Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

SKKN THCS giải pháp nâng cao hiệu quả trong tiết dạy các biện pháp tu từ ở môn ngữ văn 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.38 KB, 49 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài...............................................................................1
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu...................................................................2
4. Giả thuyết nghiên cứu:......................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................2
6. Phạm vi và giới hạn đề tài:................................................................................2
7. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................2
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.............................................................................2
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu...............................2
1. Cơ sở khoa học..................................................................................................2
2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................................3
Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu......................................................3
I . Đặc điểm tình hình............................................................................................3
1. Hiện trạng..........................................................................................................3
2. Quy trình thực hiện............................................................................................4
3. Những thuận lợi và khó khăn của hiện trạng...................................................5
II. NỘI DUNG GIẢI PHÁP................................................................................10
1. Mục tiêu của giải pháp....................................................................................10
2. Các bước thực hiện giải pháp:.........................................................................10
3. Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp........................................................36
4. Những thông tin cần được bảo mật:/...............................................................36
III. Những biện pháp, các bước cụ thể đã tiến hành áp dụng/áp dụng thử giải
pháp:....................................................................................................................37
IV. Hiệu quả thu được khi áp dụng giải pháp......................................................38
V. Kết luận và kiến nghị......................................................................................38
1. Ý nghĩa của giải pháp trong thực tiễn công tác...............................................38
2. Khả năng ứng dụng, triển khai của giải pháp..................................................38
3. Những bài học kinh nghiệm............................................................................39
4. Những đề xuất kiến nghị.................................................................................39


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:...........................................................41


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Đây là mơn học có
vai trị quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho HS.
Học tốt môn Ngữ văn sẽ tạo điều kiện cho các em học tốt hơn các bộ môn khác.
Phân môn tiếng Việt là một trong ba phân môn của môn Ngữ văn. Dạy
học tiếng Việt giúp HS phát triển năng lực giao tiếp, năng lực thẩm mỹ và năng
lực sáng tạo; hình thành và phát triển con người nhân văn; biết tiếp nhận, cảm
thụ, thưởng thức cái hay, cái đẹp; đánh giá các sản phẩm ngôn từ và các giá trị
cao đẹp trong cuộc sống.
Những năm gần đây, cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học,
vấn đề đổi mới PPDH đã được đặt ra một cách bức thiết. Trên tinh thần Nghị
quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, dạy học
theo chủ đề được xem là một bước đổi mới có tính đột phá. Theo đó, dạy học
phân mơn tiếng Việt theo các chủ đề là điều rất cần thiết.
Trong q trình dạy học phân mơn tiếng Việt, tơi nhận thấy HS, đặc biệt
là HS lớp 6 chưa có vốn từ phong phú, hiểu nghĩa của từ ngữ còn mơ hồ dẫn đến
tình trạng các em cịn viết sai chính tả, sai ngữ nghĩa và ít có HS dùng từ, đặt
câu cho hay. Khi dạy học các BPTT: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hốn dụ, tơi nhận
thấy HS hiểu khái niệm cịn chung chung, chưa đi sâu tìm hiểu giá trị biểu đạt và
vận dụng chưa linh hoạt các phép tu từ này vào đọc hiểu, tạo lập văn bản và
trong giao tiếp. Một số HS còn lẫn lộn giữa các BPTT nên hiểu sai, vận dụng
sai. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 6, tôi luôn trăn trở
làm thế nào để giúp các em khối lớp 6 hiểu và nắm bắt kiến thức về các phép tu
từ một cách dễ dàng, kĩ lưỡng. Chắc hẳn đó là vấn đề khơng chỉ riêng tơi mà rất
nhiều đồng nghiệp khác cũng đang quan tâm.
Bên cạnh đó, tơi thấy hiện nay chưa có một lý thuyết thật hệ thống và bài

bản về các phép tu từ (hay biện pháp tu từ) trong chương trình Ngữ văn 6. Trong
khi đó, việc dạy và học các bài về BPTT cịn khơng ít bất cập. Như vậy, tìm ra
biện pháp hiệu quả để dạy học các phép tu từ là thật sự cần thiết và có tính ứng
dụng cao. Nó có ý nghĩa như một sự chỉ dẫn bước đầu trong cơng việc giảng dạy
trên lớp.
Với những lí do trên, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: “Giải pháp nâng
cao hiệu quả trong tiết dạy các biện pháp tu từ ở môn Ngữ văn 6, trường
THCS Nguyễn Trung Trực”. Hy vọng rằng, những kinh nghiệm rút ra từ thực
tiễn giảng dạy của bản thân sẽ góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy
học các BPTT nói riêng và kết quả dạy học mơn Ngữ văn nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Xác định một số giải pháp chính trong tiết dạy các biện pháp tu từ để
nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Ngữ văn của nhà trường năm học 2020-2021
và những năm tiếp theo.
1


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu về những giải pháp nâng cao chất lượng bộ môn của học
sinh ở trường THCS.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- HS lớp 6 Trường THCS Nguyễn Trung Trực.
4. Giả thuyết nghiên cứu:
Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nhỏ nâng cao
hiệu quả giáo dục toàn diện trong trường THCS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật
giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Nghiên cứu thực trạng chất lượng bộ môn của học sinh của trường

THCS Nguyễn Trung Trực và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
- Đề xuất giải pháp: Lớp thực nghiệm (6/1) và lớp đối chứng (6/2).
6. Phạm vi và giới hạn đề tài:
- Xác định về nội dung: Nghiên cứu về những giải pháp để nâng cao hiệu
quả giảng dạy các tiết học về các biện pháp tu từ của trường THCS Nguyễn
Trung Trực năm học 2020-2021.
- Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ 12/10/2020 đến 12/01/2021
- Không gian nghiên cứu: Trường THCS Nguyễn Trung Trực,Vạn Ninh,
Khánh Hòa.
- Đối tượng khảo sát: Khảo sát thực trạng của HS tại trường THCS
Nguyễn Trung Trực,Vạn Ninh, Khánh Hòa trong những năm gần đây.
7. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- phương pháp quan sát.
- Phương pháp thuyết phục.
- Phương pháp rèn luyện.
- Phương pháp thúc đẩy.
- Phương pháp điều tra, đàm thoại , khảo sát thống kê, phân tích , xử lý số
liệu…
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
1. Cơ sở khoa học
2


Những năm gần đây, cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học,
vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được đặt ra một cách bức thiết. Trên
tinh thần Nghị quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, dạy học theo chủ đề được xem là một bước đổi mới có tính đột phá. Theo
đó, dạy học phân mơn tiếng Việt theo các chủ đề là điều rất cần thiết.

2. Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình dạy học phân môn tiếng Việt, tôi nhận thấy HS, đặc biệt
là HS lớp 6 chưa có vốn từ phong phú, hiểu nghĩa của từ ngữ cịn mơ hồ dẫn đến
tình trạng các em cịn viết sai chính tả, sai ngữ nghĩa và ít có HS dùng từ, đặt
câu cho hay. Khi dạy học các BPTT: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hốn dụ, tơi nhận
thấy HS hiểu khái niệm cịn chung chung, chưa đi sâu tìm hiểu giá trị biểu đạt và
vận dụng chưa linh hoạt các phép tu từ này vào đọc hiểu, tạo lập văn bản và
trong giao tiếp. Một số HS còn lẫn lộn giữa các BPTT nên hiểu sai, vận dụng
sai. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 6, tôi luôn trăn trở
làm thế nào để giúp các em khối lớp 6 hiểu và nắm bắt kiến thức về các phép tu
từ một cách dễ dàng, kĩ lưỡng. Chắc hẳn đó là vấn đề không chỉ riêng tôi mà rất
nhiều đồng nghiệp khác cũng đang quan tâm.
Bên cạnh đó, tơi thấy hiện nay chưa có một lý thuyết thật hệ thống và bài
bản về các phép tu từ (hay biện pháp tu từ) trong chương trình Ngữ văn 6. Trong
khi đó, việc dạy và học các bài về BPTT cịn khơng ít bất cập. Như vậy, tìm ra
biện pháp hiệu quả để dạy học các phép tu từ là thật sự cần thiết và có tính ứng
dụng cao. Nó có ý nghĩa như một sự chỉ dẫn bước đầu trong công việc giảng dạy
trên lớp.
Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
I . Đặc điểm tình hình
1. Hiện trạng
Quá trình dạy học các BPTT bản thân tơi cịn gặp những khó khăn như
sau:
*Đối với HS:
- Do điều kiện kinh tế còn thấp, sự quan tâm của cha mẹ HS chưa nhiều, ý
thức tự học của một bộ phận HS chưa tốt nên quá trình dạy học chưa đạt được
hiệu quả cao.
- Khi học các BPTT: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hốn dụ, các em chưa biết
cách tìm hiểu khái niệm các phép tu từ, chưa phân biệt được sự giống và khác
nhau giữa các BPTT nên dẫn đến hiểu chưa rõ, hiểu sai nội dung, giá trị nghệ

