Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong quản lý phát triển xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.77 KB, 6 trang )

LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC

Vai trị của đội ngũ trí thức Việt Nam trong quản lý phát triển
xã hội hiện nay
The role of the contingent of Vietnamese intellectuals in current
social development management
Nguyễn Thị Nhan
Email:
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 02/4/2020
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 03/9/2020
Ngày chấp nhận đăng: 30/9/2020
Tóm tắt
Trong mọi thời đại, trí thức ln đóng vai trị quan trọng đối với sự phát triển và hưng thịnh của mỗi quốc
gia. Xuyên suốt tiến trình bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam, đội ngũ trí thức đã có những đóng góp
quan trọng trong quản lý phát triển xã hội như: góp phần xây dựng luận cứ cho các chủ trương đường lối
của Đảng; tích cực tư vấn, phản biện và giám định xã hội; đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; nâng cao dân trí và giáo dục, đào tạo; tôn vinh và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc; tiếp thu những giá trị văn hóa trên thế giới, làm phong phú thêm nền văn
hóa Việt Nam. Bên cạnh những đóng góp tích cực, đội ngũ trí thức Việt Nam cịn tồn tại một số hạn chế
nhất định: một bộ phận trí thức còn yếu về năng lực, chưa chuyên tâm thực hiện công việc chuyên môn;
công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập; việc tham gia tư vấn, phản biện, giám định
các chương trình, chính sách, văn bản của Đảng, Nhà nước chưa hiệu quả. Để khắc phục hạn chế, phát
huy vai trị của đội ngũ trí thức trong quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh hiện nay, tác giả bài viết đề
xuất một số giải pháp sau: nâng cao nhận thức về vai trò của trí thức trong quản lý phát triển xã hội; đào
tạo, bồi dưỡng trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; đổi mới chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ
và tơn vinh trí thức phục vụ q trình phát triển đất nước hiện nay.
Từ khóa: Đội ngũ trí thức; quản lý phát triển xã hội.
Abstract
In every age, intellectuals have always played an important role in the development and prosperity of each
nation. Throughout the process of defending and building the fatherland, the Vietnamese knowledge team


has made important contributions to social development management such as: contributing to building
arguments for the Party’s line guidelines; actively consulting, criticizing and social assessment; fight against
wrong views, protect the Party’s ideological foundation; improve people’s knowledge and education and
training; honoring and promoting the traditional cultural values of the nation; absorbing cultural values in
the world, enriching Vietnamese culture. In addition to positive contributions, the Vietnamese intellectual
contingent also has certain shortcomings: a part of the intellectuals is still limited in capacity, not dedicated
to performing professional work; practical review, theoretical research are still inadequate; the participation
in consulting, criticizing and appraising programs, policies and documents of the Party and State has not
been effective. To overcome the limitations and promote the role of intellectuals in social development
management in the present context, the author of the article proposes a number of solutions as follows:
raise awareness about the role of intellectuals; in social development management; train and foster
intellectuals to meet the country’s development requirements; renew policies to attract, use, treat and
honor intellectuals to serve the country’s development process today.
Keywoks: Team of intellectuals; social development management.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội càng phát triển thì trí thức càng có vị trí, vai
trị quan trọng, là nhân tố quyết định hàng đầu đối
Người phản biện: 1. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà
2. TS. Phùng Thị Lý

với sự phát triển của đất nước. Hiện nay đội ngũ trí
thức Việt Nam vẫn ln được Đảng và Nhà nước
quan tâm. Các chủ trương, chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ban hành trong những năm
vừa qua đã tạo ra những chuyển biến tích cực, góp
phần tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ trí
thức, để có thể đóng góp tốt hơn cho q trình đổi

