.
1.3. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm ra biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong công tác chủ
nhiệm một cách linh hoạt, hiệu quả nhưng khơng làm nặng thêm khơng khí của
tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.
- Giúp học sinh: Có nhận thức đúng đắn về kỹ năng sống, có ý thức rèn
luyện hình thành cho bản thân kỹ năng sống tốt hơn. Các em sẽ chủ động, tự tin
giải quyết các vấn đề của bản thân, có một bản lĩnh vững vàng và kỹ năng ứng
phó trước các tình huống xảy ra trong học tập và cuộc sống. Giúp học sinh thích
ứng với cuộc sống xã hội hiện tại, với những tác động của tự nhiên, xã hội. Thúc
đẩy các em học sinh tham gia các hoạt động mang tính xã hội, phát huy nhân tố
tích cực, hạn chế nhân tố tiêu cực, xây dựng mơi trường sống thân thiện, tích
cực ở trường học, ở địa phương.
- Góp phần năng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, tham gia
phong trào của Ngành: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

6



Đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện; phù hợp với quan điểm giáo dục của
UNESCO đó là: Học để biết; học để làm; học để tồn tại; học để chung sống.
1.4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề về kĩ năng sống, biện pháp rèn kĩ năng sống.
- Tìm hiểu thực trang kĩ năng sống và biện pháp rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh THCS.
- Tổ chức thực nghiệm một số biện pháp tác động tâm lí nhằm hình thành
và phát triển kĩ năng sống cho học sinh THCS.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu dùng để nghiên cứu các tài liệu, các đề
tài về giáo dục KNS cho học sinh THCS, phân tích, đánh giá, tổng hợp tài liệu
về vấn đề có liên quan đến đề tài.
2. Phương pháp khảo sát, phỏng vấn, điều tra.
Phương pháp được thực hiện nhằm thu thập thông tin về thực trạng giáo
dục KNS cho học sinh THCS(là lớp chủ nhiệm 7/2), để đo mức độ hình thành
KNS cho học sinh THCS.
3. Phương pháp quan sát:
Quan sát giờ chơi, giờ học, nhất là giờ sinh hoạt lớp, giờ hoạt động
ngoài giờ, nhằm nắm bắt thực trạng giải quyết vấn đề có vận dụng kĩ năng sống
của học sinh
4. Phương pháp thống kê toán học.
Phương pháp thống kê toán học dùng để xử lý, phân tích, đánh giá các kết
quả khảo sát
5. Phương pháp xử lý thông tin.
Phương pháp xử lý thông tin: để xây dựng các luận cứ, khái quát hoá để
phục vụ cho việc chứng minh.
6. Phương pháp nghiên cứu lý luận.

Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước về vấn đề giáo dục và giáo dục KNS cho học sinh THCS, phân tích, tổng
hợp những tư liệu, tài liệu lý luận về giáo dục KNS.
1.5. Giới hạn nghiên cứu:
7


- Thời gian bắt đầu: 20/5/2018 đến tháng 08/ 12/1018
- Đề tài này được thực hiện tại trường THCS Nguyễn Trung Trực, chủ yếu
tập trung nghiên cứu vào biện pháp giáo dục kĩ năng sống trong công tác chủ
nhiệm nhằm nâng cao nhận thức, phát triển nhân cách của học sinh lớp 7/2 ở
Trường THCS Nguyễn Trung Trực ( chủ yếu là kĩ năng học tập, kĩ năng giao
tiếp, ứng xử trong mối quan hệ thầy trò, bạn bè…. Trong xử trí, ứng phó trước
những địi hỏi, thử thách cuộc sống.)
1.6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
- Căn cứ chỉ thị 40/2008/ CT – BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo và kế hoạch số 1842/GDĐT – TrH ngày 29/8/2008 của
Sở Giáo dục và Đào tạo các trường về “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” trong các trường phổ thơng giai đoạn 2008 – 2013 và kế hoạch số
606/KH – GDĐT ngày 16/9/2008 của các Phòng giáo dục và đào tạo huyện đưa
ra chương trình rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh bậc trung học cơ sở là một
trong 5 nội dung thiết thực để xây dựng trường học thân thiện. Đây là cơ sở
pháp lý để việc giáo dục kỹ năng sống và công tác quản lý giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh bậc trung học cơ sở được quan tâm nhiều hơn từ trước tới nay.
Trong những năm gần đây, cùng với sự mở cửa, hội nhập quốc tế về quan
hệ kinh tế, giao lưu văn hóa, của đất nước một số thanh thiếu niên học sinh thiếu
hiểu biết về thực tế cuộc sống, chưa được rèn dạy kỹ năng sống, có khi lại sớm
phải tự mình đương đầu với nhiều vấn đề tâm lý xã hội phức tạp, đã bị lôi cuốn
vào lối sống thực dụng, đua địi, khơng đủ bản lĩnh nói “khơng” với cái xấu. Trong những giai đoạn phát triển của con người thì lứa tuổi thiếu niên tức lứa
tuổi học sinh bậc trung học cơ sở là lứa tuổi đang ở thời kỳ phát triển phức tạp

nhất, nhiều biến động nhất nhưng cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho
những bước trưởng thành sau này của trẻ. Các em cần được quan tâm giáo dục,
rèn luyện nhiều hơn những kỹ năng cần thiết trong học tập, trong quan hệ giao
tiếp, trong xử trí, ứng phó trước những địi hỏi, thử thách của cuộc sống, kỹ
năng tự bảo vệ mình trước những vấn đề xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến sức
khỏe và an toàn cuộc sống như: kỹ năng nhận diện một vấn đề, biết cách xác
định tình huống, biết cách từ chối, kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết
định, tự chăm sóc sức khỏe... cịn gặp nhiều khó khăn.
- Rèn kỹ năng sống cho học sinh thực sự có tác dụng tốt đến việc giáo dục
đạo đức học sinh trong nhà trường không những giúp cho các em có được những
kĩ năng ứng xử, giao tiếp mà cịn tạo thành thói quen phân tích đánh giá tình
hình, thói quen vươn lên xử lý tình huống một cách hợp lí. Khác với các phương
pháp trước trong việc giáo dục đạo đức học sinh là khoảng cách giữa thầy và trò