thuật của mỗi phép tu từ.
- Trong những bài kiểm tra tiếng Việt về BPTT, các em còn lúng túng khi
xác định các phép tu từ và phân tích ý nghĩa trong đoạn thơ, đoạn văn cụ thể.
- Tài liệu tham khảo của HS là hầu như khơng có, các em thường tham
khảo từ những cuốn sách giải, sách văn mẫu, Internet.
3


*Đối với GV:
- Khi dạy các phép tu từ, tôi cịn gặp khó khăn như: thời lượng lên lớp
khơng đủ để giúp HS hiểu rõ và khắc sâu kiến thức nên chỉ hướng dẫn HS một
cách chung chung, mơ hồ, chưa rèn luyện được kĩ năng nhận diện, phân tích
phép tu từ cho HS.
- Tài liệu tham khảo về mảng BPTT trong nhà trường cịn hạn chế (chỉ có
sách giáo viên và sách chuẩn kiến thức – kĩ năng), gây khó khăn cho GV khi cần
tra cứu, tham khảo. Chưa có tài liệu hướng dẫn về PPDH các BPTT. Đa số các
GV thường sử dụng các giáo án tham khảo trên Internet.
Lý luận dạy học đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về các BPTT như:
+ Nguyễn Thái Hòa với cơng trình “Phân tích phong cách học” (năm
1983).
+ Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hịa với cơng trình “Phong cách học
tiếng Việt” (năm 1995).
+ Đinh Trọng Lạc với cơng trình “99 phương tiện tu từ và biện pháp tu từ
tiếng Việt” (năm 2000).
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thường chỉ chú trọng tìm hiểu ở mức độ
ngơn ngữ học, khái quát những kiến thức lí luận nền tảng. Ở các cơng trình nêu
trên, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu, khái quát về biện pháp tu từ tiếng Việt
thuộc 5 cấp độ: tu từ học từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp, văn bản, ngữ âm – văn tự,
chưa tác giả nào đi sâu vào việc định hướng giảng dạy các bài học về BPTT
trong nhà trường THCS. Thực hiện đề tài này, tôi sẽ kế thừa những vấn đề lí

thuyết mà các nhà ngơn ngữ học đã dày cơng nghiên cứu. Trên nền tảng lí luận
đó tơi tiến hành đưa ra giải pháp và thiết kế các bài giảng về BPTT.
2. Quy trình thực hiện
Để thuận lợi cho việc nghiên cứu của mình, tơi chọn HS lớp 6 trường
THCS Nguyễn Trung Trực làm đối tượng nghiên cứu. Các lớp được lựa chọn
tham gia nghiên cứu là 6/1, 6/2 (năm học 2018 – 2019).
- Về sỉ số, tỉ lệ giới tính của HS hai lớp:
Lớp 6/1
Lớp 6/2

Sĩ số
33
34

Nam
15
15

Nữ
18
19

- Về ý thức học tập: Đa số các em ở hai lớp đều khá tích cực, thành tích
học tập của hai lớp 6 tương đương nhau.
- Kết quả học tập môn Ngữ Văn của 2 lớp trong năm học 2018- 2019:
Lớp
6/1

Học lực (HS)
Giỏi: 4

Khá: 11
Trung bình: 13
4

Tỉ lệ (%)
12.12
33.33
39.39


Yếu: 5
Kém: 0
Giỏi: 3
Khá: 10
Trung bình: 14
Yếu: 6
Kém: 1

6/2

15.15
0
8.82
29.41
41.17
17.64
2.94

Qua khảo sát, tôi nhận thấy:
- Về kiến thức: Chất lượng HS giỏi khá khơng nhiều. Đa số là HS trung

bình, yếu, thậm chí là HS kém nên nhiều em nắm bắt kiến thức và vận dụng
cịn chậm, khơng hiệu quả.
- Về kĩ năng: Số HS tiếp thu nhanh nhạy cịn ít.
+ 20% hiểu khái niệm và nhận diện được BPTT.
+ 50 % hiểu khái niệm nhưng nhận diện còn chậm.
+ 20% hiểu khái niệm mơ hồ và không nhận diện được.
+ 10% khơng biết gì.
3. Những thuận lợi và khó khăn của hiện trạng
3.1. Phân bố các bài về BPTT trong chương trình SGK Ngữ văn lớp 6:
Theo định hướng tích hợp với chương trình tiếng Việt ở Tiểu học,
chương trình Ngữ văn lớp 6 đã đưa vào giảng dạy các bài về BPTT cụ thể
như sau:
Lớp
Lớp
6,
tập
2

Tuần,
bài
Tuần
20, bài
19

Tiết

Tên bài

78


SO
SÁNH

Mục tiêu bài học

Trang

Kiến thức: nắm được khái
niệm so sánh, cấu tạo của
phép so sánh, các kiểu so
sánh thường gặp.
Kĩ năng: nhận diện và phân
tích được các kiểu so sánh đã
dùng trong văn bản, chỉ ra
được tác dụng của các kiểu so
sánh đó.

24

5


Tuần
22, bài
21

86

SO
SÁNH

(tt)

Tuần
23, bài
22

91

NHÂN
HĨA

Tuần
24, bài
23

95

ẨN DỤ

Tuần
26, bài
24

101

HỐN
DỤ

Kiến thức: nắm được các kiểu
so sánh cơ bản và tác dụng

của so sánh trong nói và viết.
Kĩ năng: đặt câu có sử dụng
phép tu từ so sánh theo hai
kiểu cơ bản; phát hiện sự
giống nhau giữa các sự vật để
tạo ra được những so sánh
đúng, so sánh hay.
Kiến thức: nắm được khái
niệm nhân hóa, các kiểu nhân
hóa, tác dụng của phép nhân
hóa.
Kĩ năng: nhận biết và bước
đầu phân tích được giá trị của
phép tu từ so sánh; sử dụng
được phép nhân hóa trong nói
và viết.
Kiến thức: nắm được khái
niệm ẩn dụ, các kiểu ẩn dụ,
tác dụng của phép ẩn dụ.
Kĩ năng: bước đầu nhận biết
và phân tích được ý nghĩa
cũng như tác dụng của phép
tu từ ẩn dụ trong thực tế sử
dụng tiếng Việt; bước đầu tạo
ra được một số kiểu ẩn dụ
đơn giản trong nói và viết.
Kiến thức: nắm được khái
niệm hốn dụ, các kiểu hoán
dụ, tác dụng của phép hoán
dụ.

Kĩ năng: nhận biết và phân
tích được ý nghĩa cũng như
tác dụng của phép tu từ hoán
dụ trong thực tế sử dụng tiếng
Việt; bước đầu tạo ra được
một số kiểu hoán dụ trong nói
và viết.