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020 123



NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
mới, quản lý và phát triển đất nước... Tuy nhiên, so
với yêu cầu phát triển của đất nước, sự phát triển
của đội ngũ trí thức Việt Nam cịn nhiều hạn chế.
Những hạn chế đó khiến cho những đóng góp của
đội ngũ trí thức với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, quản lý phát triển xã hội còn khiêm
tốn, chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của con
người Việt Nam, giá trị Việt Nam. Do đó, việc quan
tâm và tìm ra giải pháp nhằm phát huy vai trị của
đội ngũ trí thức Việt Nam trong quản lý phát triển xã
hội hiện nay có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến
sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
2. KHÁI QUÁT VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ QUẢN
LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Đội ngũ trí thức Việt Nam
Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng Latinh
- “Intelligentia”, có nghĩa là sự hiểu biết, sự thơng
thái, thơng minh, trí tuệ…[4, tr.28]. Tại Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X
(2008), Đảng ta đã đưa ra định nghĩa: “Trí thức là
những người lao động trí óc, có trình độ học vấn
cao về lĩnh vực chun mơn nhất định, có năng lực
tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri
thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất
có giá trị đối với xã hội” [1].
Đội ngũ trí thức Việt Nam được hình thành, phát
triển gắn liền tiến trình lịch sử - xã hội của dân tộc
và có những đặc điểm, cụ thể:

Một là, trí thức Việt Nam được hình thành từ nhiều
thành phần xã hội, được đào tạo từ nhiều nguồn
khác nhau và lao động cống hiến trên tất cả các
lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Hai là, trí thức Việt Nam có lịng u nước nồng
nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc, gắn bó mật thiết với
nhân dân, cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo.
Ba là, trí thức Việt Nam có tiềm năng trí tuệ to lớn,
ham hiểu biết, nhạy bén với cái mới, có khả năng
tiếp thu nhanh những thành tựu KH&CN tiên tiến
của thế giới. Đảng ta chỉ rõ: “Trí thức Việt Nam là
lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng
trong tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế
tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững
mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức
mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống
chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư
cho phát triển bền vững” [1, tr.82].

trị - xã hội…) đến khách thể quản lý (cộng đồng
dân cư, quan hệ, hoạt động xã hội, các cá nhân…)
nhằm mục tiêu phát triển bền vững xã hội. Với tư
cách đó, quản lý xã hội ln là hành vi tự giác,
chủ động, có chủ đích, mục tiêu nhằm điều tiết các
quan hệ xã hội, hoàn thiện các thể chế, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần nhân dân, đảm bảo con

người phát triển toàn diện. Quản lý phát triển xã
hội lấy con người làm điểm xuất phát và mục tiêu
vì con người.
Hiệu quả quản lý phát triển xã hội được đánh giá
thông qua sự ổn định và phát triển bền vững xã
hội. Ổn định ở đây phải là sự “ổn định trong sự
phát triển” chứ không phải là đứng im, bất biến;
phát triển là sự phát triển bền vững, gắn với bảo vệ
môi trường, vì lợi ích của số đơng cộng đồng dân
cư. Công cụ để quản lý phát triển xã hội là các chủ
trương, chính sách, hệ thống pháp luật; bộ máy tổ
chức, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị từ
trung ương xuống địa phương.
Quá trình quản lý phát triển xã hội phụ thuộc vào
cả nhân tố chủ quan (năng lực của chủ thể quản lý)
và các điều kiện khách quan như trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, truyền thống văn
hóa,… Xã hội càng phát triển thì yêu cầu về việc
quản lý phát triển xã hội càng cao và toàn diện.
Nội dung quản lý phát triển xã hội được đưa ra tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), tập
trung vào một số lĩnh vực sau: (i) Quản lý phát triển
cơ cấu xã hội (bao gồm cơ cấu giai cấp, tầng lớp,
dân số, dân cư, dân tộc, tơn giáo, giới tính, nghề
nghiệp…); (ii) Định hướng, kiểm soát các biến đổi
xã hội (phân tầng xã hội, di động xã hội…); (iii) Các
biện pháp bảo đảm xã hội (an sinh, phúc lợi xã hội,
hòa nhập cộng đồng…); (iv) Các chính sách giải
quyết hài hịa lợi ích giữa các đối tượng, lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội…