8


khi các em mắc lỗi thường các thầy, cô giáo hay dùng hình thức trách phạt, kỷ
luật mà ít khi lắng nghe các em giải bày... Nay với việc chú trong rèn kỹ năng
sống cho học sinh mà đòi hỏi cần có sự ân cần chỉ bảo, phân tích, nghe các em
nói lên những suy nghĩ, dẫn đến việc làm chưa phù hợp với chuẩn đạo đức
người học sinh. Việc giáo dục đạo đức, hình thành các kỹ năng sống tối thiểu
của các em đã được thực hiện trong công tác chủ nhiệm lớp, lồng ghép trong
các chương trình học tập, được tích hợp trong các bộ mơn và cịn được trải
nghiệm qua thực tế cho nên gây được hứng thú cho các em trong việc tu dưỡng
đạo đức, hướng thiện và nâng cao được năng lực học tập, sáng tạo. Từ đó, các
em có nhận thức đúng đắn trong việc thực hiện nội qui, qui định của nhà trường
và tự giác thực hiện.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề.

2.1.1. Một số khái niệm
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thể quan niệm là việc tổ chức các
hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một
các tích cực chủ động vào các q trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay
đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách tồn
diện, giúp học sinh có thể sống an tồn, khỏe mạnh và tích cực, chủ động trong
cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các
em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các
em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện
nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ
năng phù hợp.
a. Kỹ năng sống là gì?
Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định
nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kỹ
năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được
sự an tồn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao.
- Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc(UNESCO),
kỹ năng sống là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham
gia vào cuộc sống hằng ngày, những kỹ năng đó gắn với 4 trụ cột của giáo dục:
Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết
định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm…;
Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng
đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…;
9


Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng
thẳng, kiểm sốt cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…;
Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng
định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thơng;

- Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực mà con
người cần để có cuộc sống an tồn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng tâm lý xã
hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác
một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức của cuộc sống
hằng ngày.
Tương đồng với quan niệm của WHO, cịn có những kỹ năng sống là
những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và
những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá
nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của
cuộc sống.
- Theo UNICEFF, kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội
và giao tiếp cá nhân giúp con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp
một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản nhân thằm
giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Kỹ năng sống được thể
hiện ở những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến những
hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động nhằm
thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
Có thể thấy rằng kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần
thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Về bản chất, đó là kỹ năng tự
quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống,
học tập và làm việc hiệu quả… Nói cách khác kỹ năng sống là khả năng làm chủ
bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và
với xã hội, khả năng ứng phó với các tình huống của cuộc sống. Kỹ năng sống
hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong
những hành động theo xu hướng cực và mang tính chất xây dựng.
Kỹ năng sống được hình thành thơng qua một quá trình sống, rèn luyện,
học trong gia đình, nhà trường và ngồi xã hội.Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi
người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình,
cộng đồng, dân tộc.
Tóm lại, với nhiều định nghĩa khác nhau nhưng theo các nhà tâm lý giáo dục,

cần trang bị cho học sinh THCS những kỹ năng sống cần thiết để phát huy sự tự tin,
năng động, sáng tạo của các em với những kỹ năng cần thiết đó là:
1. Kỹ năng tự nhận thức: xác định được giá trị bản thân, tự tin, tự trọng.
10


Tự nhận thức là tự nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân
Kỹ năng tự nhận thức là khả năng của con người hiểu về chính bản thân
mình như cơ thể, tư tưởng , các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận,
đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm
yếu ... của bản thân mình; quan tâm và ln có ý thức được mình đang làm gì,
kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con
người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể
cảm thơng được với người khác. Ngồi ra, có hiểu đúng về mình, con người mới
có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng
của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá không
đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại
trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.
Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế,
đặc biệt là qua giao tiếp với người khác.
2. Kĩ năng giao tiếp: phản hồi, lắng nghe tích cực, trình bày suy nghĩ
và ý tưởng, ứng xử-giao tiếp, thể hiện sự cảm thơng, chia sẻ.
Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình
thức nói, viết hoặc sử dụng ngơn ngữ cơ thể một cách phù hợp với hồn cảnh và
văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất
đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu,
mong muốn và cảm xúc đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn khi cần thiết.
Kỹ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và
điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ,

cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kỹ năng này
giúp chúng ta có mối quan hệ tích.
Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kỹ năng khác như bày tỏ
sự cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu
thuẫn, kiểm sốt cảm xúc. Người có kỹ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với
mong đợi của những người khác, có cách ứng xử phù hợp khi làm việc cùng và
ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm đến những
điều người khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn
một cách chính đáng.
3. Kĩ năng suy nghĩ, sáng tạo: Nêu vấn đề, bàn luận vấn đề, tìm kiếm
và xử lí thơng tin, phân tích-đối chiếu:

11


Giáo dục cho HS lòng khát khao, sáng tạo, sự hứng thú đối với việc tiếp
thu cái mới . Tìm hiểu và khám phá, tính tích cực thể hiện ở sự chủ động hoặc ý
muốn hiểu thấu đáo vấn đề nào đó để sau đó có thể tự thân giải quyết vấn đề,
tính tích cực thể hiện ở khả năng linh hoạt và hiệu quả trong giải quyết vấn đề.
4. Kĩ năng ra quyết định: xác định tìm kiếm các lựa chọn, giải quyết
vấn đề, ứng phó, thương lượng.
Kỹ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa
chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết vấn
đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống. Giải quyết vấn đề có liên quan tới
kỹ năng ra quyết định và cần nhiều KNS khác như: giao tiếp, xác định giá trị, tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo, tìm kiếm sự hỗ trợ, kiên định ....
Cũng như kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề rất quan trọng,
giúp con người có thể ứng phó tích cực và hiệu quả trước những vấn đề, tình
huống của cuộc sống.
5. Kĩ năng làm chủ bản thân: xác định và đạt được mục tiêu của bản

