Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giáo dục gia đình ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.65 KB, 10 trang )

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và vai trị của
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giáo dục gia đình
ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay
Religion ancestor worship and its role in the education
of families in the Northern Plains today
Nguyễn Thị Hảo
Email:
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 22/10/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện:13/3/2019
Ngày chấp nhận đăng: 28/6/2019

Tóm tắt
Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử nhân loại và đã tồn tại ở
nhiều dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, loại hình tín ngưỡng này tồn tại phổ biến ở Đồng bằng Bắc Bộ
và giữ một vai trò quan trọng trong giáo dục gia đình của người dân. Vai trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên thể hiện ở chỗ, nó nhắc nhở con cháu phải ln nhớ đến cội nguồn, biết kính trọng, phụng dưỡng
ông bà, cha mẹ. Đồng thời, giúp con cháu noi theo gương sáng của tổ tiên, nỗ lực học tập và lao động
để trở thành người có ích. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được coi là một nét tinh hoa của truyền thống
văn hóa và đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người dân Việt Nam nói chung và người dân ở Đồng bằng
Bắc Bộ nói riêng.
Bài báo đi sâu nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ thông qua triết
lý nhân sinh ẩn dấu trong các hoạt động thờ cúng, từ đó làm rõ vai trị của nó trong giáo dục gia đình,
qua đó góp phần vào việc gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ.
Từ khóa: Nhân sinh quan; tín ngưỡng; tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc
Bộ; giáo dục gia đình.
Abstract
Ancestry worship is a popular belief of the Vietnamese in the Northern Delta. It has a positive side to


remind children to always remember the source, respect, support grandparents, parents. It is considered
as a quintessence of cultural traditions and has become the moral and living standards of the Vietnamese
people.
The worship of ancestors on the one hand contributes to preserving and promoting the good values
of traditional culture. On the other hand, it involves a number of negative factors, affecting certain
development and strengthening social relationships. This article explores the ancestor worship of the
Vietnamese in the Northern Delta through the humanistic philosophy concealed in the worship activities,
from there to clarify its role in family education, thereby contribute to preserving and promoting the
precious moral values in ancestor worship and beliefs of the inhabitants of the Northern Plains.
Keywords: Humanities; beliefs; ancestral worship of the Vietnamese in the Northern Delta; family
education.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập
quốc tế của đất nước, Đồng bằng Bắc Bộ cũng
chịu những tác động to lớn của cơ chế thị trường,
Người phản biện: 1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà
2. TS. Phạm Văn Dự

sự phân hóa giàu - nghèo giữa các dân tộc, môi
trường sinh thái bị hủy diệt,… đã tạo ra tâm lý bất
an cho người dân nơi đây. Đó cũng là nguyên nhân
tâm lý, xã hội và hiện thực dẫn đến các hoạt động
tơn giáo, tín ngưỡng có chiều hướng gia tăng.
Hoạt động thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dịng họ
diễn ra khá phổ biến ở các địa phương. Điều đó
đã góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị tốt

110 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019



LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
đẹp của văn hóa truyền thống, nhưng mặt khác do
bị tác động mạnh mẽ của lối sống hiện đại, nên tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân ở Đồng
bằng Bắc Bộ cũng có một vài biểu hiện tiêu cực
như: phô trương về tiền tài, danh vọng, địa vị, gây
chia rẽ, bè phái, bày ra những nghi thức cầu kỳ,
tốn kém làm mất đi tính thiêng liêng và giá trị văn
hóa của tín ngưỡng, nặng nề về mê tín,...
Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ
thông qua triết lý nhân sinh ẩn dấu trong các hoạt
động thờ cúng, từ đó làm rõ vai trị của nó trong
giáo dục gia đình, qua đó góp phần vào việc gìn
giữ và phát huy những giá trị đạo đức quý báu
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân
ở Đồng bằng Bắc Bộ là vấn đề vơ cùng cần thiết.
2. TÍN NGƯỠNG, NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT
CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN
2.1. Quan niệm về tín ngưỡng
Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh
vực tinh thần của đời sống xã hội. Tùy theo cách
tiếp cận, mục đích nghiên cứu khác nhau, mà
cách hiểu về tín ngưỡng cũng khác nhau:
Chủ nghĩa duy tâm khách quan (với đại biểu là
Platôn, Hêghen) cho rằng, tín ngưỡng, tơn giáo là
một sức mạnh kỳ bí thuộc "tinh thần" tồn tại vĩnh
hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí cho con người.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan (đại biểu là Beccoly,