Mục tiêu của quản lý phát triển xã hội là: “giải quyết
hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết
có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những
mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội; khắc
phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối
với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa
cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai
tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý. Kịp thời
kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột
xã hội” [5].
3. VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG
QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.2. Quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam

3.1. Những đóng góp của đội ngũ trí thức trong
quản lý phát triển xã hội

Quản lý phát triển xã hội là sự tác động có định
hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý (đảng chính
trị cầm quyền, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính

Một là, đội ngũ trí thức Việt Nam góp phần quan
trọng trong xây dựng chủ trương, đường lối, chính
sách về quản lý phát triển xã hội.

124 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020


LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC

Đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước có phù hợp với tình hình đất
nước ở mỗi giai đoạn hay không phụ thuộc rất
nhiều vào cơ sở khoa học của đường lối, chính
sách, pháp luật đó. Là những người có hiểu biết
sâu rộng, đội ngũ trí thức thơng qua những nghiên
cứu của mình, cung cấp những luận cứ khoa học
cho quá trình xây dựng đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Những cơng trình tiêu biểu như: Hệ thống chính trị
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta giai đoạn 1991 - 1995; Tăng cường vai trò lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện
nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giai đoạn 1996 2000;… là căn cứ khoa học để Đảng và Nhà nước
có những đường lối, chính sách phù hợp trong
quản lý phát triển xã hội [3. tr.125].
Hai là, đội ngũ trí thức Việt Nam tích cực tư vấn,
phản biện và giám định xã hội về quản lý phát triển
xã hội.
Từ góc độ chun ngành, trí thức đóng góp ý kiến
đánh giá, phản biện, giám định các đề án, dự án...,
các cơng trình trọng điểm quốc gia, địa phương
trong quản lý phát triển xã hội. Các trí thức trong
Hội ngành toàn quốc đã thực hiện nhiều hoạt động
tư vấn, phản biện và giám định xã hội, có những
đóng góp tích cực vào việc xây dựng chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật và thực hiện có
hiệu quả các dự án kinh tế - xã hội quan trọng của
ngành cũng như của đất nước. Cụ thể: Hội Khoa

học Kinh tế Việt Nam thực hiện tư vấn, phản biện
nhiều nhiệm vụ trong lĩnh vực kinh tế - xã hội về
thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế Việt Nam, đánh giá
nền kinh tế Việt Nam sau ba mươi năm đổi mới.
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
góp ý cho Luật Bảo vệ mơi trường sửa đổi, tư vấn
phản biện đa dạng sinh học dãy Trường Sơn, hệ
thống chỉ tiêu thống kê môi trường và phát triển
bền vững, chương trình mục tiêu quốc gia về ứng
phó với biến đổi khí hậu… Thực hiện vai trị này,
đội ngũ trí thức thực sự trở thành bộ phận tham
mưu khoa học đáng tin cậy của Đảng và chính
quyền các cấp.
Ba là, đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng xung
kích đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng trong quá trình quản
lý phát triển xã hội.
Hiện nay các thế lực thù địch đang lợi dụng mạng
xã hội, thực hiện diễn biến hòa bình nhằm thay đổi
chế độ chính trị ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, đội
ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng xung kích trong
nhận diện những âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch, đấu tranh phản bác những quan điểm
sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đội
ngũ trí thức Việt Nam cũng là lực lượng quan trọng

trong tuyên truyền tư tưởng, lý luận của Đảng đến
với cộng đồng.
Bốn là, đội ngũ tri thức Việt Nam góp phần nâng
cao dân trí, trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực đáp