thân, quản lí thời gian, đảm nhận trách nhiệm, kiểm soát cảm xúc.
Kỹ năng sống về làm chủ bản thân: Kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức,
tự tin, xây dựng nhân cách, xác định giá trị cuộc sống (tơn trọng, hịa bình, hợp
tác, hạnh phúc, chân thật, nhân đạo, tình thương, trách nhiệm, giản dị, khoan
dung, tự do, đoàn kết)…
Cùng với các nội dung giáo dục kĩ năng sống là 12 giá trị của cuộc sống
cần giáo dục là: tơn trọng, hồ bình, hợp tác, hạnh phúc, chân thật, nhân đạo,
tình thương, trách nhiệm, giản dị , khoan dung, tự do và đoàn kết.
b. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS:
Lứa tuổi HS THCS bao gồm những em có độ tuổi từ 11 - 15 tuổi.
Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt
trong q trình phát triển của trẻ em.
Tuổi thiếu niên có vị trí đặc biệt quan trọng trong q trình phát triển của
cả đời người, được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: Đây là thời kỳ quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trường thành, thời
kỳ trẻ ờ "ngã ba đường " của sự phát triển. Trong đó có rất nhiều khả năng,
nhiều phương án, nhiều con đường để mỗi trẻ em trở thành một cá nhân. Trong
thời kỳ này, nếu sự phát triển được định hướng đúng, được tạo thuận lợi thì trẻ
em sẽ trở thành cá nhân thành đạt, công dân tốt. Ngược lại, nếu không được định
hướng đúng, bị tác động bởi các yếu tố tiêu cực thì sẽ xuất hiện hàng loạt nguy

12


cơ dẫn trẻ em đến bến bờ của sự phát triển lệch lạc về nhận thức, thái độ, hành
vi và nhân cách.
Thứ hai: Thời kỳ mà tính tích cực xã hội của trẻ em được phát triển mạnh
mẽ, đặc biệt trong việc thiết lập các quan hệ bình đẳng với người lớn và bạn
ngang hàng, trong việc lĩnh hội các chuẩn mực và giá trị xã hội, thiết kế tương
lai của mình và những kế hoạch hành động cá nhân tương ứng.

Thứ ba: Trong suốt thời kỳ tuổi thiếu niên đều diễn ra sự cấu tạo lại, cải tổ
lại, hình thành các cẩu trúc mới về thể chất, sinh lý, về hoạt động, tương tác xã
hội và tâm lý, nhân cách, xuất hiện những yếu tổ mới của sự trưởng thành. Từ
đó hình thành cơ sở nền tảng và vạch chiều hướng cho sự trưởng thành thực thụ
của cá nhân, tạo nên đặc thù riêng của lứa tuổi.
Thứ tư: Tuổi thiếu niên là giai đoạn khó khăn, phức tạp và đầy mâu thuẫn
trong quá trình phát triển.
Ngay các tên gọi của thời kỳ này: thời kỳ “quá độ", “tuổi khó khăn", “tuổi
khủng hoảng"... đã nói lên tính phức tạp và quan trọng của những quá trình phát
triển diễn ra trong lứa tuổi thiếu niên. Sự phức tạp thể hiện qua tính hai mặt của
hồn cánh phát triển của trẻ. Một mặt có những yếu tổ thức đẩy phát triển tính
cách của người lớn. Mặt khác, hoàn cánh sống của các em có những yếu tố kìm
hãm sự phát triển tính người lớn: Phần lớn thời gian các em bận học, ít có nghĩa
vụ khác với gia đình; nhiều bậc cha mẹ q chăm sóc trẻ, khơng để các em phải
chăm lo việc gia đình...
Ở lứa tuổi này: Các em cần tìm tịi, học hỏi cái mới, điều lạ khơng phân
biệt nó là tốt hay xấu. Chịu áp lực lớn trong thi cử dẫn đến dễ rơi vào trạng thái
tiêu cực ảnh hưởng tới sức khỏe ,tinh thần. Các em cần lựa chọn nghề nghiệp
phù hợp với năng lực của mình -> cần đưa ra quyết định đúng đắn, thích bộc lộ
cái tơi….
C. Cơng tác chủ nhiệm lớp:
Vì bên cạnh việc truyền đạt kiến thức cho học sinh cùng với gia đình thì
mỗi giáo viên chủ nhiệm cịn có một trọng trách cao cả là: “Dạy các em làm
người”. Tôi nhận thấy rằng: GVCN là người cha, người mẹ, người thầy, là người
anh, người chị, là một luật sư và cũng có những lúc cần là người bạn… Như vậy
có nghĩa là cùng một lúc GVCN là một diễn viên đa năng và có nhiều “vai diễn”
phải đặt mình vào rất nhiều vai và vai nào cũng địi hỏi phải hồn thành xuất
sắc... Hơn nữa trong cơng tác chủ nhiệm địi hỏi người giáo viên phải thực sự
tâm huyết yêu nghề, u người và có tình người coi học trị như người thân yêu
của mình.


13


Là giáo viên chủ nhiệm chúng ta phải làm gì để những HS của chúng ta
luôn là những bông hoa tươi đẹp, tỏa mãi hương thơm của tuổi học trò, tơi ln
trăn trở tìm các biện pháp có tính khả thi có hiệu quả trong cơng tác chủ nhiệm
để mong sao các em được phát triển toàn diện hơn.
Nhiệm vụ của GVCN trong việc giáo dục kỹ năng sống:
- Đưa giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động sinh hoạt chủ nhiệm. - Tự
khám phá bản thân - Tính năng động - Kỹ năng giải quyết vấn đề - Khả năng
phản hồi tích cực.
- Tạo điều kiện cho học sinh rèn luyện, coi trọng việc tự rèn luyện của học
sinh, khuyến khích và động viên kịp thời, quan tâm đến học sinh thuộc diện đặc
biệt (về kinh tế, về sự phát triển thể chất…)
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, làm cho họ nhận thức được tầm
quan trọng và cùng với nhà trường giáo dục và rèn luyện cho con em về kĩ năng
sống.
Thầy cô giáo chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết nối 3 mơi trường
giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
2.2 Cơ sở thực tiễn:
2.2.1 Thực trạng của vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở
Trường THCS Nguyễn Trung Trực:
Kể từ năm học 2008-2009, Bộ GD-ĐT nước ta đã phát động trong các
trường phổ thơng trên tồn quốc phong trào "Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực" nhằm mang lại cho học sinh cả nước một "mơi trường giáo
dục an tồn thân thiện, hiệu quả, phù hợp điều kiện địa phương và đáp ứng nhu
cầu xã hội". Hưởng ứng phong trào này, Trường chúng tơi có tập huấn về
chương trình giáo dục kỹ năng sống và bình đẳng giới và có đưa vào trong công

