Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.28 KB, 8 trang )

LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC

Vai trị của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta
hiện nay
The role of the family in educating the young generation
in our country today
Vũ Văn Đông
Email:
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 02/3/2020
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 12/9/2020
Ngày chấp nhận đăng: 30/9/2020
Tóm tắt
Thế hệ trẻ là tương lai của mỗi gia đình nói riêng, của đất nước nói chung, do đó việc nuôi dưỡng, giáo
dục thế hệ trẻ là việc làm rất cần thiết đối với mỗi gia đình và tồn xã hội. Để giáo dục thế hệ trẻ được hiệu
quả cần phải có sự liên kết giữa gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó giáo dục gia đình có vai trò đặc
biệt quan trọng. Những năm gần đây, sự phát triển của kinh tế - xã hội có những tác động không nhỏ tới
thế hệ trẻ, cả về mặt tích cực và hạn chế. Điều này địi hỏi cần phải có cách nhìn nhận và đánh giá một
cách đầy đủ để việc giáo dục thế hệ trẻ được tốt hơn. Trong bài này, xuất phát từ quan điểm về gia đình,
vai trị của gia đình đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, thực trạng việc thực hiện vai trị của gia đình đối với
việc giáo dục thế hệ trẻ, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao vai trị của gia đình với việc
giáo dục thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Gia đình; vai trị của gia đình; giáo dục gia đình; giáo dục thế hệ trẻ; thế hệ trẻ.
Abstract
The younger generation is the future of each family in particular and of the country in general, so the
education and nurturing of the younger generation are essential for each family and the whole society. In
recent years, the socio-economic development has had significant impacts on the younger generations,
both positively and limitedly. This requires a sufficient way of seeing and evaluating to educate the younger
generation well. To effectively educate the younger generation, there must be a link between the family,
the school and the society, in which the educational role of the family is very important. In this article, it
comes from the perspective of family, educating the family to the younger generation as well as the role of


the family, as well as the family education practices for the younger generation, suggesting some solutions
to Improve the effectiveness of family education with the young generation in Vietnam today.
Keywords: Family; the role of the family; family education; educate the younger generation; younger
generation.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người sinh
ra và lớn lên, nơi thế hệ trẻ được chăm lo cả về
thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách để hội nhập
vào cuộc sống cộng đồng xã hội. Tuy không phải là
thiết chế duy nhất có vai trị, trách nhiệm giáo dục
đối với thế hệ trẻ, nhưng gia đình là mơi trường
giáo dục đầu tiên và có tầm quan trọng quyết định
việc hình thành nhân cách của trẻ. Xã hội càng
phát triển thì giáo dục gia đình càng có ảnh hưởng
tồn diện tới mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Ở
Việt Nam hiện nay, kinh tế ngày càng phát triển, đời
Người phản biện: 1. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà
2. TS. Nguyễn Thị Nhan

sống của các gia đình ngày càng được nâng lên từ
đó các gia đình ngày càng có điều kiện thuận lợi để
chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy, một bộ phận thế hệ trẻ có
những biểu hiện tiêu cực, bị lơi cuốn vào tệ nạn xã
hội,… làm băng hoại đạo đức xã hội. Do đó, cần
có sự nhìn nhận đầy đủ hơn về vai trị của gia đình
đối với việc giáo dục thế hệ trẻ để nâng cao vai trò
của gia đình trong giáo dục các thế hệ tương lai
của đất nước.
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

2.1. Khái niệm gia đình
Khái niệm gia đình từ lâu đã được nhiều nhà
tư tưởng, nhà hoạt động thực tiễn quan tâm,
nghiên cứu.

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020 115


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hướng tới việc xây dựng gia đình bền vững, tổ
chức UNESCO khẳng định: Gia đình là một yếu tố
tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế của xã hội.
Gia đình được coi như một giá trị vơ cùng q báu
của nhân loại, cần được gìn giữ và phát huy. Trên
tinh thần đó, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về gia
đình: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ
hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung”
[10, tr.269].
Theo tác giả Tương Lai, “Gia đình là một khái
niệm mới, được hình thành từ ba thành phần, gồm
những “đại lượng khác tên” là bố, mẹ và con cái”
[4, tr.57]. Với quan niệm này, tác giả chú ý nhấn
mạnh đến hai mối quan hệ cơ bản để hình thành
nên một gia đình mới, đó là quan hệ hôn nhân
(giữa chồng và vợ) và quan hệ huyết thống (giữa
cha mẹ và con cái).
2.2. Thế hệ trẻ
Ở Việt Nam, trong báo cáo đề tài “Đảng lãnh đạo
công tác thanh niên” do đồng chí Lê Thanh Đạo
chủ biên, đã cho rằng: Thế hệ trẻ được xác định

trong độ tuổi nhất định, từ khi sinh ra cho đến 30
tuổi, luôn được Đảng và Bác Hồ chăm lo giáo dục
và bồi dưỡng để trở thành lớp người kế cận cho
sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và của
dân tộc.
Trong cuốn sách “Vấn đề Thanh niên, nhìn nhận
và dự báo” của Viện nghiên cứu thanh niên, xuất
bản năm 1992, cho rằng: “Khi nói tới tuổi trẻ, lớp
trẻ, thế hệ trẻ, tức muốn nói tới lớp người từ tuổi lọt
lịng đến 28 tuổi” [9, tr.12]. Trong khuôn khổ của bài
nghiên cứu, tác giả quan niệm: thế hệ trẻ là những
người ở độ tuổi nhất định (từ khi sinh ra đến dưới
30 tuổi và được chia giai đoạn từ 0 đến 5 tuổi; từ
6 đến 14 tuổi; từ 15 đến 18 tuổi; từ 19 đến 24 tuổi;
từ 25 đến 30 tuổi và bài tập trung phân tích từ độ
tuổi 05 - 25 tuổi), được sự ni dưỡng chăm sóc và
giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Là lứa
tuổi được bồi dưỡng để trở thành lớp người kế cận
cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và
của dân tộc.
Có thể nêu lên những đặc điểm của lứa tuổi này
như sau:
- Tâm, sinh lý, thể chất và nhân cách phát triển
chưa hoàn chỉnh, do đó trong những hành vi, cách
ứng xử, thường có những biểu hiện hạn chế và
lệch lạc.
- Tính hiếu động và phản xạ nhanh, ưa chuộng
những điều mới lạ.
- Là lứa tuổi cịn chịu sự chăm sóc, ni dưỡng và
giáo dục của gia đình.