ứng sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ dần xóa
bỏ lao động giản đơn, đặt ra yêu cầu về nguồn
nhân lực chất lượng cao. Đội ngũ trí thức, với
vai trị là lực lượng chính trong tiếp thu khoa học
công nghệ trên thế giới, nghiên cứu, sáng tạo giá
trị mới về khoa học và công nghệ; vừa là những
người thầy thực hiện hoạt động đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Năm là, đội ngũ trí thức Việt Nam góp phần tơn
vinh và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc; tiếp thu những giá trị văn hóa trên thế giới,
làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam.
Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
được nghiên cứu dưới nhiều phương diện: ngôn
ngữ, lối sống, nghệ thuật, kho tàng văn hóa dân
gian, tín ngưỡng tơn giáo, lễ hội, con người Việt
Nam. Từ đó, đội ngũ trí thức đã làm phong phú
thêm bản sắc văn hóa, đồng thời chỉ ra tính thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, ý nghĩa lịch sử của những giá trị đó với việc
xây dựng đời sống tinh thần hiện nay. Cùng với
công tác nghiên cứu văn hóa, cơng tác bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa cũng đạt được những
bước tiến đáng kể. Hàng trăm ngàn hiện vật, di vật
văn hóa có giá trị được phát hiện, sưu tầm. Nhờ sử
dụng những kỹ thuật hiện đại, những nét văn hóa
truyền thống của các dân tộc anh em cũng được
tái hiện một cách sinh động. Nhờ vào những hoạt

động tích cực của đội ngũ trí thức, đặc biệt là các
trí thức trên lĩnh vực văn hóa, giá trị khoa học, tiên
tiến của nền văn hóa được bổ sung và nâng cao.
Việc truyền bá những giá trị văn hóa Việt Nam được
đội ngũ trí thức tích cực thực hiện thơng qua sách,
báo chí, internet, các hình thức sinh hoạt văn hóa
tinh thần... Nhờ đó, các tầng lớp nhân dân trong
nước nâng cao nhận thức về nền văn hóa mới,
tạo sự đồng thuận, đồn kết về mặt tinh thần trong
nhân dân. Đồng thời, giới thiệu những giá trị văn
hóa tốt đẹp của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.
3.2. Những hạn chế của đội ngũ trí thức Việt
Nam trong quản lý phát triển xã hội
Thứ nhất, một bộ phận tri thức Việt Nam còn hạn
chế về năng lực, chưa chuyên tâm thực hiện công
việc chuyên môn.
Đội ngũ trí thức tăng nhanh về số lượng nhưng
chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
của đất nước. Với việc mở rộng quy mô giáo dục
cao đẳng, đại học và trên đại học trong những năm

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020 125


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
qua, đã làm cho đội ngũ trí thức tăng nhanh về mặt
số lượng. Tuy nhiên, chất lượng cịn nhiều bất cập.
Chỉ có các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên
gia, một số các nhà trí thức nổi trội có sự nghiên
cứu độc lập, sáng tạo, cịn đại đa số, phương thức

lao động vẫn là kế thừa, cải biến mà ít có phát
minh, sáng tạo. Việt Nam chưa có nhiều cơng trình,
sản phẩm nổi bật, mang tính đột phá ở tầm khu vực
và thế giới [5, tr. 112].
Một số bộ phận nhỏ trí thức thiếu tinh thần trách
nhiệm trong cơng việc, thiếu ý chí vươn lên trong
chun mơn, đạo đức nghề nghiệp sa sút. Nhiều trí
thức mắc bệnh thành tích, mải lo chuyện bằng cấp
để giữ vị trí mà sao nhãng việc nâng cao trình độ,
kiến thức, năng lực chun mơn của bản thân, dẫn
đến tình trạng có danh mà khơng có thực. Nhiều trí
thức cịn có tâm lý ghen tị, đố kỵ với những người
tài giỏi hơn mình. Một bộ phận trí thức trẻ chạy
theo lợi ích trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn
lên về chuyên môn, sống hời hợt, theo trào lưu mà
chưa tự tạo dựng được hệ giá trị bền vững cho
bản thân.
Thứ hai, cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận cịn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề
đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong
thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước.
Nhận thức lý luận về bản chất của hệ thống
chính trị và đổi mới hệ thống chính trị, về Đảng
cầm quyền, về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN… còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống,
chưa lý giải và làm sáng tỏ nhiều vấn đề do thực
tiễn đặt ra; chưa đạt được nhiều kết quả có giá trị
định hướng, mang tính đột phá cho q trình đổi

mới hệ thống chính trị.
Thứ ba, việc tham gia tư vấn, phản biện, giám định
các chương trình, chính sách, văn bản của Đảng,
Nhà nước cịn chưa hiệu quả.