41

56

68

82

3.2. Nhận xét sự phân bố các bài về BPTT trong chương trình SGK
Ngữ văn lớp 6
- Về số lượng bài học các BPTT:
6


Bảng thống kê trên cho thấy số lượng bài học PCH phân bố ở các lớp 6 là
khá hợp lí: 5/17 bài trong học kì II.
Sự phân bố trên dựa trên định hướng tích hợp. Chủ yếu là tích hợp ngang
theo nguyên tắc đồng quy: Văn bản – Tiếng Việt – Tập làm văn.
*Ví dụ: Trong chương trình Ngữ văn 6 tập 2, bài 19, các em đọc – hiểu
văn bản Sơng nước Cà Mau (Đồn Giỏi). Ngay sau đó, các em học TV bài So
sánh, lấy ngữ liệu trong văn bản Sơng nước Cà Mau để phân tích, hình thành
khái niệm so sánh và luyện tập:

+ Phần I, ví dụ 1. b) […] trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất
như hai dãy trường thành vô tận.
+ Phần luyện tập: bài tập 3: Hãy tìm những câu văn có sử dụng phép so
sánh trong các bài Bài học đường đời đầu tiên và Sông nước Cà Mau.
Sau đó, các em thực hành những kiến thức vừa học về phép so sánh trong
phần TLV: Quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả.
*Ví dụ: Trong chương trình Ngữ văn 6, tập 2, bài Ẩn dụ có sự tích hợp
với bài So sánh:
+ Phần I, 2. Cách nói này có gì giống và khác với phép so sánh?
+ Phần luyện tập: bài tập 1: So sánh đặc điểm và tác dụng của ba cách
diễn đạt sau:
Cách 1:

Bác Hồ mái tóc bạc

Đốt lửa cho anh nằm
Cách 2:

Bác Hồ như Người Cha (=>phép so sánh)

Đốt lửa cho anh nằm
Cách 3:

Người Cha mái tóc bạc (=>phép ẩn dụ)

Đốt lửa cho anh nằm
Trong bài Hốn dụ có sự tích hợp với bài Ẩn dụ: bài tập 2: Hoán dụ có gì
giống và có gì khác ẩn dụ? Cho ví dụ minh họa.
- Về nội dung dạy học BPTT ở lớp 6:
+Nội dung kiến thức:

Nội dung kiến thức ở các bài BPTT lớp 6 đều chú trọng giảm lí thuyết,
tăng thực hành, chú trọng rèn luyện kĩ năng cho HS. Các đơn vị kiến thức lí
thuyết ngắn gọn, tương đối dễ hiểu.
*Ví dụ: trong chương trình Ngữ văn 6, tập 2, bài Nhân hóa, khái niệm
phép NH như sau: Nhân hóa là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật…bằng những
từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người.
Tác dụng của phép NH như sau: làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật,…trở
nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người.
7


Hầu hết các bài PCH tiếng Việt lớp 6 nói riêng và phân mơn tiếng Việt nói
chung đều được thiết kế theo kết cấu sau: tìm hiểu khái niệm => tìm hiểu tác
dụng => tìm hiểu các kiểu, các dạng của PTT => luyện tập.
Trên tinh thần tích hợp và đổi mới PPDH, chương trình SGK đã sử dụng
những ngữ liệu mang tính chất tham khảo cao hơn là tính chất khuôn mẫu. Các
ngữ liệu này được lấy từ những văn bản HS vừa đọc – hiểu, mang tính chất định
hướng cho GV và HS phân tích, hình thành kiến thức. Tuy nhiên, hầu như mỗi
đơn vị kiến thức, các nhà biên soạn SGK chỉ đưa ra một ví dụ điển hình. Đơi khi
ngữ liệu cịn q ít, khó hình thành khái niệm ngay cho HS, buộc GV phải đưa
thêm ngữ liệu để giúp HS dễ dàng rút ra những đơn vị kiến thức cần nhớ.
*Ví dụ: Hai bài Ẩn dụ và Hốn dụ (chương trình Ngữ văn 6, tập 2) là hai
bài với những đơn vị kiến thức tương đối trừu tượng, khó hiểu và dễ gây nhầm
lẫn cho HS. Để hình thành khái niệm, mỗi bài chỉ có một ví dụ:
+Bài Ẩn dụ: 1. Trong khổ thơ dưới đây, cụm từ Người Cha được dùng để
chỉ ai? Vì sao có thể ví như vậy?
Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm

(Minh Huệ)
2. Cách nói này có gì giống và khác với phép so sánh?
+Bài Hoán dụ: 1. Các từ ngữ in đậm trong câu thơ sau chỉ ai?
Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.
(Tố Hữu)
2. Giữa áo nâu, áo xanh, nông thôn, thị thành với sự vật được chỉ có mối
quan hệ như thế nào?
3. Hãy nêu tác dụng của cách diễn đạt này?
+ Bài tập thực hành:
Sau khi hình thành các đơn vị kiến thức cần nhớ, HS sẽ thực hành kiến
thức vừa học với hệ thống bài tập khoảng 3 – 4 bài. Hệ thống bài tập này được
sắp xếp từ dễ đến khó, từ mức độ nhận biết, thơng hiểu đến vận dụng cao.
*Ví dụ: trong chương trình Ngữ văn 6, tập 2, bài So sánh (tt):
+Bài tập 1: mức độ phát hiện, nhận biết: Chỉ ra các phép so sánh trong những
khổ thơ, cho biết chúng thuộc những kiểu so sánh nào, phân tích tác dụng.

8


+Bài tập 2: mức độ thông hiểu: Nêu những câu văn có sử dụng phép so
sánh trong bài Vượt thác (tích hợp với phân mơn Văn); em thích hình ảnh so
sánh nào? Vì sao?
+Bài tập 3: mức độ vận dụng cao: Dựa theo bài Vượt thác, hãy viết một
đoạn văn từ ba đến năm câu tả dượng Hương Thư đưa thuyền vượt qua thác dữ;
trong đoạn văn có sử dụng cả hai kiểu so sánh đã được giới thiệu.
Tóm lại, nội dung dạy học BPTT trong chương trình mơn Ngữ văn lớp 6
là khá hợp lí, đáp ứng được mục tiêu chung của môn Ngữ văn và phân môn
tiếng Việt nói riêng, đảm bảo được các nguyên tắc dạy học tiếng Việt. Các bài
BPTT trong chương trình mơn Ngữ văn lớp 6 đã được thiết kế trên tinh thần tích

hợp, tăng cường thực hành, giảm tối đa lí thuyết, chú trọng rèn luyện kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết có hiệu quả cho HS.
Tuy nhiên, theo tơi, việc bố trí các bài Ẩn dụ, Hoán dụ ở lớp 6 là chưa
hợp lí, nội dung kiến thức vượt quá sự hiểu biết của các em vì các em vừa từ bậc
Tiểu học lên, tư duy trừu tượng chưa thật sự tốt, nên phân bố những bài này vào
học kì I của lớp 7. Mặt khác, chương trình SGK chưa có tiết luyện tập cho các
bài về BPTT. Chỉ có tiết lí thuyết kết hợp thực hành là không đủ.
3.3. Những thuận lợi và khó khăn của hiện trạng
+ Thuận lợi:
Mơn Ngữ văn là mơn quan trọng trong các chương trình học và các kỳ
thi hiện nay. Dạy và học môn Ngữ văn có những điểm thuận lợi như sau:
Về phía học sinh: tiếng Việt là ngôn ngữ dân tộc nên đa số HS đều có
sẵn vốn từ, từ đó dễ dàng tiếp nhận bài học; có chú ý phát biểu ý kiến xây dựng
bài, chuẩn bị bài tương đối đầy đủ trước khi đến lớp.
Về phía giáo viên:
- Được Sở Giáo dục và Đào tạo Khánh Hồ cũng như Phịng Giáo dục
(PGD) và Đào tạo Vạn Ninh tổ chức tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ hằng năm.
- Được nhà trường trang bị cơ sở vật chất đảm bảo cho việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học.
- Chỉ đạo của PGD, Ban giám hiệu, chuyên môn nhà trường luôn sát sao
và chặt chẽ về công tác đổi mới PPDH, thường xuyên tổ chức dự giờ thăm lớp,
góp ý xây dựng giờ dạy chuẩn để GV học tập rút kinh nghiệm.
- Trường có phổ biến các tài liệu về đổi mới PPDH rộng rãi trong hội
đồng sư phạm nhà trường để GV nghiên cứu vận dụng.
- Hiện nay tài liệu tham khảo khá phong phú nên khá thuận lợi trong
công tác tìm tịi nghiên cứu, giảng dạy của giáo viên.
+ Khó khăn:
Về phía giáo viên:
9