- Được giáo dục bởi sự kết hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội.
- Lứa tuổi chưa được pháp luật quy định về trách
nhiệm, nghĩa vụ cơng dân, trách nhiệm hình sự.

2.3. Giáo dục gia đình
Giáo dục gia đình “là sự tác động có hệ thống,
có mục đích của những người lớn trong gia đình
và tồn bộ nếp sống của gia đình tới đứa trẻ” [8,
tr.233]. Giáo dục gia đình là một bộ phận của hệ
thống giáo dục xã hội, diễn ra trong phạm vi gia
đình. Mục đích của giáo dục gia đình bị quy định
bởi chế độ kinh tế - xã hội, mà cơ sở của nó là hệ
tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức, hệ thống
mối quan hệ qua lại trong gia đình.
Đặc trưng của giáo dục gia đình: Giáo dục gia đình
mang những nét đặc trưng sau: Thứ nhất, giáo dục
gia đình được tiến hành đối với trẻ ngay từ lúc còn
nhỏ, thậm chí khoa học hiện đại đã chứng minh
có sức thuyết phục việc giáo dục từ trong bào thai
(thai giáo); Thứ hai, nó xuất phát từ tình cảm và
thơng qua tình cảm, có khi khơng cần lời nói mà
qua thái độ, việc làm, cách đối xử trong gia đình...;
Thứ ba, giáo dục gia đình mang tính cá biệt và cụ
thể, chú ý đến những nét cá biệt của từng đứa trẻ.
Nó linh hoạt theo sự phát triển của trẻ, theo sự thay
đổi cuộc sống của gia đình và xã hội. Bởi vậy, giáo
dục gia đình có tính thực tiễn, qua thực tế, bằng
cuộc sống thực tế để giáo dục và rất chú trọng đến
kết quả thực tế của việc giáo dục; Thứ tư, gia đình

là một tập thể khơng thuần nhất, khác nhau về giới
tính, nghề nghiệp, tuổi tác, bao gồm ơng bà, cha
mẹ, anh chị, do đó giáo dục gia đình mang tính
phối hợp nhiều mặt về kiến thức và các mối quan
hệ xã hội; Thứ năm, giáo dục gia đình chủ yếu dựa
vào phương pháp thuyết phục, giảng giải bằng tình
cảm, vận dụng linh hoạt, phong phú nhiều phương
pháp và nghệ thuật giáo dục, đó là kết hợp phương
pháp giáo dục truyền thống với hiện đại, kết hợp
giữa uy quyền với tình thương, uy quyền với bao
dung, tha thứ...; Thứ sáu, phạm vi của giáo dục gia
đình khơng chỉ khuôn lại trong việc giáo dục trẻ em
mà là toàn bộ các thành viên. Nhưng thế hệ trẻ,
thế hệ đang hình thành và tiến tới hồn thiện nhân
cách, được quan tâm hơn cả.
3. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Gia đình được hình thành trên cơ sở hai mối quan
hệ cơ bản: Hôn nhân và huyết thống, gia đình đảm
đương những vai trị đặc biệt mà ngồi nó ra khơng
có một thiết chế xã hội nào có thể thay thế được.
Có thể nêu một số vai trị chủ yếu của gia đình như
sau [5;6]:
Thứ nhất: Gia đình có vai trò giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ.
Một trong những vai trị cơ bản của gia đình trong
giáo dục thế hệ trẻ là giáo dục đạo đức. Trong quá
trình lớn lên của trẻ thì hành vi đạo đức mang tính
nêu gương của ơng, bà, cha, mẹ và những người
lớn tuổi trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến q


116 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020


LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
trình hình thành nhân cách, đạo đức cho thế hệ trẻ
khi trưởng thành. Do đó, những hành vi của ông,
bà, cha, mẹ cần phải là tấm gương để góp phần
hình thành lối sống văn hóa, có đạo đức cho trẻ.
Tuy nhiên, khi gia đình khơng thực hiện tốt vai trị
này cho trẻ sẽ tạo cho trẻ những thói quen không
tốt, dẫn đến những nhận thức lệch chuẩn của trẻ
khi đó sẽ có những trẻ sẽ vấp vào các tệ nạn xã hội
như ma túy, tội phạm xã hội, tệ nạn mại dâm, bỏ gia
đình đi bụi hay có quan điểm thực dụng đề cao giá
trị vật chất, tiêu dùng lãng phí.

4. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRỊ CỦA GIA
ĐÌNH ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC THẾ HỆ TRẺ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

Thứ hai: Gia đình có vai trị giáo dục học tập văn
hóa cho con trẻ.
Nếu việc thực hiện vai trị giáo dục đạo đức nhằm
hình thành nhân cách, lối sống lành mạnh cho trẻ
thì vai trị giáo dục học tập văn hóa sẽ tạo ra một
nền tảng tri thức phổ thơng cơ bản và có vai trị
những hiểu biết nhất định về một ngành nghề giúp
trẻ có việc làm ổn định, tạo ra của cải vật chất, nâng
cao chất lượng sống cho bản thân và gia đình, đáp

ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong bối
cảnh cuộc Cách mạng khoa học công nghiệp 4.0
đang phát triển mạnh mẽ.