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, với điểm
xuất phát thấp, muốn hội nhập và tận dụng tối đa
những thành tựu của nhân loại, nhanh chóng nâng
cao trình độ sản xuất xã hội, sớm bứt phá để trở
thành một quốc quốc gia phát triển thì việc nâng
cao nhận thức về vị trí, vai trị của đội ngũ trí thức
trong q trình quản lý phát triển xã hội là rất cần
thiết. Quá trình phát triển hiện nay nếu không được
định hướng, tham vấn từ những nghiên cứu chính
xác, cơng phu từ đội ngũ trí thức thì sự phát triển
đó dễ rơi vào những cái “bẫy”, những thái cực,
những xu thế phản phát triển. Xã hội muốn phát
triển bền vững, đúng hướng phụ thuộc rất lớn vào
việc đánh giá và nhìn nhận thành quả lao động của
người trí thức trong xã hội. Do vậy, việc nâng cao
nhận thức đối với vị trí và vai trị của người trí thức
càng trở nên cấp thiết và quan trọng hơn. Cần phải
thực hiện toàn diện trên cả 3 cấp độ: nâng cao
nhận thức của nhân dân; nâng cao nhận thức của
các cấp ủy đảng, chính quyền; nâng cao nhận thức
của bản thân đội ngũ trí thức về vị trí và vai trị của
chính mình.
- Nâng cao nhận thức của nhân dân về vị trí, vai
trị của trí thức là việc làm cần thiết để hình thành
thói quen đề cao tri thức khoa học, đề cao nguồn

lực trí tuệ và coi đó là động lực cơ bản nhất cho
sự phát triển của đất nước. Để nâng cao nhận
thức của nhân dân về vai trị của trí thức trong
xã hội cần kết hợp thực hiện qua nhiều hình thức
như: (1) Tuyên truyền, giáo dục, đào tạo qua các
phương tiện sách báo, phương tiện truyền thông
đại chúng, các tài liệu giáo dục, các lớp học; (2)
Phổ biến và quảng bá những tri thức KH&CN mới
nhất đến nhân dân; (3) Nâng cao nhận thức cho
các tầng lớp nhân dân.
- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và
chính quyền về vị trí,vai trị của trí thức.

4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI
TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG QUẢN
LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Cùng với sự biến động của đời sống xã hội, cơ
cấu đội ngũ trí thức có sự biến đổi. Đội ngũ trí thức
được đào tạo ở các nước tư bản, làm việc trong
các công ty nước ngồi, cơng ty tư nhân ngày
càng tăng… Những bộ phận trí thức này có trình
độ chun mơn cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao
nhưng tiềm ẩn những yếu tố làm nảy sinh sự khác
biệt trong lập trường chính trị, trong các quan điểm
nhân sinh và văn hóa so với đội ngũ tri thức được
đào tạo và làm việc trong nước. Các cấp ủy đảng
và chính quyền cần có nhận thức đầy đủ về vị trí,
vai trị của trí thức trong sự phát triển xã hội để
có những chính sách phù hợp nhằm khuyến khích

mọi thành phần trong đội ngũ tri thức tin yêu, hết
mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước.

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trị của trí
thức trong quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam
hiện nay.

- Bản thân đội ngũ trí thức khơng ngừng nâng cao
nhận thức về vai trò của bản thân trong giai đoạn
hiện nay.