- Việc đổi mới PPDH chưa đồng bộ, một số GV còn sử dụng nhiều các
phương pháp truyền thống khiến giờ học trở nên khô khan, nhàm chán, HS
tham gia học bài một cách chiếu lệ. Bản thân có vận dụng PPDH tích cực trong
giờ học song chưa đạt hiệu quả cao, cịn hình thức.
- Một số GV lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên và sách
chuẩn kiến thức – kĩ năng, ngại tìm tịi, sáng tạo khiến HS “học những cái đã
biết” từ sách giải nên chưa cuốn hút được HS. Lại có một số GV ơm đồm, đưa
q nhiều ví dụ khó, khiến HS khơng tiếp thu được.
Về phía học sinh:
- Vì trình độ kiến thức của HS không đồng đều, số HS hỏng kiến thức từ
bậc tiểu học là không nhỏ, nên việc tiếp thu các bài PCH cũng không đồng đều.
Các em hiểu bài sẽ cảm thấy hứng thú; các em mất căn bản, không hiểu bài dẫn
đến chán nản, lười học.
- Các em cịn thụ động, ngại thực hành, khơng chịu khó tư duy trước
những bài tập nâng cao. Gặp các bài tập khó, địi hỏi tư duy tổng hợp các em
thường bỏ qua khơng làm hoặc làm khơng chính xác.
- Khi chuẩn bị bài ở nhà hoặc khi làm bài tập, hầu hết các em thường tiến
hành qua loa, sơ sài, tham khảo từ những quyển sách Văn mẫu, sách giải, thậm chí là
sách giáo viên. Lên lớp, các em tham gia xây dựng bài một cách máy móc theo bài
đã chuẩn bị.
Để giải quyết những khó khăn của hiện trạng, sáng kiến này sẽ là giải
pháp thiết thực, cần thiết trong công tác dạy học môn Ngữ văn trong nhà
trường, nhất là các bài về BPTT.
II. NỘI DUNG GIẢI PHÁP
1. Mục tiêu của giải pháp
Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và thực tiễn việc dạy học BPTT trong chương
trình Ngữ văn lớp 6, đề tài đi sâu nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp dạy học
các bài về BPTT theo hướng tích cực. Qua đó giúp GV có được những định

hướng cần thiết để triển khai dạy học các bài về phép tu từ hiệu quả hơn, từ đó
góp phần nâng cao hiệu quả học tập mơn Ngữ văn.
Mô tả bản chất giải pháp
Sáng kiến: “Giải pháp nâng cao hiệu quả trong tiết dạy các biện pháp
tu từ ở môn Ngữ văn 6, trường THCS Nguyễn Trung Trực” của tôi thuộc
loại giải pháp tác nghiệp.
2. Các bước thực hiện giải pháp:
2.1. Tìm hiểu các khái niệm:
* Khái niệm biện pháp tu từ:
Theo Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa, “Biện pháp tu từ là những
cách phối hợp sử dụng trong hoạt động lời nói các phương tiện ngơn ngữ (không
10


kể trung hòa hay diễn cảm) để tạo ra hiệu quả tu từ (tức tác dụng gợi hình, gợi
cảm, nhấn mạnh, làm nổi bật…) do sự tác động qua lại của các yếu tố trong một
ngữ cảnh rộng. Các biện pháp tu từ được chia ra các biện pháp tu từ từ vựng,
ngữ nghĩa, cú pháp, văn bản. (Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hịa, 1999, tr 61)
Có thể nói, cái làm nên sự kì diệu của ngơn ngữ đó chính là các BPTT.
*Các loại biện pháp tu từ:
Về phân loại BPTT, đa số các nhà nghiên cứu đều chia thành 5 loại, bao gồm:
 Các biện pháp tu từ ngữ âm
 Các biện pháp tu từ từ vựng
 Các biện pháp tu từ cú pháp
 Các biện pháp tu từ văn bản
 Các biện pháp tu từ ngữ nghĩa
Các bài dạy về BPTT trong chương trình Ngữ văn THCS chủ yếu thuộc
mảng các BPTT ngữ nghĩa. Vì vậy, tơi sẽ đi sâu tìm hiểu các BPTT ngữ nghĩa.
*Các BPTT ngữ nghĩa:
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hịa, có thể chia các BPTT

ngữ nghĩa thành 3 tiểu nhóm (mỗi nhóm có một phương thức tiêu biểu):
+Nhóm so sánh tu từ
+Nhóm ẩn dụ tu từ
+Nhóm hốn dụ tu từ
- Nhóm so sánh tu từ (nhóm tỉ dụ)
So sánh (SS) là đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác dựa trên những
nét tương đồng giữa hai sự vật nhằm gợi ra hình ảnh cụ thể, sinh động.
SGK Ngữ văn 6, tập 2, định nghĩa phép SS như sau: So sánh là đối chiếu sự
vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình,
gợi cảm cho sự diễn đạt. Sách giáo viên Ngữ văn 6, tập 2 giải thích rõ hơn về khái
niệm SS: So sánh, trước hết là thao tác của tư duy logich: đem sự vật này đối chiếu
với sự vật khác để tìm ra sự tương đồng hoặc đối lập giữa chúng. Do vậy, so sánh có
giá trị đối với q trình nhận thức, đem cái chưa biết đối chiếu với cái đã biết để qua
cái đã biết mà nhận thức, hình dung được cái chưa biết.
Đinh Trọng Lạc nêu khái niệm so sánh khái qt hơn: So sánh (cịn gọi:
so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người
ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với
nhau hồn tồn mà chỉ có một số nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình
ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng. (Đinh Trọng Lạc, 2000, tr 154)
Ví dụ:

Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
11


(Hồ Chí Minh)
Tác giả SS trẻ em với hình ảnh búp trên cành. Cả hai đối tượng này có
điểm tương đồng là đều tươi non, đầy sức sống và chứa chan hi vọng.
Cấu tạo của một phép SS thông thường có thể khái quát như sau:

Bảng tóm tắt cấu tạo phép SS:
Yếu tố 1:
cái so sánh
Cô ấy

Yếu tố 2:
cơ sở so sánh
cần mẫn

Yếu tố 3:
từ so sánh
như

Yếu tố 4:
cái được so sánh
con ong làm mật cho đời

Tuy nhiên không phải lúc nào một phép SS cũng cần đầy đủ 4 yếu tố trên.
Theo Đinh Trọng Lạc trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, thực tế
có nhiều SS khơng đầy đủ các yếu tố. Trong đó:
+SS vắng yếu tố 2 được gọi là so sánh chìm. Ví dụ:
Thân em như quế giữa rừng
Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay
(Ca dao)
SS chìm tạo điều kiện cho sự liên tưởng rộng rãi hơn so sánh nổi. Nó kích
thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn.
+SS vắng yếu tố 2 và 3 là SS sử dụng chỗ ngắt giọng và hình thức đối
chọi. Ví dụ:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt

(Xuân Diệu)
Về từ so sánh, trong SS tu từ, ta có thể sử dụng các từ so sánh: như, tựa
như, chừng như, bao nhiêu…bấy nhiêu, càng…càng, là… Nếu thay là bằng như
thì nội dung cơ bản khơng thay đổi, chỉ thay đổi về sắc thái ý nghĩa: từ sắc thái
khẳng định chuyển sang sắc thái giả định.
Cần chú ý phân biệt SS tu từ và SS logic (so sánh luận lí). Dù đều là thao
tác đối chiếu giữa hai hay nhiều đối tượng với nhau nhưng hai loại SS này lại có
sự khác nhau về chất. Nếu SS tu từ là sự đối chiếu giữa các đối tượng khác loại
thì SS luận lí là sự đối chiếu giữa các đối tượng cùng loại. Nếu SS tu từ nhằm mục
đích gợi lên một cách hình ảnh đặc điểm giữa các đối tượng từ đó tạo nên xúc cảm
thẩm mĩ trong nhận thức của người tiếp nhận thì SS luận lí đơn thuần chỉ cho ta
thấy sự ngang bằng hay hơn kém giữa các đối tượng đấy mà thôi. Ví dụ:
So sánh tu từ
- Ðơi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc,như đèn mới khêu.
- Ðứt tay một chút chẳng đau
Xa nhau một chút như dao cắt
12