Trong gia đình Việt Nam truyền thống, xuất phát từ
cơ sở kinh tế - xã hội thuần nông, cùng với truyền
thống gia giáo, gia phong, gia pháp và gia lễ đã
giúp cho việc giáo dục đạo đức trong gia đình duy
trì và phát triển. Trong gia đình hiện nay, với sự
chuyển đổi của nền kinh tế, sự mở cửa hội nhập
của đất nước với quốc tế, giáo dục đạo đức trong
gia đình cũng đứng trước những thuận lợi và thách
thức nhất định. Trước hết việc giáo dục đạo đức
trong gia đình đối với thế hệ trẻ ln được các bậc
cha mẹ đặc biệt quan tâm. Số liệu báo cáo của
các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên và Thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy, tỷ lệ gia đình giáo dục thế hệ trẻ
theo mục tiêu xây dựng gia đình văn hóa mới với
các tiêu chí sống có đạo đức, con cháu thảo hiền
đạt 76,3% đối với con trai và 66,3% đối với con
gái trở lên [2, tr.21 - 22]. Như vậy, mặc dù với nhịp
sống của nền kinh tế thị trường hết sức sơi động
nhưng hầu hết gia đình Việt Nam hiện nay vẫn đặc
biệt coi trọng giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, nhất
là ở khu vực nông thôn. Điều này càng khẳng định
gia đình Việt Nam vẫn kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức của các thế hệ cha ông để giáo dục
cho con cháu. Đối với khu vực thành thị thì tỷ lệ gia
đình giáo dục thế hệ trẻ theo mục tiêu xây dựng gia
đình văn hóa mới với các tiêu chí sống có đạo đức,

con cháu thảo hiền cũng có những biểu hiện mang
tính đặc thù so với khu vực nơng thơn bởi ở thành
thị có nhiều thành phần gia đình khác nhau. Theo
số liệu báo cáo của Hội liên hiệp Phụ Nữ Việt Nam
ở Hà Nội cho thấy: Gia đình cán bộ cơng nhân viên
chức đạt 95,5%, gia đình bn bán đạt: 93,3%, gia
đình với nghề tự do đạt: 88,9%; gia đình nội trợ đạt:
94,9%. Bình qn là 94,9%. Từ số liệu trên có thể
nhận thấy: giá trị đạo đức được hầu hết gia đình
quan tâm và coi trọng, cho dù xã hội có biến thiên
như thế nào, thì đạo đức cùng với tài năng của con
người vẫn là những giá trị bền vững, được gia đình
gìn giữ và truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ
khác. So với gia đình truyền thống, nội dung giáo
dục đạo đức trong gia đình hiện đại đã có những
nét biến đổi và bổ sung những giá trị mới phù hợp
với điều kiện kinh tế -xã hội của thời kỳ đổi mới, đã
và đang thoát ra khỏi quan niệm giáo dục truyền
thống là gia giáo [3, tr.61].

Thứ ba: Gia đình có vai trị giáo dục tinh thần u
lao động và tính tự lập cho thế hệ trẻ.
Khơng những là tế bào xã hội, gia đình cịn là “tổ
ấm tình thương” nơi mà mỗi thành viên được giáo
dục lịng nhân ái, tình yêu thương con người, tinh
thần yêu nước và hơn cả đó là tinh thần u lao
động, tính tự lập cho thế hệ trẻ. Lao động là cơ
sở để mỗi thành viên của gia đình được chăm lo
về đời sống vật chất, tinh thần và tình cảm. Chính
trong gia đình, con người mới thể hiện một cách

đầy đủ nhất những nhu cầu khát vọng lao động
để nâng cao đời sống vật chất cho gia đình từ đó
các thế hệ trẻ sẽ thấy được ý nghĩa của lao động
và u lao động. Bên cạnh đó đời sống gia đình
được tổ chức tốt, cuộc sống của mỗi thành viên
cũng được đảm bảo quyền riêng tư, là điều kiện
rất quan trọng để mỗi con trẻ trong gia đình có cơ
hội được ni dưỡng, rèn luyện tính tự lập để phát
triển năng lực tồn diện của bản thân.
Thứ tư: Gia đình có vai trị giáo dục giới tính cho
thế hệ trẻ.
Gia đình có vai trị quan trọng trong việc giáo dục
giới tính cho thế hệ trẻ. Bởi thế hệ trẻ là các em
đang ở độ tuổi mới lớn, có những tị mị muốn
khám phá những thay đổi của cơ thể, của cuộc
sống xung quanh. Việc giáo dục giới tính trong gia
đình giúp thế hệ trẻ nâng cao được đạo đức, phẩm
hạnh, hiểu biết và tự bảo vệ được sức khỏe sinh
sản của bản thân. Bên cạnh đó, gia đình cịn kết
hợp với nhà trường và xã hội để giáo dục giới tính
cho thế hệ trẻ qua đó góp phần làm cho trẻ hiểu
biết về sức khỏe sinh sản tạo ra một thế hệ tương
lai phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

4.1. Thực trạng việc thực hiện vai trị của gia
đình trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ
Từ truyền thống đến hiện đại, gia đình Việt Nam
ln coi trọng và đề cao các giá trị đạo đức, coi đó
là nền tảng của nhân cách con người, là một trong

những nội dung cơ bản của giáo dục gia đình.

Tệ nạn ma túy
Đây là một trong những hiểm họa không chỉ đối với

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020 117


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
mỗi người, mỗi gia đình mà cịn đối với toàn xã hội
và nhân loại. Ma túy làm hủy hoại cơ thể con người
và khơng ít trường hợp sử dụng quá liều lượng
dẫn đến tử vong, nhất là lứa tuổi vị thành niên. Ma
túy là con đường nhanh nhất dẫn các em đến với
tội phạm. Theo báo cáo thống kê của cục phòng
chống tệ nạn xã hội, đến năm 2019 có 70% đối
tượng đang ở lứa tuổi từ 15 - 30, đó là chưa kể một
số lượng khơng nhỏ các em từ 10 - 15 tuổi bị lôi
kéo vào con đường nghiện ma túy. Tuy nhiên, con
số này so với thực tế hiện nay còn thấp hơn nhiều.
Tỷ lệ nghiện ma túy có khác nhau ở mỗi vùng, song
nó xuất hiện rải rác trên khắp các tỉnh, thành trong
cả nước, làm nhức nhối dư luận xã hội. Nguyên
nhân dẫn các em đến với ma túy, trước hết là do
mơi trường xã hội có nhiều phức tạp, nhất là vấn
đề bn bán ma túy với nhiều hình thức lơi kéo
nhiều đối tượng vào hoạt động này.
Tội phạm xã hội
Thế hệ trẻ là những chủ nhân tương lai của đất
nước. Trong những năm gần đây, phần lớn các