tác chủ nhiệm lớp hằng năm nhằm giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Qua nhiều năm công tác, thực hiện chuyên môn ở Trường THCS Nguyễn
Trung Trực, tôi thấy thực tế của vấn đề này là:
1. Về giáo viên:
Giáo viên chủ nhiệm nhận được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sắc của chi bộ
Đảng, của Ban Giám Hiệu, của Cơng đồn giáo dục cơ sở cùng sự giúp đỡ của
tất cả các ban ngành trong HĐSP nhà trường.

14


GV tham gia học tập nghiên cứu bồi dưỡng thường xuyên, được tập huấn
về giáo dục kĩ năng sống, dự giờ các tiết sinh hoạt lớp mẫu, các tiết hoạt động
ngồi giờ có hiệu quả…
Đội ngũ các thầy cơ giáo bộ mơn nhiệt tình, u nghề và trách nhiệm cao,
chun mơn vững vàng. Giáo viên có quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh lồng ghép trong các môn học, trong công tác chủ nhiệm, trong tiết
hoạt động ngoài giờ… nhưng chỉ nhắc nhở như thế cũng chưa đủ để các em ứng
xử các tình huống khó khăn, dễ gặp lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề
của bản thân trong học tập, cũng như trong cuộc sống .
2. Về học sinh
- Học sinh học tập còn thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cơ
giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động.
- Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống
trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gỗ lẫn
nhau.
- Có những học sinh ngoan hiền học giỏi, nhiệt tình nhưng tính tự tin thể
hiện khả năng của mình chưa cao, cịn rụt rè nhút nhát. Những em nghịch ngợm
lại có ý thức kém trong quan hệ bạn bè, thầy cơ, người lớn hơn mình, những
biểu hiện không đẹp trong giao tiếp học đường như sử dụng từ ngữ cục cằn,

tiếng lóng. Một số học sinh kỹ năng giao tiếp hạn chế, cịn nói tục, chửi bậy.
3. Về Phụ huynh:
Nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ
năng thực hành xã hội là do phụ huynh không cho phép. Đa số phụ huynh cho
rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức.
Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên
hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách
ứng xử trong gia đình.
Phần lớn ở gia đình phụ huynh giao tiếp trong gia đình cịn nhiều hạn chế,
xưng hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hơ thiếu thiện cảm.
4. Về phía nhà trường:
Nhà trường thường xuyên nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng giảng
dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, không ngừng đổi mới PPDH
phù hợp với nội dung chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc "Giáo dục
kỹ năng sống" cho học sinh. Nhà trường coi đây là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Chính vì thế ngay

15


sau khi Bộ Giáo dục đào tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào
các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường tiến hành triển
khai đồng bộ đến toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi thầy, cô giáo tâm huyết, trách
nhiệm hơn trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường, ngồi việc
lồng ghép vào các mơn học hàng ngày, hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong
những con đường giáo dục có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh. Chính vì thế ngồi việc xây dựng và hoàn thiện các quy tắc ứng xử văn

hóa trong nhà trường, bằng nhiều hình thức khác nhau nhà trường thường xuyên
tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa với các cuộc thi như "Thi làm lồng đèn
ngày hội trăng rằm", "Thi làm thiệp tri ân thầy cô 20/11", “Hưởng ứng ngày lễ
tồn cầu về giáo dục” trị chơi dân gian, trò chơi vận động,… tham gia các hoạt
động dọn vệ sinh bảo vệ môi trường, tổ chức các hoạt động quyên góp ủng hộ
bạn nghèo, bạn bị bệnh tật hiểm nghèo...Thông qua những hoạt động này, nhà
trường muốn rèn luyện cho các em học sinh tính đồn kết tập thể, khả năng làm
việc theo nhóm. Đồng thời xây dựng tinh thần chia sẻ, ý thức trách nhiệm cho
các em. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới và nâng cao
chất lượng giáo dục xem học sinh là trung tâm, góp phần tạo điều kiện cho việc
hoàn thiện nhân cách học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
2.2.2 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
- Về phía HS: chưa được trang bị các kỹ năng cần thiết để nhận thức về
bản thân và đối phó với các tình huống đến từ các mối quan hệ xã hội và sự biến
đổi tâm sinh lý của bản thân và sự biến đổi của mơi trường...
-Về phía gia đình: chưa nhận thức được đầy đủ về nhiệm vụ giáo dục đạo
đức cho HS, còn lơ là, chưa quan tâm đến các em, theo dõi các em, để giúp đỡ,
tạo điều kiện cho các em có thể phát triển một cách tồn diện những khả năng
của bản thân, phát triển trí tuệ và thể chất, để các em có cơ hội học tập và rèn
luyện KNS cho bản thân.
Nhiều phụ huynh chưa thật sự gương mẫu cho các em noi theo, cịn phó
mặc nhiệm vụ cho giáo viên và nhà trường.
- Về phía nhà trường: Có quan tâm đến cơng tác giáo dục KNS cho học
sinh, chưa đưa công tác này thành kế hoạch cụ thể, chưa có cơng tác tổ chức và
hướng dẫn thực hiện cho GV. GV thì chưa được trang bị đầy đủ về KNS và tầm
quan trọng của công tác giáo dục KNS cho HS.