So sánh luận lí
- Khơi đã cao bằng mẹ.
- Con hơn cha là nhà có phúc.
- Nam học giỏi như Bắc.


lịng.
Trong lời nói hàng ngày, dân gian vẫn thường sử dụng những cách nói ví
von rất hay và giàu hình ảnh qua việc vận dụng phép SS một cách sáng tạo trong
thành ngữ, tục ngữ. Ví dụ: gầy như cị hương, hiền như bụt, nhăn như khỉ,…
- Nhóm ẩn dụ

Nhóm ẩn dụ tu từ bao gồm các tiểu phương thức chuyển nghĩa lâm thời
sau đây: ẩn dụ; ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (ẩn dụ bổ sung); nhân hóa; vật hóa;
phúng dụ. Tơi chỉ trình bày các khái niệm có liên quan đến việc giảng dạy BPTT
ở nhà trường THCS.
+ Ẩn dụ
Ẩn dụ (ÂD) thực chất là so sánh ngầm, trong đó cái so sánh được ẩn đi,
chỉ có cái được so sánh. Như vậy, ÂD là phương thức chuyển nghĩa của một đối
tượng này thay cho một đối tượng khác dựa trên mối quan hệ tương đồng giữa
hai đối tượng.
Đinh Trọng Lạc định nghĩa: Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa
hình tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc
tưởng tượng ra) giữa khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính chất) A được
định danh với khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính chất) B có tên gọi
được chuyển sang dùng cho A. (Đinh Trọng Lạc, 2000, tr 52).
SGK Ngữ văn 6, tập 2 đưa ra khái niệm ÂD như sau: Ẩn dụ là gọi tên sự
vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó
nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ví dụ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
(Viễn Phương)
Mặt trời trong câu thơ thứ hai là một ẩn dụ. Tác giả dùng mặt trời để chỉ
Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc – Người (như mặt trời) soi sáng, dẫn
đường chỉ lối cho dân tộc ta thốt khỏi cuộc sống nơ lệ tối tăm, đi tới tương lai
độc lập, tự do, hạnh phúc.
Cùng nói về hình ảnh Hồ chủ tịch vĩ đại nhưng nhà thơ Viễn Phương ví
Bác như Mặt Trời, cịn Tố Hữu lại ví Bác như vị cha chung, sao Bắc đẩu, vầng
Thái Dương.
Như vậy, ÂD tu từ mang tính chất lâm thời, mang đậm dấu ấn cá nhân của
người sáng tác. Muốn phân tích được ẩn dụ, hiểu được cái hay, cái hàm súc của

ẩn dụ, phải đi từ ngữ cảnh, từ ngữ ÂD (B) tìm đến được sự vật, sự việc được SS
(A).
Cũng theo SGK Ngữ văn 6, tập 2, ÂD có 4 kiểu thường gặp, đó là:
+Ẩn dụ hình thức
13


+Ẩn dụ cách thức
+Ẩn dụ phẩm chất
+Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (còn gọi là ẩn dụ bổ sung) là sự thay thế một
cảm giác này bằng một cảm giác khác trong nhận thức cũng như trong diễn đạt
bằng ngôn ngữ. Đây là một trong những kiểu ÂD khó nhận biết và tạo lập đối
với HS THCS.
Ví dụ:
“Chao ơi, trơng con sơng, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” (Nguyễn Tuân)
Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác sang vị giác. “Nắng” là hiện
tượng tự nhiên thường được cảm nhận bằng mắt, cịn “giịn tan” là cảm nhận của
vị giác mang tính chất rất giịn. Tạo ra hình ảnh ÂD độc đáo “nắng giịn tan”,
Nguyễn Tn đã lột tả được hình ảnh con sông một cách đầy bất ngờ và sinh
động.
Ẩn dụ bổ sung có nguồn gốc từ ngơn ngữ sinh hoạt hằng ngày, qua cách
nói dân dã kiểu như: nghe ngọt xớt, giọng nói bùi tai…
+ Nhân hóa
SGK Ngữ văn 6, tập 2 định nghĩa: Nhân hóa là gọi hoặc tả con vật, cây
cối, đồ vật,… bằng những từ vốn dùng để gọi hoặc tả con người, làm cho thế
giới cây cối, đồ vật, con vật,…trở nên gần gũi với con người, biểu đạt được
những suy nghĩ, tình cảm của con người.
Tác giả Đinh Trọng Lạc cho rằng: Nhân hóa (cịn gọi là nhân cách hóa) là

một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính,
dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng khơng
phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu
hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của
mình. (Đinh Trọng Lạc, 2000, tr 63)
Có các kiểu NH sau đây:
+ Dùng những từ ngữ vốn gọi người để gọi vật. Ví dụ:
“Từ đó, lão Miệng, bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay lại thân mật sống
với nhau, mỗi người một việc, không ai tị nạnh ai cả” (Chân, Tay, Tai, Mắt,
Miệng)
Các từ: lão, bác, cô, cậu vốn được dùng để gọi người nay được dùng để
gọi các vật: miệng, tai, mắt, chân, tay.
+ Dùng từ xưng hơ với người để xưng hơ với vật. Ví dụ:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
14


(Ca dao)
“Núi cao chi lắm núi ơi?
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương”
(Ca dao)
+ Dùng từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động, tính
chất của vật. Ví dụ:
“Ơng trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Kiến hành qn
Đầy đường”
(Trần Đăng Khoa)

Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cây tre bá vai nhau thì thầm đứng học
Ðàn cị trắng
Khiêng nắng qua sông.
(Trần Ðăng Khoa)
Cần lưu ý, NH chỉ có thể được hiện thực hóa trong một ngữ cảnh nhất
định. Vì vậy khi phân tích các hình ảnh NH, ta cần đặt chúng trong mối tương
quan với ngữ cảnh.
- Nhóm hốn dụ
Nhóm hốn dụ tu từ bao gồm các tiểu phương thức chuyển nghĩa sau đây:
hoán dụ, cải dung, cải danh, cải số, tượng trưng. Tơi chỉ trình bày về phương
thức chuyển nghĩa hoán dụ.
Theo SGK Ngữ văn 6, tập 2: Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái
niệm này bằng tên của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần
gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Cịn theo tác giả Đinh Trọng Lạc: Hốn dụ là định danh thứ hai dựa trên
mối liên hệ hiện thực giữa khách thể được định danh với khách thể có tên gọi
được chuyển sang dùng cho khách thể được định danh. Hốn dụ tu từ là hốn dụ
hiện thực hóa mối liên hệ mới mẻ, bất ngờ giữa hai khách thể. (Đinh Trọng Lạc,
2000, tr 66, 67)
Ví dụ:
Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên
(Tố Hữu)
15


+ Áo nâu, nông thôn: chỉ người nông dân và những người sống ở nông thôn.
+ Áo xanh, thị thành: chỉ người công nhân và những người sống ở thành thị.
Có các kiểu hốn dụ tu từ sau:

- Dựa vào quan hệ giữa bộ phận và tồn thể:
Đầu xanh có tội tình gì?
Má hồng đến q nửa thì chưa thơi
(Nguyễn Du)
Đầu xanh (bộ phận cơ thể) biểu thị con người ở độ tuổi trẻ, mới bước vào
đời (toàn thể); má hồng (bộ phận cơ thể) biểu thị người đàn bà sống kiếp gái lầu
xanh (toàn thể).
- Dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể (người) và vật sở hữu (y phục, đồ
dùng), cịn gọi là kiểu hốn dụ lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay
(Tố Hữu)
Áo chàm là y phục phổ biến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, được
dùng làm đại diện cho người dân tộc thiểu số Tây Bắc.
- Dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể và hành động:
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
(Hồng Trung Thơng)
Bàn tay là cơng cụ lao động kì diệu của con người, khiến ta liên tưởng
đến sức lao động phi thường, sáng tạo của con người.
- Dựa vào mối quan hệ giữa số ít và số nhiều, giữa con số cụ thể và con số
tổng quát. Hoán dụ tu từ được cấu tạo theo mối quan hệ này được gọi là cải số.
Trong đời sống ta thường nói: trăm cơng nghìn việc, trăm người như một,
ba cái thằng…, ba chân bốn cẳng… Trong ca dao:
Cầu này cầu ái cầu ân
Một trăm con gái rửa chân cầu này
Một trăm là số lượng xác định, biểu thị số lượng rất nhiều, không kể hết
(số lượng không xác định).
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao

Ba cây là số lượng xác định, biểu thị nhiều cây (số lượng không xác
định).
16


- Dựa vào mối liên hệ giữa vật chứa đựng và vật được chứa đựng. Hoán
dụ tu từ được cấu tạo theo mối quan hệ này được gọi là cải dung.
Trong đời sống ta thường nói: ăn ba bát cơm, uống vài chén nước, cả làng,
cả hội trường… Không phải ta đang nói đến lượng bát cơm, số chén nước, số
làng, số hội trường mà ta đang nói đến cơm trong bát, nước trong chén, tất cả
người trong làng, trong hội trường.
Trong thơ văn:
Vì sao Trái Đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người: Hồ Chí Minh
(Tố Hữu)
Trái Đất là vật chứa đựng, biểu thị đông đảo những người sống trên Trái
Đất (vật bị chứa đựng).
- Dựa vào mối quan hệ giữa tên riêng và tên chung, trong đó tên riêng
thay cho tên chung và ngược lại. Hoán dụ tu từ cấu tạo theo mối quan hệ này
được gọi là cải danh.
Ví dụ:
Những hồn Trần Phú vơ danh
Sơng xanh biển cả cây xanh ngút ngàn
(Tố Hữu)
Tác giả đã dùng tên riêng của đồng chí Trần Phú để chỉ những liệt sĩ cách
mạng đã hi sinh như đồng chí Trần Phú.
- Dựa vào mối quan hệ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng:
Ví dụ:
Kháng chiến ba ngàn ngày khơng nghỉ
Bắp chân đầu gối vẫn săn gân.

(Tố Hữu)
Bắp chân đầu gối vẫn săn gân (cụ thể) biểu thị tinh thần kháng chiến dẻo
dai, bền bỉ của quân và dân ta (trừu tượng).
SGK Ngữ văn 6 đề cập 4 trong số các kiểu HD vừa nêu: HD lấy một bộ
phận để gọi toàn thể, lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng, lấy dấu hiệu
của sự vật để gọi sự vật và lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.
Nói tóm lại, có thể thấy, trong chương trình Ngữ văn lớp 6, các khái niệm
thường ngắn gọn, dễ hiểu, HS sẽ được làm quen với các phép tu từ ở những vấn
đề đơn giản nhất như định nghĩa, phân loại; cịn khái niệm trong các cơng trình
nghiên cứu thường sử dụng nhiều thuật ngữ khoa học hơn, khái quát vấn đề ở
mức độ chuyên sâu hơn. Cơ sở lí luận trên sẽ là tiền đề vững chắc để tôi tiến
hành đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học các BPTT trong chương
17


trình Ngữ văn lớp 6 ở các phần tiếp theo của đề tài cũng như thiết kế một số bài
dạy cụ thể.
2.2. Một số giải pháp dạy học cụ thể đối với các bài về BPTT lớp 6:
Giải pháp 1: Đổi mới trong tiến trình tổ chức hoạt động nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học các biện pháp tu từ. Cụ thể như sau:
*Trước khi lên lớp:
- Đối với GV:
+ Chú trọng khâu hướng dẫn tự học ở nhà cho HS. Bài tập tự học cho HS
phải nêu rõ ràng, chi tiết các yêu cầu cần thực hiện và kết quả cần đạt. Nội dung
bài tập tự học của HS phải phục vụ cho bài giảng của GV. GV cần chọn lọc kết
quả tự học của HS để đưa vào bài giảng, nhờ vậy HS sẽ thấy hứng thú hơn vì kết
quả làm việc của mình hữu ích và được ghi nhận.
+ Trước khi học bài mới, GV phải kiểm tra kết quả tự học, chuẩn bị bài ở
nhà của HS bằng nhiều hình thức để có thể kiểm tra được nhiều HS (kiểm tra
nội dung soạn bài, kiểm tra 5 phút, hỏi 1 nội dung kiến thức trong bài mới,…).

GV cần tuyên dương những em thường xuyên tự học tốt; nhắc nhở, phê bình
những em thường xun khơng chuẩn bị bài hoặc chuẩn bị không đạt yêu cầu.
+ Bản thân GV nên đầu tư nhiều hơn cho mỗi bài dạy BPTT. Ứng dụng
công nghệ thông tin vào các tiết dạy BPTT.
- Đối với HS:
+ HS cần chuẩn bị bài trước theo yêu cầu tự học GV đã đề ra, có như vậy,
trong q trình học trên lớp các em sẽ tiếp thu bài nhanh hơn, ghi nhớ lâu hơn.
+ HS cần có ý thức tích cực, chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự dẫn dắt,
hướng dẫn của GV. Q trình dạy và học chỉ thành cơng khi có sự phối hợp, hợp
tác từ cả 2 phía HS và GV. Thái độ lười biếng, ù lì, thụ động của HS là chướng
ngại lớn nhất trong quá trình dạy học BPTT nói riêng và mơn Ngữ văn nói
chung.
*Khi lên lớp:
- Đối với GV:
+ GV cần đầu tư cho hoạt động khởi động tiết học vì nó đóng vai trị rất
quan trọng trong việc thu hút, tạo hứng thú học tập cho HS. GV có thể khởi
động tiết học bằng rất nhiều hình thức như đặt tình huống, nêu vấn đề thông qua
tranh vẽ, đoạn nhạc, bài tập nhỏ,…phù hợp với nội dung bài học.
Ví dụ: Khi học bài so sánh, GV có thể khởi động tiết học bằng cách cho
HS nghe một đoạn nhạc: “Mẹ và cô là hai cô giáo”, sau đó đặt vấn đề: trong
đoạn nhạc, cơ giáo được ví von với đối tượng nào? (mẹ hiền). Từ đó GV dẫn
vào bài mới, chuyển giao nhiệm vụ cho HS.

18


+ GV chủ động kết hợp đa dạng các hình thức tổ chức dạy học: cho HS
nêu và giải quyết vấn đề, làm việc cá nhân, thảo luận, tranh luận giữa các tổ, các
cá nhân với nhau để hình thành kiến thức mới.
+ GV cần nhận xét, đánh giá ngay quá trình làm việc của HS. Khen