em đều tích cực tham gia học tập, lao động rèn
luyện và phấn đấu tốt, hăng hái tham gia sinh hoạt
trong các phong trào đồn đội. Song vẫn cịn một
bộ phận khơng nhỏ, do kém rèn luyện, không tham
gia hoạt động tập thể, thích tự do, lêu lổng, đua
địi, nên đã rơi vào con đường nghiện ngập, phạm
tội. Nhiều vụ trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, cố ý
gây thương tích và thậm chí đã gây ra những vụ
trọng án, cướp của, giết người,... đang có chiều
hướng gia tăng, gây sự lo lắng cho gia đình, nhức
nhối cho xã hội. Thực trạng hiện nay, số tội phạm
tăng lên không chỉ về số lượng mà cả về mức độ,
tính chất của những hành vi phạm tội ngày một
nghiêm trọng hơn. Theo thống kê từ 2015 - 2019,
mỗi năm trung bình có khoảng 628.300 vụ vi phạm
pháp luật do người chưa thành niên thực hiện, có
13.000 trẻ chưa thành niên bị xử lý vi phạm hành
chính và hình sự mỗi năm. Năm 2017, tỷ lệ người
chưa thành niên vi phạm pháp luật là 26 em trên
100.000 dân dưới 18 tuổi. Cũng theo nguồn số liệu
này, tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp
luật từ 2010 - 2019 nhìn chung đã được cải thiện.
Số người chưa thành niên vi phạm pháp luật, cả
vi phạm hành chính lẫn phạm tội hình sự đã giảm
gần 60% từ 16.446 em trong năm 2006 xuống
còn 6.632 em năm 2018. Tương tự như vậy, trong
giai đoạn này số vụ vi phạm pháp luật có người vi
phạm là người chưa thành niên đã giảm hơn 57%,
từ 10.468 vụ năm 2006 còn 4.441 vụ năm 2018. Số
vụ vi phạm hành chính do người chưa thành niên

thực hiện giảm mạnh (66%), còn số vụ phạm pháp
hình sự của người chưa thành niên giảm với tốc độ
chậm hơn nhiều (35%) [1, tr.82].
Tình trạng thế hệ trẻ rời bỏ gia đình
Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, cả nước
hiện có khoảng gần 100 nghìn em lang thang,

không chỉ tập trung ở các trung tâm đơ thị, mà cịn
ở những khu vực thị xã, thị trấn, cửa khẩu thuộc
nhiều địa phương trong cả nước. Theo Báo cáo của
Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Hà Nội cho thấy,
khoảng hơn 2.500 em lang thang kiếm sống trên
địa bàn Hà Nội. Những năm trước đây, số trẻ em
lang thang cịn ít do nhu cầu dường như cân đối
với những dịch vụ nói trên, song mấy năm gần đây
do nhu cầu việc làm, do những biến động phức tạp
trong đời sống xã hội cũng như cuộc sống của mỗi
gia đình, số trẻ em lang thang tăng lên và tập trung
chủ yếu ở khu vực đô thị, dẫn đến mất trật tự nơi
cơng cộng. Ngồi ra trong sinh hoạt hàng ngày, số
em này đi lại tự do, ăn uống ngủ nghỉ trên các vỉa
hè, công viên, gầm cầu, một số ít trong đó do kiếm
được tiền nên đã thuê được những nhà trọ với
giá cả hợp lý. Có nhiều ngun nhân gây nên tình
trạng thế hệ trẻ rời bỏ gia đình. Trong đó, ngun
nhân cơ bản là do đời sống của gia đình gặp nhiều
khó khăn, ruộng đất canh tác ít, thiếu việc làm, cha
mẹ chia tay, mâu thuẫn với gia đình,...
Tệ nạn mại dâm đối với thế hệ trẻ ngày càng gia tăng
Theo thống kê của ủy ban Bảo vệ chăm sóc thế hệ

trẻ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy:
Trong tổng số 8.000 gái mại dâm, có 15% là thế hệ
trẻ dưới 16 tuổi, có 1/4 số thế hệ trẻ bị đẩy vào con
đường mại dâm khi các em mới 13 - 14 tuổi, gần 2/3
số trẻ buộc phải bán dâm trước tuổi 15. Nhiều em bị
lường gạt, cưỡng bức đến kiệt sức [1, tr.82]. Tệ nạn
mại dâm ở nước ta với lứa tuổi vị thành niên tăng
ở mức báo động. Năm 2015 chỉ có 10%, thì đến năm
2019 đã tăng lên 15,42%. Cũng theo công bố của Bộ
Tư pháp cho thấy, số gái mại dâm tính đến 2019
ở Việt Nam có 250 ngàn người. Về nguyên nhân
của tệ nạn mại dâm có nhiều ngun nhân như do
chán cảnh sống gia đình, bạo lực, ly hôn, do bị lừa
gạt, lười lao động hoặc ngại làm những nghề vất
vả. Ngoài ra, do giao lưu, mở cửa, nhiều luồng văn
hóa phẩm theo xu hướng “tự do giải phóng sex” lan
tràn trên thị trường, xâm nhập vào tận thơn xóm,
bản làng và từng gia đình, đã lơi kéo sự tị mị của
một bộ phận, nhất là thanh thiếu niên.
Ý thức tiêu dùng trong lớp trẻ hiện nay đang có
những biểu hiện lệch lạc
Trong tình hình hiện nay, sự nghiệp đổi mới tạo cơ
hội cho nhiều gia đình làm giàu chính đáng. Nhưng
ngay cả những gia đình giàu có, do tập trung vào
mục đích kinh tế, nên việc giáo dục con cái cũng có
những hạn chế và thiên lệch. Một điều tất yếu là gia
đình nhiều tiền có nhu cầu tiêu dùng nhiều, nếu thế
hệ trẻ không được giáo dục, cũng dễ bị tiêm nhiễm
tâm lý tiêu xài, đua đòi, chơi sang, tiêu dùng hàng
ngoại, hợp mốt,... Đến một lúc nào đó, khi cha mẹ

kiếm tiền ít đi, khơng đáp ứng đầy đủ, thì con cái
trở nên xoay xở, trộm cắp, lừa đảo và dễ dàng rơi
vào phạm tội. Vì vậy, “giáo dục cách tiêu dùng cũng
là một mặt giáo dục quan trọng đối với con người
hiện đại”.