Hium) lại cho rằng, tín ngưỡng là thuộc tính vốn
có trong ý thức của con người, là sản phẩm mang
tính nội sinh của ý thức, tồn tại không lệ thuộc vào
hiện thực khách quan.
Như vậy, chủ nghĩa duy tâm tư biện đã thần bí
hóa hiện tượng tín ngưỡng, khơng thấy được mối
quan hệ giữa con người với thế giới hiện thực,
không thấy được mặt xã hội của tín ngưỡng.
Bàn về tín ngưỡng, C. Mác viết: "Đời sống xã hội,
về thực chất là có tính thực tiễn. Tất cả những sự
thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều
được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của
con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy" [4].
Theo quan điểm của C. Mác, tín ngưỡng về bản
chất khơng phải là sản phẩm của thần thánh, siêu
nhiên, thần bí, mà là sản phẩm của xã hội, một
hiện tượng xã hội, không tách rời xã hội và mang
bản chất xã hội. Tín ngưỡng là hiện tượng thuộc
đời sống tinh thần của xã hội, chịu sự quy định của
đời sống vật chất.
Đặng Nghiêm Vạn xem "tín ngưỡng là một yếu
tố chính của tơn giáo, quy định sức mạnh của tơn
giáo đó với cộng đồng" [6].
Nguyễn Chính thì cho: Tín ngưỡng là tín ngưỡng

tâm linh, vì tín ngưỡng tâm linh là hạt nhân của tín
ngưỡng tơn giáo. Đó là niềm tin, sự trơng cậy
và yêu mến một thế giới siêu nghiệm mà con
người với hình nghiệm và tri thức đã có chưa lý
giải được [2].

Kế thừa các quan niệm đó, chúng tơi đưa ra quan
niệm về tín ngưỡng như sau: Tín ngưỡng là một
bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh
vực đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ
xã hội được hình thành trong quá trình lịch sử văn hóa, là sự biểu hiện niềm tin dưới dạng tâm lý
xã hội vào cái thiêng liêng, thông qua hệ thống lễ
nghi thờ cúng của con người và cộng đồng người
trong xã hội.
Quan niệm này đã đề cập đến tín ngưỡng với năm
đặc trưng cơ bản sau:
(1) Tín ngưỡng luôn gắn liền với đời sống tinh
thần xã hội.
(2) Tín ngưỡng là kết quả của sự hình thành và
phát triển các quan hệ xã hội, nó có tác động trở
lại các quan hệ xã hội đó.
(3) Tín ngưỡng là phương thức biểu hiện niềm tin
của con người vào cái thiêng liêng, biểu hiện sự
bất lực của họ trước sức mạnh thống trị của lực
lượng tự nhiên và xã hội.
(4) Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử - văn hóa.
(5) Tín ngưỡng là một bộ phận ý thức xã hội, nó
tồn tại trong mối quan hệ với tơn giáo, văn hóa,
ngơn ngữ, triết học, lịch sử, nghệ thuật, khoa học,
chính trị,...
2.2. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên
Tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người có
cùng huyết thống, đã mất như kỵ, cụ, ông, bà, cha,
mẹ,... là những người có công sinh thành và ni
dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất

và tinh thần của các thế hệ con cháu.
Tổ tiên trong xã hội nguyên thủy có nguồn gốc là
tổ tiên tô-tem trong tô-tem giáo của thị tộc. Từ tổ
tiên tô-tem chuyển sang tổ tiên người thực là quá
trình chuyển từ chế độ thị tộc mẫu hệ sang chế độ
thị tộc phụ hệ. Tổ tiên tô-tem giáo trong thời kỳ thị
tộc mẫu hệ là những vật trong thiên nhiên được
thần thánh hóa, được coi là tơ-tem (vật tổ) của thị
tộc, là các vật thiêng và các thần che chở của gia
đình thị tộc. Thời kỳ thị tộc phụ hệ, tổ tiên là những
người đứng đầu thị tộc đầy quyền uy. Khi họ mất,
thì những biểu tượng về họ là ý niệm về linh hồn
người chết; thần che chở của gia đình thị tộc. Đó
là những yếu tố chính tạo nên biểu tượng về tổ
tiên được thờ cúng.
Cùng với quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người, khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi. Tổ
tiên khơng cịn bó hẹp trong phạm vi huyết thống

Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 111


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(gia đình, họ tộc,...), mà đã mở rộng ra trong phạm
vi cộng đồng, xã hội.
Ở Việt Nam, vua Hùng được xem là ông Tổ của
người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ và cũng là ông Tổ
chung của 54 dân tộc anh em.
Là người có cơng khai quốc, được thờ ở Đền
Hùng - Phú Thọ, Phùng Hưng được nhân dân Việt