thưởng và phê bình kịp thời.
+ Đối với những bài về BPTT, GV có thể cho các em tập viết đoạn văn, tổ
chức cuộc thi viết văn vận dụng kiến thức kĩ năng BPTT cho các tổ trong lớp,
các lớp trong khối; khuyến khích, giới thiệu, giúp đỡ các em tham gia viết bài
cho các tạp chí, tập san, qua đó rèn luyện và hoàn thiện các kĩ năng cho HS.
- Đối với HS:
+ HS cần hợp tác, phối hợp tích cực với GV trong quá trình tiếp nhận kiến
thức. Chỗ nào chưa hiểu hoặc hiểu mơ hồ cần đề nghị GV giảng lại hoặc đưa
thêm ví dụ minh họa.
+ Biết rút kinh nghiệm trong hoạt động nhóm, cách làm việc cá nhân để
lần sau đạt kết quả tốt hơn.
*Sau khi lên lớp:
- Đối với GV:
+ Chú trọng khâu hướng dẫn tự học ở nhà cho HS, phân hóa theo đối
tượng HS để đảm bảo tất cả các em đều làm việc được. Nhiệm vụ tự học cho HS
phải nêu rõ ràng, chi tiết các yêu cầu cần thực hiện và kết quả cần đạt.
+ GV tự rút kinh nghiệm sau tiết học, tự nhận thấy những chỗ chưa tốt để
tiết học sau hoàn thiện hơn.
- Đối với HS:
+ Ở cuối mỗi tiết học, HS cần ghi chép kĩ càng các yêu cầu tự học cho bài
mới và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
+ HS có thể góp ý, đề xuất với GV những cách học hay, phù hợp với bản
thân mình.
Giải pháp 2: Vận dụng những biện pháp dạy học tích cực nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học các biện pháp tu từ
a. Rèn luyện kĩ năng vận dụng phép tu từ cho HS theo trình tự: cách
nhận biết =>cách tìm giá trị nghệ thuật => dùng lời bình làm rõ giá trị nghệ
thuật của BPTT =>vận dụng thành ngữ có BPTT để tạo phép tu từ đơn
giản:
Để HS nhận biết, tìm hiểu đúng giá trị nghệ thuật và vận dụng có hiệu quả

các phép tu từ này đòi hỏi GV phải hướng dẫn HS một cách cụ thể, tỉ mỉ, gần
gũi với tư duy, nhận thức của các em. Nghĩa là gắn với những hiểu biết từ thực
tế cuộc sống và những hiểu biết cơ bản mà các em đã phân tích tìm hiểu ở phần
văn bản. Như vậy quá trình dạy học các bài BPTT sẽ thu hút được sự chú ý của
học sinh.
19


GV lưu ý cho HS: phép tu từ thể hiện ở những từ ngữ/ cụm từ trong
câu văn, đoạn văn. Không phải cả câu, cả đoạn.
*Phép tu từ so sánh:
- Cách nhận biết: Sau khi cung cấp lí thuyết, GV hướng dẫn HS nhận biết,
phát hiện phép so sánh trong những văn cảnh cụ thể thơng qua mơ hình cấu
tạo của nó.
Ví dụ:

Tấc đất tấc vàng.
Vế A

Vế B

=> Dạng khơng có phương diện so sánh và từ so sánh.
- Cách tìm giá trị nghệ thuật (phân tích tác dụng):
Trong phép so sánh, để làm rõ vế A thường người ta lấy vế B là những sự
vật cụ thể, quen thuộc với nhiều người và giàu hình ảnh. Sau khi HS đã xác định
được phép so sánh, HS sẽ dùng vốn hiểu biết từ thực tế, vốn kiến thức văn học
đã có để hiểu nội dung vế B một cách chuẩn xác, từ đó suy ra nội dung vế A và
nội dung toàn câu, toàn bộ phép so sánh. Như vậy, phân tích tác dụng một phép
so sánh là đi từ vế B đến vế A và nội dung toàn câu.
+ Ví dụ: Cái chàng Dế Choắt, người gầy gị và dài lêu nghêu như một gã nghiện

Vế A

PDSS

TSS

Vế B

thuốc phiện.
GV cho HS xác định mơ hình cấu tạo.
GV hỏi: Em hiểu “gã nghiện thuốc phiện” là người có dáng vẻ như thế
nào?
Dáng người gầy gò, ốm yếu, da vàng tái, đi liêu xiêu…
GV hỏi: Thơng qua hình ảnh so sánh “gã nghiện thuốc phiện”, tác giả
muốn khắc họa hình ảnh Dế Choắt như thế nào?
Hình ảnh một chàng dế ốm yếu, gầy gò, thiếu sức sống hiện lên sinh
động, gợi cảm xúc cho người đọc.
- Dùng lời bình làm rõ giá trị nghệ thuật: Đa số HS chỉ nêu được ngắn
gọn tác dụng của một BPTT theo ghi nhớ, chưa biết dùng lời bình để làm rõ ý
nghĩa của phép tu từ trong một câu văn, đoạn văn, đoạn thơ. Do đó các em chưa
cảm nhận được đặc sắc nghệ thuật qua phép so sánh cũng như ý đồ của tác giả.
GV có thể rèn kĩ năng dùng lời bình làm rõ giá trị nghệ thuật của phép so
sánh sau khi HS chỉ ra phép so sánh, xác định tác dụng của phép so sánh.
+ Ví dụ: “Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt
cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên
ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”.
GV hỏi: Thông qua hình ảnh so sánh “một hiệp sĩ”, em cảm nhận gì về
hình ảnh dượng Hương Thư trong đoạn văn?
20



HS bình: Hình ảnh dùng để so sánh này gợi cho người đọc liên tưởng đến
vẻ đẹp thể chất và sự dũng mãnh của dượng Hương Thư chẳng khác gì một
người anh hùng khi vượt thác. Đó là vẻ đẹp tiêu biểu cho con người lao động và
con người Việt Nam. Phải chăng khi cần vượt qua thử thách, con người Việt
Nam vốn bình thường trong đời sống thường nhật bỗng vùng lên với vẻ đẹp phi
thường!
- Đặc biệt, trong tiếng Việt có một bộ phận khơng nhỏ các thành ngữ so
sánh. Vận dụng thành ngữ so sánh là cách đơn giản để HS có thể tạo ra phép
so sánh, làm cho lời nói, bài viết với nhiều hình ảnh cụ thể, sinh động hơn.
+ Ví dụ: Bạn ấy trắng như trứng gà bóc.
Nó chậm như rùa.
(đen như mực, khỏe như voi, trắng như tuyết, cao như núi,…)
*Phép tu từ ẩn dụ:
- Cách nhận biết: Như đã nói, ẩn dụ là một loại so sánh ngầm, trong đó ẩn
đi vế A (sự vật, sự việc được so sánh), phương diện so sánh và từ so sánh. Sau
khi cung cấp lí thuyết, GV hướng dẫn HS nhận biết, phát hiện phép ẩn dụ trong
những văn cảnh cụ thể bằng cách: từ vế B (sự vật, sự việc dùng để so sánh) có
trong câu chữ, HS suy ra vế A (sự vật, sự việc được so sánh), phương diện
so sánh và từ so sánh đã được ẩn đi. Căn cứ để suy ra là 4 phương thức ẩn dụ:
+Ẩn dụ cách thức: GV hướng dẫn HS tìm sự vật, sự việc có nét tương
đồng về cách thức hành động với sự vật, sự việc được nêu trong câu.
Ví dụ:
Về thăm nhà Bác làng sen,
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng.
(Nguyễn Đức Mậu)
Nhìn “hàng râm bụt” với những bơng hoa đỏ rực tác giả tưởng như những
ngọn đèn “thắp lên lửa hồng”. Hành động thắp ở đây ý chỉ hoa nở.
+ Ẩn dụ hình thức: GV hướng dẫn HS tìm sự vật, sự việc có nét tương
đồng về hình thức với sự vật, sự việc được nêu trong câu.

Ví dụ: Đầu tường lửa lựu lập lịe đâm bơng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Ở đây, tất nhiên khơng có ngọn lửa nào. Chữ lửa (B) trong văn cảnh dùng
để biểu thị màu đỏ của hoa lựu (A). Có thể chưa trơng thấy hoa lựu bao giờ,
chưa biết hoa lựu màu đỏ, nhưng đọc câu thơ trên vẫn có thể suy ra như vậy, vì
có thành ngữ quen thuộc “đỏ như lửa”. Câu thơ gợi được một cảnh thật rực rỡ:
đầu tường, màu đỏ của hoa lựu tạo nên những bơng hoa lửa lập lịe! Chính cách
dùng ẩn dụ lửa lựu của Nguyễn Du làm cho ta cảm nhận những bông hoa lửa từ
màu đỏ của hoa lựu.