Một số trí thức cịn có thái độ e ngại, né tránh, sợ
đụng chạm đến các vấn đề chính trị nhạy cảm, sợ
bị quy kết quan điểm. Một số trí thức bày tỏ quan
điểm của mình nhưng cịn manh mún và có tính thời
điểm trên một số diễn đàn khơng chính thống như
mạng xã hội mà khơng xây dựng thành các đóng
góp thiết thực cho các cơ quan có thẩm quyền. Một
bộ phận rất nhỏ tri thức phản biện mạnh mẽ các
vấn đề xã hội nhưng lại có thái độ tiêu cực, thiếu
tinh thần xây dựng, gây ảnh hưởng xấu đến xã hội.

126 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020


LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
Đội ngũ trí thức có thể đảm nhận và phát huy được
vai trị của mình hay khơng, phụ thuộc phần lớn
vào tự ý thức, tự giác ngộ. Khi bản thân người trí

thức tự ý thức được bổn phận, trách nhiệm của
mình đối với Tổ quốc, với nhân dân thì họ sẽ tích
cực, chủ động tìm ra các giải pháp phù hợp để đạt
được mục tiêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Trí thức ta nên tự động đi bước trước tìm kiếm
đến cơng nơng và tơi chắc rằng cơng nơng sẽ nhiệt
liệt hoan nghênh trí thức” [4; 215].
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng trí thức đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước hiện nay.
Giáo dục đào tạo là giải pháp căn bản, nền tảng,
có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng đội ngũ trí
thức Việt Nam.
- Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nhân tài
đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập hiện nay.
Để xây dựng và phát triển được đội ngũ trí thức
mang tầm trí tuệ của thời đại cần phải xây dựng
một hệ thống giáo dục tồn diện, có chất lượng
cao. Việc thực hiện cải cách giáo dục phải được
tiến hành triệt để cả về mục tiêu, nội dung, phương
pháp dạy - học, phương thức tổ chức và quản lý
giáo dục. Đặc biệt quan tâm, thực hiện tốt Bốn mục
tiêu của giáo dục mà UNESCO đã tổng kết (học để
biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng
định bản thân).
Để xây dựng, phát triển được nhân tài cho đất
nước cần phải thực hiện những chiến lược về tìm
kiếm, phát hiện và bồi dưỡng từ những học sinh ưu
tú ở các cấp học, học sinh đạt giải cao trong các kỳ
thi quốc gia và quốc tế, các kỳ thi đại học. Khi phát
hiện được những tài năng cần có sự ưu tiên, tập

trung đầu tư, tuyển lựa tham gia các chương trình
đào tạo cử nhân tài năng trong nước và gửi đi đào
tạo nâng cao ở các nước phát triển, đồng thời có
những chính sách đãi ngộ phù hợp, tương xứng
với tài năng của họ.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục đại học và
sau đại học.
Việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục đại học
và sau đại học với việc xây dựng các trường đại
học đạt chuẩn quốc tế là hai việc có quan hệ tương
hỗ nhau, tạo cơ hội cho sinh viên được học tập ở
các môi trường giáo dục tiên tiến. Muốn làm được
điều này cần phải có quyết tâm từ đội ngũ các nhà
lãnh đạo, quản lý, phải xây dựng lộ trình phù hợp
và có mức đầu tư thỏa đáng. Việt Nam cần tham
khảo cách làm, bước đi từ các nước đã từng thực
hiện thành công như Hàn Quốc, Singapore, Trung
Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)… để xây dựng cho
mình một lộ trình phù hợp và rút ngắn thời gian đưa
nền giáo dục Việt Nam hội nhập với nền giáo dục
tiên tiến trên thế giới.
Thứ 3, đổi mới chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ
và tơn vinh những cống hiến của đội ngũ trí thức.