16



- Về phía xã hội: ngày càng có nhiều tệ nạn xã hội nguy hiểm, các khu vui
chơi giải trí lành mạnh cho HS ít được đầu tư phát triển, nhiều tụ điểm không
lành mạnh mọc lên ngày càng nhiều,…
2.2.3 Thực trạng của lớp chủ nhiệm:
a.Thuận lợi:
* Giáo viên:
Giáo viên chủ nhiệm nhận được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sắc của chi bộ
Đảng, của Ban Giám Hiệu, của Công đoàn giáo dục cơ sở cùng sự giúp đỡ của
tất cả các ban ngành trong HĐSP nhà trường.
Trải qua công tác chủ nhiệm nhiều năm, nhiệt tình, yêu nghề và trách
nhiệm cao.
GV tham gia học tập nghiên cứu bồi dưỡng thường xuyên, được tập huấn
về giáo dục kĩ năng sống, dự giờ các tiết sinh hoạt lớp mẫu, các tiết hoạt động
ngồi giờ có hiệu quả…
*Học sinh:
Học sinh đến trường đúng giờ, khơng có tình trạng đi trễ.
Nhà các em nằm trên địa bàn của trường nên việc đi lại rất an toàn cho các em.
Các em đang ở lứa tuổi dễ uốn nắn.
Biết phối hợp với cô giáo chủ nhiệm rất tốt để xây dựng lớp học thân thiện.
b. Khó khăn:
Đầu năm 2018- 2019 tơi được Ban Giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm lớp 7/2 . Qua theo dõi, quan sát lớp chủ nhiệm mới của mình về cách
quan hệ, đối xử , cách tự giác thực hiện nhiệm vụ học tập, thực hiện nội quy, nề
nếp của lớp, của trường của các em thực sự còn lơ là, phó mặc…: nề nếp lớp
rất lộn xộn, kiến thức cơ bản đa số em còn chưa vững, bên cạnh đó cịn có một
số em rất lười học, ham chơi game, thường hay trốn học, khơng biết đó là
nhiệm vụ của người học sinh mà mình phải thực hiện, mặc dù giáo viên chủ
nhiệm đã cho các em học nội quy mà nhà trường đề ra, ảnh hưởng nhiều đến
kết quả thi đua của lớp.
Qua điều tra, thăm hỏi một số em, phần lớn các em chưa biết kỹ năng

sống là gì? những kỹ năng sống cần thiết trong học tập, trong cuộc sống của các
em đều khơng có
2.2.4 Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của tiết sinh
hoạt chủ nhiệm
17


+ Tổ chức các buổi sinh hoạt cuối tuần:
Hàng tuần giáo viên chủ nhiệm tiến hành tiết sinh hoạt vào tiết 5 thứ 7 .
Tiết sinh hoạt là thời gian giáo viên chủ nhiệm tiếp xúc , gần gũi nhất , nhiều
với lớp . Tuần nào giáo viên chủ nhiệm cũng thực hiện các bước:
Hoạt động 1: Tổ trưởng đánh giá từng mặt yếu kém, mặt mạnh của tổ.
Tuyên dương những bạn có điểm tốt, phê bình những học sinh vi phạm nội qui
trường lớp.
Hoạt động 2: Các học sinh sai phạm bị kiểm điểm, tự nhận xét, lần sau
thực hiện tốt hơn.
Hoạt động 3: Nhận xét của giáo viên chủ nhiệm
- Nêu ưu điểm

- Nêu khuyết điểm

- Nhắc nhở học sinh vi phạm khuyết điểm , thi hành kỉ luật đối với từng
học sinh vi phạm, học sinh vi phạm tự hứa khắc phục, chỉ trao đổi với phụ
huynh khi nào có học sinh mắc nhiều khuyết điểm.
Hoạt động 4: Xây dựng kế hoạch cho tuần tới
Hoạt động 5: Giải pháp thắc mắc của học sinh
Tôi thiết nghĩ, tiết sinh hoạt lớp đặt ở cuối mỗi tuần học, nếu giáo viên
chủ nhiệm chỉ thực hiện qua loa đại khái, thì dễ bị đánh mất mục tiêu, ý nghĩa và
nhiệm vụ quan trọng của tiết học, làm mất tác dụng vốn có của tiết học đó.
Nội dung giờ sinh hoạt lớp cịn khơ cứng, cứ lặp đi lặp lại, khơng thực sự

gắn với nhu cầu của học sinh. Hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp đơn điệu,
nhàm chán, không hứng thú với học sinh bởi các em không được cùng nhau tổ
chức, tham gia vào giờ sinh hoạt lớp, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
chỉ mang tính chất nhắc nhở.
Cịn giáo viên thì q nghiêm khắc, khơng gần gũi, thân thiện, khơng đặt
mình vào vị trí của học sinh để hiểu các em.
Trước thực trạng trên, có thể thấy, giờ sinh hoạt lớp đang gây sự nhàm
chán, áp lực, căng thẳng cho các em. Từ đó dẫn đến thực trạng học sinh chưa
quan tâm nhiều đến việc giáo dục kỹ năng sống, đưa đến kết quả chưa như ý của
chunngs ta, nếu có chỉ là điều bắt buộc của các em.
2.2.5. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của lớp chủ nhiệm:
- Các cuộc họp cha mẹ học sinh, phụ huynh ít tham gia đóng góp ý kiến, đi
họp khơng đầy đủ, đặc biệt là phụ huynh có con em cá biệt khơng bao giờ đi họp.