21


+ Ẩn dụ phẩm chất: GV hướng dẫn HS tìm sự vật, sự việc có nét tương
đồng về phẩm chất với sự vật, sự việc được nêu trong câu.
Ví dụ:
Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm.
(Đêm nay Bác khơng ngủ - Minh Huệ)
Lấy hình tượng Người Cha để gọi tên Bác Hồ vì giữa Bác Hồ và người
Cha có những điểm giống nhau: tấm lòng bao dung, yêu thương, che chở cho
các chiến sĩ cách mạng của Bác giống như người Cha với những đứa con của
mình.
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: GV hướng dẫn HS việc chuyển đổi cảm
giác của sự vật, sự việc được nêu trong câu (dựa vào sự tương đồng về cảm
giác). Hay nói cách khác là những ẩn dụ trong đó B là một cảm giác vốn thuộc
một loại giác quan dùng để chỉ những cảm giác A vốn thuộc các loại giác quan
khác hoặc cảm xúc nội tâm. Nói gọn là lấy cảm giác A để chỉ cảm giác B.

Ví dụ: Đoạn văn “…Chao ơi, trơng con sơng, vui sướng thấy nắng giịn
tan. Sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quảng…”
Giáo viên có thể hỏi HS: Trong cuộc sống, từ “giòn tan” thường dùng chỉ
đặc điểm cụ thể của những vật nào?
Giòn tan: Dùng chỉ đặc điểm của những vật cứng cụ thể khi bị gãy, vỡ
như bánh, gỗ, kính… Chứ khơng dùng để chỉ hiện tượng tự nhiên như “Nắng”.
Giáo viên lại hỏi tiếp: Theo em, Cụm từ: “nắng giịn tan” có gì đặc biệt so
với cách nói thông thường?
- Đây là một ẩn dụ chuyển đổi cám giác của nhà văn Nguyễn Tuân (Từ vị
giác, thính giác sang thị giác).
Hoặc Ví dụ: bài tập 3 trang 70 Ngữ văn 6 tập hai cho chúng ta những ví
dụ rất tốt về ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
Câu a) và câu b): Chảy là hoạt động của dòng chất lỏng (tiêu biểu là
nước). Đối với hiện tượng chảy, ta cảm nhận bằng các giác quan: thị giác, xúc
giác, thính giác (nếu dòng chảy gây tiếng động đủ nghe thấy). Trong các câu
“Mùi hồi chín chảy qua mặt”, “Ánh nắng chảy đầy vai”, mùi hồi và ánh nắng,
qua ẩn dụ, được cảm nhận như những dòng chất lỏng chảy mơn man trên da thịt.
Mùi hồi được cảm giác chảy rất rõ với động tác ngẩng mặt lên để dòng hương
chảy qua và nhất là khi có một làn gió nhẹ thổi qua cánh rừng hồi.
- Cách tìm giá trị nghệ thuật (phân tích tác dụng):

22


Ẩn dụ làm cho câu văn thêm giàu hình ảnh và mang tính hàm súc. Tác
dụng của ẩn dụ chính là ở mặt biểu cảm. Cùng một đối tượng nhưng ta có nhiều
cách thức diễn đạt khác nhau (thuyền – biển, mận - đào, thuyền – bến, biển – bờ)
cho nên một ẩn dụ có thể dùng cho nhiều đối tượng khác nhau. Ẩn dụ luôn biểu
hiện những hàm ý mà phải suy ra mới hiểu. Chính vì thế mà ẩn dụ làm cho câu
văn giàu hình ảnh và hàm súc, lôi cuốn người đọc người nghe.

Tương tự phép so sánh, trong phép ẩn dụ, để làm rõ vế A thường người ta
lấy vế B là những sự vật cụ thể, quen thuộc với nhiều người và giàu hình ảnh.
Sau khi HS đã xác định được phép ẩn dụ, HS sẽ dùng vốn hiểu biết từ thực tế,
vốn kiến thức văn học đã có để suy ra nội dung vế A và nội dung toàn câu, toàn
bộ phép ẩn dụ. Như vậy, phân tích tác dụng một phép ẩn dụ là xem xét phép ẩn
dụ trong ngữ cảnh, từ vế B suy ra vế A và nội dung tồn câu.
Ví dụ: Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm.
Đặt trong ngữ cảnh có thể suy ra người Cha chỉ Bác Hồ, từ đó có thể hiểu
Bác Hồ như người cha vĩ đại của dân tộc. Nếu thay Bác Hồ mái tóc bạc thì tính
biểu cảm sẽ mất đi.
- Dùng lời bình làm rõ ý nghĩa BPTT: Cần rèn luyện thao tác này sau khi
HS phân tích tác dụng phép ẩn dụ, vì đa số các em chỉ ra tác dụng một cách rất
cứng nhắc, sáo rỗng, chỉ mang tính chất giải nghĩa, chưa làm nổi bật được giá trị
của vế A đã ẩn đi.
+ Ví dụ:
“Con cị chết rũ trên cây
Cò con mở lịch xem ngày làm ma
Cà cuống uống rượu la đà
Chim ri ríu rít bị ra lấy phần
Chào mào thì đánh trống qn
Chim chích cởi trần vác mỏ đi rao”.
(Ca dao)
Bình: Bằng biện pháp ẩn dụ, tác giả dân gian đã mượn hình ảnh con cị
để nói về thân phận thấp hèn của người dân lao động trong xã hội cũ. Qua 8 câu
lục bát, bài ca dao đã mượn cái chết của con cò để phê phán, mỉa mai tầng lớp
thống trị đầy dã tâm, cơ hội, đồng thời phê phán hủ tục ma chay lạc hậu.
- Vận dụng thành ngữ ẩn dụ là cách đơn giản để HS có thể tạo ra phép
ẩn dụ, làm cho lời nói, bài viết sinh động, biểu cảm hơn. Cho học sinh tìm thành
ngữ ẩn dụ để khi cần các em biết vận dụng vào trong giao tiếp hàng ngày, trong

lập văn bản để tăng thêm giá trị hàm súc cho lời nói. Ví dụ: ni ong tay áo, gậy
ông đập lưng ông, chuột sa chỉnh gạo, con nhà lính tính nhà quan. Ẩn dụ được
dùng nhiều trong lời ăn tiếng nói hàng ngày làm cho lời nói hội thoại mang đậm
23


đà màu sắc biểu cảm, cảm xúc. Ví dụ: Khi mẹ nựng con thường hay nói: cún
con, cục vàng…Hoặc sử dụng nhiều ẩn dụ chuyển đổi cảm giác như: Ví dụ:
giọng chua, nói đau, màu nóng…
*Phép tu từ hốn dụ:
- Cách nhận biết: Sau khi cung cấp lí thuyết, GV hướng dẫn HS nhận biết,
phát hiện phép hoán dụ bằng cách: đặt phép hoán dụ trong văn cảnh cụ thể,
từ sự vật, sự việc được nêu trong câu, HS suy ra sự vật, sự việc có quan hệ
tương cận (tức đi đơi), gần gũi với nó. Căn cứ để suy ra là 4 phương thức hoán
dụ:
+ Lấy một bộ phận để gọi tồn thể:
Ví dụ:
Đầu xanh đã tội tình gì?
Má hồng đến q nữa thì chưa thơi.
(Nguyễn Du)
Đầu xanh (bộ phận cơ thể) biểu thị con người ở độ tuổi trẻ trung (toàn
thể). Má hồng (bộ phận cơ thể) biểu thị người phụ nữ (toàn thể).
+ Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật:
Ví dụ:
Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.
(Tố Hữu)
Hai câu thơ này nhà thơ Tố Hữu viết về người lao động của nước ta thời
kì Cách mạng tháng 8. Thời ấy, y phục đặc trưng của người nông dân là áo nâu,
của người công nhân là áo xanh. Dùng áo nâu để chỉ người nông dân, áo xanh

chỉ người công nhân.
+ Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng:
Ví dụ:
Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh
(Tố Hữu)
Trái đất (vật chứa đựng) biểu thị đông đảo nhân dân (vật được chứa
đựng).
Liên hệ giữa vật chứa đựng và vật bị chứa đựng. Trong đời sống hằng
ngày ta sử dụng rất nhiều như: cả hội trường đứng dậy vỗ tay, cả làng đổ ra
xem…
- Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng:

24


×