Chính sách đãi ngộ vật chất hợp lý và sự tôn vinh
tinh thần tương xứng sẽ là động lực to lớn thúc
đẩy sự tích cực, sáng tạo và cống hiến của người
trí thức. Để làm được điều đó, nhà nước cần thực
hiện một cuộc tổng điều tra các thành phần trí
thức trong cả nước, đặc biệt là bộ phận trí thức

cơng chức về vị trí việc làm để có chính sách tiền
lương hợp lý. Đồng thời có những hỗ trợ vật chất
khác cho trí thức trong hoạt động của họ như: hỗ
trợ cần thiết về học phí, chi phí sinh hoạt cho q
trình học tập nâng cao trình độ, bồi dưỡng chun
mơn… Cần có những quy định nhất quán trong
việc hỗ trợ cho các cán bộ trẻ khi tham gia các
khóa đào tạo, học tập nâng cao trình độ, phải đảm
bảo cuộc sống, cơng tác cho cán bộ, vừa có thời
gian tập trung cho việc học tập. Trọng dụng trí thức
trẻ tài năng, có chế độ khuyến khích và ưu đãi các
trí thức tuổi cao nhưng chun mơn giỏi và cịn
tâm huyết.
Thực hiện ngày càng tốt hơn việc tôn vinh về tinh
thần đối với đội ngũ trí thức.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã tích cực
thực hiên tơn vinh về tinh thần đối với đội ngũ trí
thức. Số lượng giải thưởng, số lượng trí thức được
cơng nhận, phong tặng các danh hiệu… ngày càng
tăng. Nhưng vẫn còn những bất cập, chưa đảm
bảo tính cơng bằng, ghi nhận đúng mức đối với
cống hiến của từng cá nhân. Do đó, cần đổi mới
cơ chế khen thưởng, xét công nhận chức danh
chuyên môn khoa học đối với trí thức đảm bảo tính
khách quan, cơng bằng.
5. KẾT LUẬN
Nhìn chung đội ngũ tri thức Việt Nam đã có những
đóng góp quan trọng trong quản lý phát triển xã
hội như: góp phần xây dựng luận cứ cho các chủ
trương đường lối của Đảng; tích cực tư vấn, phản

biện và giám định xã hội; đấu tranh chống lại các
quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng; nâng cao dân trí và giáo dục, đào tạo; tơn
vinh và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc; tiếp thu những giá trị văn hóa trên thế giới,
làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam. Bên
cạnh những đóng góp tích cực, đội ngũ trí thức
Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế nhất định:
một bộ phận trí thức cịn yếu về năng lực, chưa
chun tâm thực hiện công việc chuyên môn; công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất
cập; việc tham gia tư vấn, phản biện, giám định các
chương trình, chính sách, văn bản của Đảng, Nhà
nước chưa hiệu quả. Để nâng cao năng lực quản
lý phát triển xã hội cho đội ngũ tri thức, đồng thời
phát huy vai trò của họ trong bối cảnh hiện nay, cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp: Nâng cao nhận
thức về vai trò của trí thức trong quản lý phát triển

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020 127


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
xã hội; đào tạo, bồi dưỡng trí thức đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước; đổi mới chính sách thu hút, sử
dụng, đãi ngộ và tơn vinh trí thức phục vụ q trình
phát triển đất nước hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội

nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, tr. 81-82.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 132-139.

[3] Phan Thanh Khơi (2017), Trí thức trong phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt
Nam hiện nay, Hội thảo Quản lý phát triển xã
hội ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Hà Nội, tr.124-128.
[4] Lê Thị Sự (2018), Trí thức và vai trị của trí thức
trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay, luận
án tiến sỹ Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam.
[5] Tổng cục Thống kê (2016), Động thái và thực
trạng KT-XH Việt Nam 5 năm 2011 - 2015,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

THÔNG TIN TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Nhan
- Tóm tắt q trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào
tạo, nghiên cứu):
+ Năm 2009: Tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
+ Năm 2014: Tốt nghiệp Thạc sỹ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
+ Năm 2019: Tốt nghiệp Tiến sĩ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Cơng việc hiện tại: Phó Trưởng phịng Cơng tác Sinh Viên, Trường Đại học Sao Đỏ.

- Lĩnh vực quan tâm: Giáo dục trẻ em của gia đình cơng nhân trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi vùng Đồng bằng sông Hồng.
- Email:
- Điện thoại: 0984 647 781.

128 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020



×