18


- Một số phụ huynh phải bươn chải cuộc sống, ít có điều kiện để quan
tâm, chăm sóc con cái. Đầu năm học, vở sách nhiều em cha mẹ chuẩn bị chưa
đầy đủ: em Vũ, em Vinh, em Tùng, em Viên…
- Môi trường sống, ảnh hưởng đế kĩ năng giao tiếp, một số học sinh kỹ
năng giao tiếp hạn chế, cịn nói tục, chửi bậy.
- Các em cịn sử dụng sách cũ đã ghi đầy đủ kết quả để học.
- Học sinh học tập còn thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cơ
giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười học tập. Đi học không chép thời
khóa biểu, một số em mang theo sách vở lộn xộn các môn học trong một buổi.
- Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống
trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gỗ lẫn
nhau. Nói chuyện với thầy cô, người lớn không lễ phép….
Qua thống kê, ban cán bộ xếp loại hạnh kiểm của 35 học sinh của lớp 7/2

và thống kê điểm các môn tốn, ngữ văn, mơn vật lý …đầu năm học như sau:
Mơn
học

Hạnh
kiểm
Tốn
Văn
Vật lí

Tổng số Giỏi (từ
học
8-> 10)
sinh
35
35
35
35

15
(loại T)
0
0
1

Khá
Trung
( từ
bình (từ
6.5-> 5-> dưới

dưới 8)
6.5)
13
7

Yếu (từ
3.5->
dưới 5)

8
6
5

15
17
20

12
12
9

kém

0
0
0

Trên
Tb


20
18
15

Kết quả học tập, hạnh kiểm của học sinh rất thấp.
2.3. Các biện pháp tiến hành để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
lớp 7/2 trường Trung học cơ sở Nguyễn Trung Trực:
2.3.1 Muốn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả thì người
giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện các nhiệm vụ chủ nhiệm thật tốt:
Người giáo viên chủ nhiệm là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo:
-Thứ nhất, người giáo viên chủ nhiệm phải có lịng u nghề mến trẻ, phải
am hiểu nắm bắt sâu sắc chủ trương đường lối giáo dục của Đảng và nhà nước
trong thời kì đổi mới, phải có niềm tin của các em. Chính niềm tin ấy sẽ tiếp
thêm nghị lực để giáo viên hồn thành tốt nhiệm vụ của mình.
-Thứ hai, là người giáo viên chủ nhiệm phải có chữ tín với phụ huynh học
sinh , phải khéo léo đối xử sư phạm mà biểu hiện cụ thể là phải tôn trọng và yêu
mến học sinh.
19


-Thứ ba, là người giáo viên chủ nhiệm phải là người có chun mơn vững
vàng.
-Thứ tư, là người giáo viên chủ nhiệm phải là tấm gương sáng cho các em
noi theo, phải là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho các em.
+ Giáo viên chủ nhiệm phải có trách nhiệm nắm vững tình hình học sinh
của lớp về mọi mặt , báo cáo cho Ban Giám hiệu theo định kì hoặc đột xuất nếu
có vấn đề gì cần giải quyết trong phạm vi quyền hạn của mình phải giải quyết
cơng bằng, khách quan quá trình rèn luyện tu dưỡng của từng học sinh .
+ Thực tế, đã cho tôi thấy nếu muốn hiểu trị thì để chúng được bày tỏ ý
kiến, người giáo viên phải biết lắng nghe những ý kiến của học sinh dù đó là

những ý kiến chưa đúng. Phải tạo được môi trường thân thiện giữa thầy và trị
thì học sinh mới có nhiều cơ hội và mạnh dạng bày tỏ những suy nghĩ của mình.
Biết nghe và chia sẽ với học sinh. Chuyện tưởng đơn giản là thế nhưng để làm
được việc đó, nếu khơng có tấm lịng thực sự u thương trẻ thì khơng thể làm
được.
+ Nghiên cứu nắm vững đường lối, quan điểm, lí luận giáo dục để vận
dụng vào công tác chủ nhiệm lớp. Đặc biệt cần nắm vững phương pháp, nghệ
thuật sư phạm.
+ Nghiên cứu đặc điểm gia đình và tâm lí từng học sinh để hiểu thêm
những nguyên nhân , yếu tố tích cực hoặc tiêu cực tác động đến các em để phân
loại nhóm học sinh theo đặc điểm học lực, tính cách, năng lực, hồn cảnh,…Từ
đó có giải pháp giáo dục thích hợp. Để làm được điều đó người giáo viên chủ
nhiệm cịn phải biết phân tích được ngun nhân, của các hiện trạng, đặc điểm
của từng học sinh.
Ví dụ: Đều là học sinh chưa hồn thành nhưng có em do trí tuệ chậm phát
triển, có em do hồn cảnh, điều kiện sống, có em do phân tán tư tưởng không tập
trung… Hay cùng một đối tượng học sinh chưa ngoan có em do ảnh hưởng bên
ngồi, có em do đua địi…
+ Muốn giáo dục được học sinh thì phải hiểu tâm tư tình cảm nguyện
vọng của các em. Nhưng làm thế nào để hiểu được điều ấy một cách tường tận?.
Tơi tự hứa với lịng mình phải cố gắng thật nhiều để làm tốt công tác chủ nhiệm
và tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho các em tự tin đến trường, phải đặc biệt
quan tâm, gần gũi hơn với những học sinh.
Nói tóm lại, giáo viên chủ nhiệm phải là người cơng dân gương mẫu có
lối sống lành mạnh, biết sống vì mọi người, khơng chỉ cần có cái “Tài” mà cịn
có cái “ Tâm” rất lớn, chỉ có như thế ta mới đáp ứng và thực hiện tốt yêu cầu

20



mà xã hội đã tín nhiệm giao phó. Thầy cơ giáo, cán bộ, phụ huynh phải gương
mẫu. Muốn con tốt thì cha mẹ phải tốt, muốn trị tốt thì giáo viên phải tốt. Bên
cạnh đó, cần tạo được mơi trường thân thiện, gia đình thân thiện, cộng đồng thân
thiện, trường học thân thiện.
1. Tìm hiểu, nắm bắt đối tượng học sinh của lớp chủ hiệm
Ngay sau khi nhận lớp chủ nhiệm, giáo viên cần tiến hành tìm hiểu, nắm
bắt thơng tin về đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm qua các kênh thông tin khác
nhau:
Điều tra qua học bạ năm học trước của học sinh, qua giáo viên chủ nhiệm
cũ; lập phiếu điều tra các thông tin cá nhân; tiến hành phân loại học sinh…
-Vì vậy trước tiên khi phụ trách một lớp tơi tìm hiểu học sinh qua các mặt.
+ Thành phần gia đình:
Học sinh có hồn cảnh khó khăn về kinh tế:
Hộ nghèo:03