118 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020


LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
4.2. Việc giáo dục học tập văn hóa cho trẻ
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của các
phương tiện thông tin trước yêu cầu ngày càng
cao của sự phát triển kinh tế - xã hội, đa số các bậc
cha mẹ và ngay cả bản thân thế hệ trẻ đều nhận
thức rõ vai trò của việc nâng cao kiến thức văn
hóa khoa học cơng nghệ, coi đó là chìa khóa để
mở cửa cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống tương
lai, góp phần xây dựng đất nước phát triển. Bởi vậy
việc học tập của con cái được nhiều gia đình quan
tâm đặc biệt. Quan niệm đầu tư cho “con cái” chính
là đầu tư cho phát triển đã trở nên khá phổ biến,
nhất là trong các gia đình ở đơ thị, trong khi các
gia đình ở nơng thơn cịn tương đối khó khăn. Điều
này do trình độ văn hóa của vùng nông thôn hạn
chế và kiến thức hiểu biết xã hội của các bậc cha
mẹ còn thấp. Theo [7[ tỷ lệ chưa tốt nghiệp phổ
thông cơ sở đối với lứa tuổi từ 20 - 44 (cần nuôi
dạy con cái nhiều) ở nữ từ 42% đến 55%, ở nam
là từ 38,4% đến 41,8%. Trình độ và kiến thức của

cha mẹ hạn chế đã làm ảnh hưởng đến việc giáo
dục học tập của con cái. Nếu cha mẹ tạo ra được
bầu khơng khí học tập trong gia đình (cha mẹ đọc
sách báo khơng những tăng thêm sự hiểu biết, mà
cịn tạo khơng khí yên tĩnh cho con cái học tập,
giúp chúng giải đáp những vướng mắc các vấn đề
về kiến thức văn hóa, xã hội,...), sẽ tạo cho con
cái lòng hăng say thi đua học tập, đem lại kết quả
ngày càng tiến bộ.
4.3. Giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập
cho thế hệ trẻ
Hiện nay, việc giáo dục lao động và rèn luyện tính
tự lập cho con cái cịn có sự khác nhau giữa gia
đình ở thành thị và gia đình nơng thơn. Đối với gia
đình thành thị, cịn khá phổ biến tâm lý cho rằng,
những công việc nặng nhọc là việc làm của người
lớn, cha mẹ phải làm tất cả, con cái chỉ lo học tập.
Xuất phát từ nhận thức ấy nên ở nhiều gia đình,
ngồi việc học tập, con cái khơng phải tham gia bất
cứ việc gì. Thậm chí, những mơn học thủ cơng,
thực hành thí nghiệm nhà trường giao,... cũng do
cha mẹ và người lớn làm thay, từ đó nảy sinh tâm
lý dựa dẫm, ỷ lại vào cha mẹ. Hầu hết các em sống
trong những gia đình như vậy, khi phải tham gia
các hoạt động ngoại khóa, lao động ở nhà trường
hay do đồn, đội tổ chức,... thì thường tỏ ra lúng
túng, trốn tránh hoặc làm qua loa. Đây là hiện tượng
khơng bình thường. Đối với gia đình nông thôn, trẻ
em phải tham gia lao động từ rất sớm, nhiều em
nhỏ nhưng phải làm việc nặng nhọc quá sức, nhất

là đối với trẻ em gái. Do tính đặc thù của công việc
nhà nông, nhất là vào thời vụ, hầu như mọi thành
viên phải tập trung vào sản xuất, trẻ em thậm chí
phải nghỉ học để giúp gia đình, nên chúng thường
phải lao động quá sức và kéo dài suốt cả ngày, mà
khơng có thời gian nghỉ ngơi. Theo báo cáo của
Uỷ ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em hiện nay vùng

nông thôn phổ biến các em từ 14 - 16 tuổi đã tham
gia lao động sản xuất cùng gia đình trong khi các
em từ 10 tuổi đã tham gia phụ giúp cơng việc gia
đình. Mặc dù xã hội khơng khuyến khích lao động
trẻ em, song lực lượng này vẫn tồn tại. Đã đến lúc
cần phải có giải pháp cơ bản để bảo vệ quyền trẻ
em, không để chúng bị thiệt thịi, bị lạm dụng và
bóc lột q sức.
4.4. Việc giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ
Giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ là nhằm tạo điều
kiện để trẻ chủ động trong quan hệ giữa hai giới,
chủ động trong việc nâng cao kiến thức về tính dục
học và để trẻ trực tiếp giữ gìn tuổi hoa, biết tự bảo
vệ mình trên cơ sở khoa học. Việc giáo dục giới
tính cho thế hệ trẻ có nhiều nội dung và phương
pháp, song giáo dục sự hiểu biết về tình dục là nội
dung rất quan trọng.
Trước đây, người Việt Nam thường quan niệm
khi nam nữ lớn lên độ 13 đến 16 tuổi “Gái thập
tam, nam thập lục” đã được coi là phát triển đầy
đủ về mặt giới tính, có thể dựng vợ gả chồng. Ca
dao Việt Nam có câu “lấy chồng từ thuở mười ba,

đến năm mười tám em đà năm con”. Vấn đề giáo
dục giới tính trước đây ở nước ta, kể cả trong nhà
trường, dường như không được đề cập tới, một
mặt do khoa học (y học, tâm lý, xã hội học, giáo
dục học,...) chưa phát triển mạnh mẽ và phổ biến
rộng rãi; mặt khác, do ảnh hưởng của quan niệm
truyền thống, nên người ta e ngại, né tránh khơng
nói tới vấn đề giới tính, tình dục, nói tới là “vạch
đường cho hươu chạy” và coi đó thuộc phạm trù
đạo đức, mà quan hệ khác giới, bạn bè, tình u,
là thầm kín và giữ khn phép chặt chẽ “nam nữ
thụ thụ bất thân”. Trong xã hội hiện nay, do sự phát
triển của khoa học, công nghệ, của điều kiện kinh
tế, văn hóa và xã hội, những quan niệm về giới và
giới tính đã có nhiều thay đổi theo hướng tiến bộ,
nhất là các gia đình ở khu vực thành phố, thị xã.
Do đó, việc giáo dục giới tính cũng phù hợp hơn,
hiệu quả hơn và tơn trọng quyền con người hơn.
Đa phần, các em vào tuổi dậy thì, cha mẹ (nhất là
người mẹ) đã chủ động quan tâm giáo dục cho các
em về những nội dung liên quan đến vấn đề giới
tính, tình dục, về sức khỏe sinh sản vị thành niên,
về tình bạn, tình yêu, vệ sinh thân thể, về hơn nhân
và gia đình,... Số liệu của Tổng cục Thống kê hiện
nay Việt Nam có 20 triệu người từ 15 đến 24 tuổi,
đây là độ tuổi có thời kỳ phát triển rất nhanh về
thể chất, trí tuệ và thể lực, là thời kỳ đánh dấu xu
hướng phát triển mới về mọi mặt, là lứa tuổi thoát
dần từ phạm vi gia đình để hịa nhập vào tập thể
và hoạt động của những người cùng lứa tuổi. Do