Hộ cận nghèo: 01

Bước 1: Điều tra lí lịch học sinh qua phiếu Sơ yếu lí lịch vào tuần đầu tiên
của năm học mới với các nội dung sau:
Nắm được sơ yếu lý lịch từng học sinh
1. Họ và tên học sinh:…………………………………. Giới tính:………………..
2.Ngày……tháng…….năm sinh…………. Dân tộc:………… Tơn giáo…………
3.-Địa chỉ thường trú: Xóm…………..thơn……….xã……….huyện…………
- Số điện thoại của gia đình:……………………….
4. - Họ, tên cha:…………Nghề nghiệp:……… ……...Số điện thoại………………
- Họ, tên mẹ:…………Nghề nghiệp:………………Số điện thoại………………
5. Số anh……………chị…………….em………… trong gia đình.
6. Điều kiện kinh tế gia đình:……………………
7.- Xếp loại của năm trước ( năm học 2017-2018) :
-Học tập:…………..

-Hạnh kiểm
-Chức vụ đã làm ở năm học 2017-2018:……………………
8. Năng khiếu:………………………………….Sở thích……………………
9. Các bạn thân hiện nay:……………………

21


10. Chỉ tiêu phấn đấu của các em trong năm học này:………………
11. Em có ý kiến, đề nghị gì với GVCN và nhà trường:………………………
Tìm hiểu học sinh lớp chủ nhiệm qua nhiều khía cạnh khác:
Để kiểm tra độ chính xác của các thông tin mà tôi thu thập được qua phiếu
điều tra tơi cố gắng tìm hiểu thơng qua nhiều kênh khác nhau như từ bạn bè,
người quen, chính quyền địa phương, đến thăm gia đình một số học sinh…..
Bước 2: Phân loại đối tượng học sinh và các thông tin trên là căn cứ để
lựa chọn học sinh có năng lực, nhiệt tình vào Ban cán sự lớp, đồng thời cũng là
cơ sở để đưa ra những biện pháp phù hợp trong việc giáo dục học sinh lớp chủ
nhiệm.
Từ đó tơi có những hình thức, những biện pháp giáo dục linh hoạt phù
hợp với từng em bởi giáo dục khơng phải là một cơng thức chung có sẵn. Bên
cạnh đó tơi cịn trị truyện với GVCN của năm trước, liên hệ các GVBM trong
lớp cũng như giáo viên làm cơng tác Tổng phụ trách đội để có thêm những
thơng tin chính xác về các em.
2. Thực hiện cơng tác chủ nhiệm
a. Hoàn thiện tổ chức lớp
Cơ sở lựa chọn đội ngũ cán sự có thể căn cứ vào hồ sơ học bạ của học
sinh, căn cứ vào những thông tin cá nhân của học sinh mà giáo viên chủ nhiệm
đã thu thập được; căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp; sự nhiệt tình, năng nổ, ý
thức tổ chức kỷ luật, tính gương mẫu và các biểu hiện ban đầu của học sinh
trong tập thể lớp.

Giáo viên chủ nhiệm cần phân công nhiệm vụ cụ thể cho ban cán sự lớp.
Giáo viên có thể phân thêm tổ phó, bàn trưởng (có sự thay đổi luân phiên theo
từng tháng để phát huy tốt vai trò tự quản của học sinh.
Xây dựng dựng đội ngũ tự quản là nền tảng cho công tác chủ nhiệm và
cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối với giáo viên chủ nhiệm.
Khi đã tìm được đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm cần bồi dưỡng
học sinh ý thức trách nhiệm cao đối với lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình
và tự phê bình, phương pháp quản lý lớp.
 Tiến hành làm sổ chủ nhiệm
Làm sổ chủ nhiệm : Nó ghi lại kết quả học tập, những diễn biến trong lớp
trong suốt một năm học vì vậy khi làm sổ chủ nhiệm tôi thật thận trọng, tôi ghi
đầy đủ các chi tiết theo mẫu, trong đó tơi chú ý nhất là:

22


- Sơ đồ chỗ ngồi.
- Danh sách Ban tự quản của lớp .
- Tên giáo viên bộ môn (Địa chỉ - số điện thoại).
- Nội quy trường lớp.
- Theo dõi kết quả thi đua.
- Theo dõi học sinh cá biệt.
- Theo dõi mọi mặt từng học sinh theo định kỳ.
- Kiểm diện phụ huynh đi họp.
- Ngoài ra, Giáo viên chủ nhiệm cịn có sổ ghi chép cá nhân được xem là
nhật kí của lớp.
 Ổn định nề nếp, xây dựng lớp tự quản tích cực:
Ở lứa tuổi này, thiết nghĩa các em có thể phát huy khả năng tự quản, phát
huy trách nhiệm của bản thân, trong mọi công việc trên tinh thần dân chủ, tôi
luôn tôn trọng tin tưởng và giáo dục cho các em ý thức tự giác, tích cực phê bình

và tự phê bình. Kích thích tính tự trọng và tính đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ ở mỗi học sinh.
Để xây dựng một tập thể tự quản tốt, muốn ổn định nề nếp học tập thì cần
có đội ngũ tự quản của lớp năng động sáng tạo, trách nhiệm. Vì lẽ đó lớp bình
bầu Ban tự quản là một việc cần phải định hướng cho các em suy nghĩ tính tốn
bầu đúng bạn đúng việc.
Trong buổi sinh hoạt lớp đầu năm tôi đã làm các cơng việc sau:
- Tổ chức bình bầu trưởng Ban và phó Ban tự quản của lớp.
- Bầu cán bộ phụ trách lớp.
*Phân công nhiệm vụ cụ thể:
- Ban tự quản: Trong đó có lớp trưởng, lớp phó học tập. Theo dõi mọi
hoạt động của lớp điều khiển các tiết sinh hoạt hàng tuần, tổng hợp và báo cáo
kết quả thi đua về mọi mặt của lớp hàng tuần, hàng tháng, học kì, năm học và có
báo cáo cho giáo viên chủ nhiệm, để bình bầu qua các đợt kiểm tra.
- Trưởng ban lao động: Chịu trách nhiệm về mặt lao động vệ sinh của
lớp, phân công trực nhật.
- Trưởng ban văn thể: Tổ chức theo dõi, tham gia các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao do Tổng phụ trách Đội, do trường tổ chức.