đặc điểm về giới tính, thế hệ trẻ thường ưa mạo
hiểm và những vấn đề mới lạ, tính hiếu động và bắt
chước,... cho nên rất cần sự giáo dục, chăm sóc,
giúp đỡ và quản lý của nhiều cấp, ngành, đoàn thể
và đặc biệt là từ gia đình. Cũng theo Hội Liên hiệp

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020 119


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Phụ nữ năm 2019 tỷ lệ nạo phá thai và sinh con
trước 18 tuổi còn rất cao, luôn chiếm trên 30%.
Điều đáng quan tâm là trên 80% vị thành niên có
thai mà khơng biết hoặc khơng hiểu mình có thai.
Tình trạng lạm dụng tình dục ở thế hệ trẻ và buôn
bán trẻ gái luôn là điều lo lắng của toàn xã hội.
Điều đáng quan tâm là hoạt động tình dục khơng
được bảo vệ ngày càng nhiều hơn, các em gái bị
lạm dụng mà không biết, nhiều em cịn thiếu hiểu
biết, thiếu sự chăm sóc dạy dỗ của gia đình. Thực
trạng này rất đáng lo ngại cho sức khỏe sinh sản
của thế hệ trẻ, là một nguy cơ đe dọa đến sức khỏe
của con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng.
Những ngun nhân dẫn đến tình trạng trên có thể
là: Nhiều em thiếu sự hiểu biết và chưa có điều
kiện thuận lợi để hiểu biết về giới tính, tình dục, về
sức khỏe, hậu quả và cách phòng tránh, thiếu sự
giúp đỡ, dạy dỗ một cách đầy đủ của gia đình, của
cha mẹ. Hoạt động của phim ảnh, video trong các
nhà hàng, quán karaoke,... công khai hoặc lén lút,

đã tác động ảnh hưởng không tốt đến đạo đức và
hành vi của thế hệ trẻ. Lối sống buông thả, chạy
theo tiền bạc, vật chất, hưởng lạc của một số bậc
cha mẹ, cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến con
cái. Một số bậc cha mẹ chưa có sự hiểu biết đầy đủ
về giới tính và tình dục, vì vậy họ thấy khơng cần
thiết phải giáo dục giới tính, tình dục cho con cái,
coi đó là cơng việc của “tạo hóa”.
Trong điều kiện hiện nay, do kinh tế phát triển, đời
sống xã hội khởi sắc và sự tồn cầu hóa về thơng
tin, nên tuổi dậy thì của thế hệ trẻ Việt Nam đến
sớm hơn so với trước đây. Vì thế chúng ta không
nên né tránh nội dung giáo dục giới tính cho tuổi
trẻ từ trong gia đình, cha mẹ phải chủ động và phối
hợp với nhà trường, xã hội để giáo dục có định
hướng về vấn đề này. Sự chậm trễ, né tránh vấn
đề giáo dục giới tính, giáo dục tình dục, sẽ làm cho
sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ gặp nhiều
trở ngại và khó khăn.
Tóm lại, một bộ phận đáng kể gia đình ở Việt Nam
chưa quan tâm đúng mức hoặc quan tâm không
đúng cách đến việc giáo dục cho thế hệ trẻ về học
tập, văn hóa, lao động, tính tự lập, giới tính,... Đây
là ngun nhân chính làm cho một bộ phận trẻ em
yếu kém, hư hỏng, vi phạm pháp luật,... cần có
những giải pháp để giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta
trong những năm tiếp theo.
5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI
TRỊ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI GIÁO DỤC THẾ HỆ
TRẺ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

5.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị của gia
đình đối với giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay
Nhận thức đúng là khởi đầu cho hành động đúng.
Nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vị trí, vai trị của
gia đình đối với giáo dục thế hệ trẻ, là yếu tố quan
trọng cho sự thành cơng của giáo dục gia đình. Do
đó, các gia đình cần có cách tiếp cận mới, có những
nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trị gia đình đối với

giáo dục thế hệ trẻ trong bối cảnh khoa học cơng
nghệ có tác động mạnh mẽ tới đời sống xã hội, hơn
nữa đây cũng là một hình thức trong hệ thống giáo
dục quốc gia. Đổi mới nhận thức không chỉ là đổi
mới nhận thức về mặt nội dung, phương pháp giáo
dục mà điều quan trọng là phải thấy được sự gắn
kết giữa giáo dục gia đình với giáo dục nhà trường
và giáo dục xã hội, trong đó công tác giáo dục thế
hệ trẻ trước hết thuộc về gia đình, song cũng là
sự nghiệp của tồn xã hội. Đổi mới nhận thức về
giáo dục gia đình là sự khởi đầu thành công cho sự
nghiệp đổi mới giáo dục - đào tạo vì tương lai phát
triển tồn diện cho con người Việt Nam.
5.2.Tiếp tục đẩy mạnh cải cách giáo dục - đào
tạo, tạo điều kiện để kết hợp chặt chẽ giữa nhà
trường với gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ
Những năm tới, cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc cải
cách giáo dục - đào tạo, đổi mới chương trình, nội
dung, phương thức trong đó chú ý kết hợp chặt
chẽ giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các

bậc học, trên cơ sở kế thừa các giá trị truyền thống,
kết hợp với tiếp thu chọn lọc những tinh hoa văn
hóa giáo dục nhân loại. Có như vậy, giáo dục - đào
tạo mới tránh được nguy cơ tụt hậu, lạc hậu, góp
phần nâng cao năng lực hội nhập nhằm góp phần
xây dựng nền kinh tế tri thức, tạo điều kiện và cơ
hội cho thế hệ trẻ phát huy tối đa ưu thế và khả
năng thích ứng với sự phát triển của xã hội tri thức.
5.3. Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc
Một là, xây dựng gia đình ấm no
Hiện nay yêu cầu về ấm no của gia đình đã có
những thay đổi so với trước đây, chỉ số gia đình no
ấm khơng chỉ là ăn no, mặc ấm, mà phải vươn lên
ăn ngon, mặc đẹp, tiện nghi sinh hoạt, vui chơi hiện
đại, văn minh. Để thực hiện giải pháp xây dựng gia
đình no ấm, Nhà nước cần có chính sách xóa đói
giảm nghèo, giúp đỡ gia đình tích cực thực hiện
việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế hộ gia đình, tạo việc
làm và chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các
ngành nghề khác, áp dụng những tiến bộ khoa học
công nghệ mới, giảm bớt sự nặng nhọc của lao
động thủ cơng bằng máy móc, đặc biệt là giảm lao
động nặng nhọc cho phụ nữ và trẻ em. Đồng thời,
có chính sách tăng quỹ phúc lợi cho gia đình, đảm
bảo cho thế hệ trẻ sinh ra phải được chăm sóc,
ni dưỡng và giáo dục một cách tốt nhất.
Hai là, xây dựng gia đình bình đẳng
Đây là thành quả của sự nghiệp đổi mới. Cùng với
sự phát triển về kinh tế, các vấn đề văn hóa, xã hội

cũng có những thay đổi tiến bộ. Sinh hoạt dân chủ,
tự do trong xã hội ngày càng được tăng cường,
điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của
gia đình. Bầu khơng khí dân chủ, quyền bình đẳng
về các mối quan hệ giữa các thành viên, giữa các
thế hệ,... ngày càng được tơn trọng và đề cao. Đó

120 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020


LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
là quan hệ giữa vợ - chồng; quan hệ giữa cha mẹ
và con cái; quan hệ ông bà và các cháu.
Ba là, xây dựng gia đình tiến bộ
Để xây dựng gia đình tiến bộ cần phải thực hiện
chặt chẽ với thực hiện kế hoạch hóa gia đình, thực
hiện sinh đẻ có kế hoạch bảo vệ sức khỏe bà mẹ,
trẻ em, bảo vệ và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Để gia đình tiến bộ các địa phương cần phải xây
dựng cộng đồng tiến bộ với truyền thống “tương
thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, “vắng anh em
xa có láng giềng gần” giúp đỡ nhau lúc khó khăn,
hoạn nạn, chia ngọt sẻ bùi với xóm làng, khối phố,
góp phần bảo đảm sự bình yên cho mỗi gia đình và
cộng đồng xã hội. Gia đình tiến bộ phải là gia đình
thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, sống và làm việc theo hiến pháp và
pháp luật.
Bốn là, xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững
Để xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ là

cơ sở để xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững
thì phải xây dựng một gia đình hịa thuận, hạnh
phúc, các thành viên được đáp ứng những nhu cầu
cần thiết về vật chất và tinh thần, họ thật sự đồng
cảm, nhất trí, tin u và tơn trọng nhau, bình đẳng,
tiến bộ, thống nhất quan niệm về cuộc sống gia
đình, tự giác thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa
vụ của mình trước gia đình, trước những người
thân và trước xã hội, phấn đấu vì một gia đình văn
hóa thì việc giáo dục thế hệ trẻ có văn hóa sẽ có
cơ sở hiện thực.
5.4. Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ,
đặc biệt coi trọng ưu thế của giáo dục gia đình
Gia đình, nhà trường, xã hội là những thiết chế có
những chức năng giáo dục, xã hội hóa cá nhân
khơng hồn tồn giống nhau, mỗi thiết chế bộc lộ
những đặc trưng rõ rệt. Do đó, để phối hợp giữa
gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục
thế hệ trẻ trước hết các thiết chế cần được bổ sung
cho nhau. Những mặt mạnh của giáo dục gia đình
sẽ bổ sung cho những thiếu hụt của giáo dục nhà
trường, của đồn đội. Đồng thời, giáo dục gia đình
cần được bổ sung những mặt mạnh của giáo dục
nhà trường và các tổ chức xã hội. Thứ hai ngoài
việc tăng cường phối hợp giữa các thiết chế, chúng
ta cần coi trọng và phát huy ưu thế của gia đình
trong giáo dục thế hệ trẻ. Trong đó cần phát huy
những ưu thế sau: Một là, giáo dục gia đình thơng
qua tình cảm yêu thương ruột thịt; Hai là, giáo dục

gia đình mang tính cá biệt; Ba là, giáo dục gia đình
là sự phối hợp nhiều mặt, mang tính thực tiễn cao.
5.5. Nâng cao trình độ dân trí và năng lực giáo
dục cho các bậc cha mẹ
Người đời để lại cho hậu thế lời cảnh báo về giáo
dục thiếu hiểu biết: “Đừng truyền đạt cho người
khác cái mà mình chưa biết”. Trong gia đình, bậc
cha mẹ là những người chịu trách nhiệm chính

trong việc giáo dục con cái, bởi vậy việc giáo dục
thế hệ trẻ không thể mang lại kết quả như mong
muốn, một khi trình độ dân trí nói chung, năng lực
giáo dục của bậc cha mẹ nói riêng thấp kém. Nếu
khơng muốn mắc sai lầm sau khi đã được cảnh
báo, thì địi hỏi trình độ dân trí, năng lực giáo dục
của các bậc cha mẹ phải được nâng lên. Để nâng
cao kiến thức và năng lực giáo dục của bậc cha
mẹ, Nhà nước cần có chính sách giáo dục, chú ý
đến các chương trình học tập cho người lớn. Chỉ
có nâng cao học vấn, kiến thức và năng lực giáo
dục, mới là giải pháp cơ bản để tăng cường và
nâng cao vai trị giáo dục gia đình, nhất là với bậc
cha mẹ ở khu vực nông thôn, miền núi ở nước ta.
5.6. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục
gia đình đối với thế hệ trẻ
- Đổi mới nội dung giáo dục
Trong nội dung giáo dục đạo đức, nếu trước đây
và ngay cả một bộ phận gia đình hiện nay, cha mẹ
giáo dục con cái phải ngoan ngoãn, vâng lời theo
nguyên tắc trên bảo, dưới nghe hay tuân theo sự