23


-Ban cán sự bộ môn học tập: Nắm kết quả học tập của từng tổ viên giám
sát việc thực hiện nội quy học tập của lớp, báo cáo kết quả cho GVCN về tình
hình học tập của lớp.
b. Lập sơ đồ tổ chức lớp học
Khi sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh trong lớp, giáo viên không nên quá áp
đặt và cũng khơng đưa ra tiêu trí xếp nam, nữ ngồi cạnh nhau. Có thể dựa trên
các cơ sở: Tình trạng sức khỏe của học sinh; học lực và căn cứ vào nhiệm vụ của
ban cán sự lớp.

Lưu ý: Học sinh cần ngồi đúng theo sơ đồ lớp học dưới sự giám sát của
giáo viên bộ môn trong các tiết học, của bàn trưởng, tổ trưởng…
Giáo viên cần có sự điều chỉnh chồ ngồi của học sinh kịp thời nếu thấy
sự bất hợp lí theo phản ánh của chính bản thân học sinh, cán sự lớp, giáo viên bộ
mơn,…. ví dụ mất trật tự, không chú ý, nhận thức chậm.
*Sắp xếp chỗ ngồi:
Chú ý các em có nhu cầu về tai mắt.
Chú ý tới vóc dáng chiều cao, giới tính, học lực.
Chú ý những em có cùng khuyết điểm.
3. Xây dựng tiêu chí thi đua cụ thể:
Căn cứ vào đặc điểm tình hình lớp chủ nhiệm, tơi lập tiêu chí thi đua,
nội quy nhà trường, thảo luận và đề ra nội quy của lớp, mục tiêu cụ thể, các giải
pháp thực hiện rồi công bố trước lớp được tập thể học sinh nhất trí thơng qua và
xin ý kiến phụ huynh tại cuộc họp phụ huynh đầu năm. Sau đó thống nhất, đưa
ra cho tập thể lớp thực hiện, lấy đó làm cơ sở để xếp loại thi đua.
Có sự điều chỉnh và thay đổi, bổ sung kịp thời tùy theo tình hình thực hiện
nội quy, nề nếp và ý thức rèn luyện của học sinh.
Đề ra định mức khen thưởng và kỉ luật kịp thời thông qua cuộc họp phụ
huynh đầu năm, giữa năm,...
4. Học sinh rèn ý thức tự giáo dục bằng sổ tự cập nhật
Cùng với việc thực hiện, phát huy tác dụng của sổ liên lạc, sổ chủ nhiệm,
sổ ghi chép của lớp trưởng, lớp phó, cán sự bộ môn, tổ trưởng, giáo viên chủ
nhiệm công phu sáng tạo, biến quá trình quản lý, giáo dục thành q trình tự
giáo dục của trị bằng một loại sổ thật đơn giản, nhưng thật ý nghĩa.

24


Tơi lập một quyển sổ với tên “nhật kí học tập” và treo vào vị trí trang
trọng trong lớp. Ở sổ này, sau mỗi buổi học, học sinh có thành tích tốt và bị phê

bình, nhắc nhở tự ghi nhật ký, có chữ ký xác nhận của tổ trưởng.
Mỗi tuần, tôi tổng kết nhận xét, đánh giá, khen thưởng và phê bình, nhắc
nhở kịp thời.
5. Kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn
Nội dung phối hợp: Để dạy học có hiệu quả; để theo dõi, kiểm tra và đơn
đốc việc học tập của tập thể và cá nhân; tôi thường xuyên tập hợp ý kiến của
đồng nghiệp về lớp mình; trao đổi trực tiếp với đồng nghiệp về những vấn đề cụ
thể của lớp để cùng đưa ra giải pháp giáo dục thống nhất; đề xuất các ý kiến của
tập thể học sinh về công tác dạy và học với giáo viên có liên quan..
6. Kết hợp với Chi hội cha mẹ học sinh, gia đình học sinh:
Trao đổi với phụ huynh học sinh:
- Thường xuyên liên hệ, trao đổi với phụ huynh để cùng phối hợp giáo
dục, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh nhất là đối với những học sinh cá
biệt để nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện phát triển trí tuệ, năng lực.
- Tơi trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức như: có thể gặp trực
tiếp hoặc trao đổi qua điện thoại mỗi khi có sự cần trao đổi ngay, đôi khi chỉ là
những thăm hỏi việc học tập sinh hoạt của học sinh ở nhà để tìm nguyên nhân
học sa sút hay cùng nhau phối hợp để giúp học sinh tiến bộ.
- Thông qua các lần họp phụ huynh tơi lại có cơ hội được bày tỏ các làm
việc của mình trên lớp, thơng báo cụ thể tình hình học tập tốt của từng em về
mọi mặt để phụ huynh thấy ưu điểm còn tồn tại của học sinh tôi luôn gặp riêng
từng phụ huynh trao đổi, liên lạc qua điện thoại hoặc tôi ghi chép vào sổ liên lạc,
cuối tháng gửi về phụ huynh xem và kí vào đó. Đồng thời tơi cũng lắng nghe để
hiểu những tâm tư, nguyện vọng của họ cùng nhau bàn bạc thống nhát cách giáo
dục con em mình cho phù hợp.
- Tổ chức thăm hỏi, động viên gia đình học sinh có hồn cảnh đặc biệt
khó khăn và kiến nghị lên nhà trường giúp đỡ.
- Bầu ban đại diện phụ huynh học sinh: Nhiệt tình-có thời gian để giúp
giáo viên chủ nhiệm trong suốt năm học.
- Lấy số điện thoại của phụ huynh để liên lạc và lấy chữ kí mẫu để tránh

các trường hợp học sinh thay mặt cha mẹ tự tiện làm đơn nghỉ học.
- Ngồi ra, tơi có đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống của HS cho các
bậc phụ huynh vào những lần họp phụ huynh; cung cấp cho các bậc phụ huynh
25


×