áp đặt một chiều, thì ngày nay sự ngoan ngỗn,
vâng lời phải được xem xét, nhìn nhận từ hai phía
chủ thể giáo dục (cha mẹ) và khách thể giáo dục
(con cái). Đạo đức ngày nay khơng chỉ là sự ngoan
ngỗn, vâng lời, mà còn phải là tự ý thức về trách
nhiệm, nghĩa vụ và phải ln phấn đấu vượt qua
khó khăn để học tập, có nghề nghiệp chun mơn,
biết sống tự lập, năng động và sáng tạo,... Do đó,
cha mẹ phải giáo dục con cái học tập để đáp ứng
sự phát triển xã hội với nhiều ngành nghề mới xuất
hiện. Gia đình phải định hướng cho con cái học
tập để có học vấn cao, có trình độ chun mơn,
khoa học kỹ thuật tiên tiến, có kiến thức tồn diện:
chun mơn, ngoại ngữ, vi tính, có ý chí và biết
làm giàu bằng kiến thức và năng lực của bản thân.
Hơn thế nữa học chữ, học nghề đồng thời phải học
cách làm người, làm người có nhân cách.
- Về phương pháp giáo dục
Cách giáo dục bằng phương pháp hành chính bắt
trẻ phục tùng mệnh lệnh của ông bà, cha mẹ, cần
thay bằng phương pháp định hướng, khích lệ. Bầu
khơng khí bình đẳng, dân chủ trong gia đình cũng
là phương pháp giáo dục có ý nghĩa thiết thực.
Bởi trong hồn cảnh như vậy, lịng tự trọng của trẻ
được đề cao, một khi cha mẹ định hướng trong học
tập và rèn luyện để trẻ thấy mình phải tự làm và bắt
đầu làm từ đầu,... Bởi việc giáo dục nghiêng về sự
định hướng là để con cái tự nhìn nhận, phân biệt
đúng sai và tự điều chỉnh, phát huy tính chủ động
và sáng tạo của chúng. Khơng quá nghiêm khắc,

khắt khe, song cũng không nuông chiều, dễ dãi quá
mức, gây cho chúng tâm lý hưởng thụ vật chất, ít
quan tâm đến cha mẹ và người xung quanh. Muốn
giáo dục có kết quả, người làm cha mẹ phải tìm
thấy ở con em mình những đức tính tốt đẹp, dù đây
chỉ mới là mầm mống, để khích lệ, giúp đỡ trẻ phát
triển, trên cơ sở đó mà hạn chế cái xấu. Đặc biệt
cần phải nêu cao phương pháp nêu gương vì theo

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020 121


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
đạo lý thông thường, cha mẹ và người lớn trong
gia đình, trước hết phải thống nhất giữa lời nói và
việc làm, cha mẹ phải ln là tấm gương sáng để
con trẻ noi theo. Đây là phương pháp mang lại hiệu
quả giáo dục cao nhất. Thực tiễn được biết có tới
71,7% các bậc cha mẹ sử dụng phương pháp này
[2, tr. 31].

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Bộ Tư pháp (2019), Báo cáo nghiên cứu pháp
luật về phòng ngừa, xử lý, phục hồi, tái hịa nhập
cơng đồng đối với người chưa thành nhiên vi
phạm pháp luật và tình hình người chưa thành
niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam.


Trong đời sống dân chủ và cởi mở hiện nay,
phương pháp giáo dục có hiệu quả hơn là phải
kết hợp việc lồng ghép các phương pháp giáo dục
khác nhau, đặc biệt là phải cải tiến các phương
pháp giáo dục truyền thống theo hướng chất lượng
hơn, tri thức hơn, tình cảm hơn, thời đại hơn và
hiệu quả hơn. Nhất thiết phải giáo dục, rèn luyện
trẻ thông qua lao động, học tập. Cải tiến nội dung
và phương pháp giáo dục đối với con cái sẽ góp
phần quan trọng nâng cao hiệu quả của giáo dục
gia đình ở nước ta hiện nay.

[2]

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2019), Vai
trị của gia đình trong việc giáo dục trẻ em,
Hà Nội.

[3]

Vũ Khiêu (Chủ biên) (1991), Nho giáo xưa và
nay, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

[4]

Tương Lai (1994), Lại bàn về gia đình từ hướng
tiếp cận xã hội học, Xã hội học, (2), tr. 56 - 58.

[5]


C.Mác và Ph. Ăng-ghen (1995), Toàn tập,
tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội.

6. KÊT LUẬN

[6]

Lê Thi (1997), Vai trị gia đình trong việc xây
dựng nhân cách con người Việt Nam, Nhà xuất
bản Phụ nữ, Hà Nội.

[7]

Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo sơ bộ
tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.

[8]

Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình
và phụ nữ (1994), Gia đình và vấn đề giáo
dục gia đình, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội.

[9]

Viện Nghiên cứu Thanh niên (1992), Vấn đề
thanh niên nhìn nhận và dự báo, Nhà xuất bản
Thanh Niên, Hà Nội.


Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng
cả đời người, hơn nữa gia đình là một bộ phận của
hệ thống giáo dục xã hội. Giáo dục gia đình dựa
trên nền tảng tình thương, lao động và lẽ phải, là
sự giáo dục có mục đích hướng tới sự hình thành
và phát triển nhân cách của con người. Giáo dục
gia đình bao gồm nội dung toàn diện: giáo dục đạo
đức, học tập, lao động, giáo dục tính tự lập, giáo
dục giới tính,... Do đó, giáo dục gia đình cần phải
được nhìn nhân một cách toàn diện để xây dựng
con người Việt Nam mới cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức và
đạt tầm cao mới về trí tuệ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần phải
có những giải pháp cụ thể và thực hiện một cách
đồng bộ sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục gia đình
với thế hệ trẻ trong thời gian tới.

[10] en.UNESCO.org

THƠNG TIN TÁC GIẢ
Vũ Văn Đơng
- Tóm tắt q trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào
tạo, nghiên cứu):
+ Năm 2006: Tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Sư phạm Giáo dục chính trị trường
Đại học Sư phạm Hà Nội I.
+ Năm 2011: Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
+ Năm 2017 - nay: NCS chuyên ngành Kinh tế chính trị - khoa Kinh tế học - Học
viện khoa học xã hội.

- Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên Khoa Giáo dục chính trị và Thể chất - Trường
Đại học Sao Đỏ.
- Lĩnh vực quan tâm: Khoa học xã hội, nhân văn.
- Email:
- Điện thoại: 0985412618.

122 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020



×