Nam suy tôn là "Bố Cái đại vương". Trần Quốc
Tuấn, có cơng đánh giặc giữ nước, được tơn làm
"cha" của muôn dân, được thờ ở Kiếp Bạc - Hải
Dương và nhiều nơi khác.
Tổ tiên cịn là người có công truyền nghề, tạo
dựng cuộc sống hiện tại cho con cháu, được tôn
thành các "tổ sư", "nghệ tổ",....
Thờ cúng là hoạt động có ý thức của con người, là
tổng thể phức hợp những yếu tố: ý thức về tổ tiên,
biểu tượng về tổ tiên và lễ nghi thờ cúng trong
không gian thờ cúng.
Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tâm linh,
tình cảm hướng về cội nguồn của con cháu. Thờ
tổ tiên là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn,
tưởng nhớ đến tổ tiên, đồng thời, cũng là sự thể
hiện niềm tin vào sự che chở, bảo hộ, trợ giúp của
tổ tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức về tổ tiên
là niềm tin về linh hồn bất tử, tổ tiên tuy đã chết,
song linh hồn vẫn sống, thường lui tới gia đình và
ngự trên bàn thờ.
Thờ và cúng là hai yếu tố tác động qua lại, thống
nhất với nhau trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Sự "thờ", "tơn thờ" chính là nội dung, cịn hoạt
động "cúng" là hình thức biểu đạt của nội dung thờ
cúng. Ý thức tơn thờ, thành kính, biết ơn, tưởng
nhớ, hy vọng sự trợ giúp, tránh sự trừng phạt của
tổ tiên là nội dung cốt lõi của tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên.
Thờ cúng tổ tiên là hoạt động có ý thức của con
người, là tổng thể phức hợp của ý thức về tổ tiên,

biểu tượng về tổ tiên và nghi lễ thờ phụng.
Như vậy, có thể xem nguyên nhân sâu xa của
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sức sản xuất hết
sức thấp kém của thời nguyên thủy. Tính hạn
chế của lực lượng sản xuất kéo theo sự hạn chế
trong quan hệ kép giữa con người với tự nhiên và
giữa con người với nhau trong xã hội. C. Mác cho
rằng, tính chất hạn chế thực tế đó đã phản ánh
vào trong những tơn giáo cổ đại và vào trong tín
ngưỡng của nhân dân, thể hiện sự bất lực trước
thế giới hiện thực.
Nguyên nhân trực tiếp mang tính xã hội của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sự phân hóa trong
xã hội thị tộc phụ quyền, dẫn tới việc đề cao vai
trị của người đứng đầu gia đình - thị tộc. Những
người này, bằng uy tín của mình đã củng cố và
thiêng liêng hóa sự thờ cúng tổ tiên đã có manh
nha trong thời kỳ thị tộc mẫu quyền. Trong xã

hội có giai cấp, sự áp bức bóc lột giai cấp, sự tù
túng, hạn hẹp khơng có lối thốt hiện thực cũng
là nguyên nhân xã hội quan trọng làm nảy sinh tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Qua phân tích cơ sở xã hội nảy sinh tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên trong lịch sử, chúng ta có thể hiểu bản
chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
dân Đồng bằng Bắc Bộ như sau: Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ là
một bộ phận của ý thức xã hội, là một loại hình tín
ngưỡng dân gian được hình thành từ thời nguyên

thủy với niềm tin thiêng liêng rằng tổ tiên đã chết
sẽ che chở, phù giúp cho con cháu, được thể hiện
thông qua lễ nghi thờ phụng. Nó là sự phản ánh
hoang đường quyền hành của người đứng đầu
thị tộc phụ hệ, gia đình phụ quyền được duy trì
và phát triển trong xã hội có giai cấp sau này, là
sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có
cơng sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như
kỵ, cụ, ông, bà, cha mẹ, tổ sư, tổ nghề, Thành
Hồng làng, Tổ nước,...
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng
bằng Bắc Bộ, xét về cấp độ phản ánh chỉ là cấp
độ kinh nghiệm mang tính trực tiếp, cảm tính, linh
cảm,... Trình độ phản ánh chỉ dừng ở mức độ ý
thức thông thường và tâm lý xã hội. Các đặc trưng
khác của tơn giáo tuy có, nhưng ở mức độ mờ
nhạt. Các bài cúng tổ tiên chưa phải là kinh sách
tôn giáo; chủ lễ cúng là người gia trưởng, không
phải là giáo sĩ chuyên nghiệp, nghi lễ thờ cúng
được thực hiện một cách tự giác, tùy thuộc vào
hồn cảnh của mỗi gia đình, dịng họ,... Thờ cúng
tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ thể hiện
quan niệm về bản thể, nhân sinh rằng, có sự tiếp
nối liên tục của các thế hệ, rằng sự sống là bất
diệt. Chết là sự bắt đầu của chu kỳ sinh mới.
3. NHÂN SINH QUAN VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN SINH
QUAN NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
3.1. Nhân sinh quan là gì?
Có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân sinh quan:
Theo cách hiểu thông thường: “Nhân” là người,

“Sinh” là sống, “Quan” là quan điểm, quan niệm,
cách nhìn nhận. Nhân sinh quan là quan niệm
về cuộc sống con người bao gồm: lẽ sống, mục
đích, ý nghĩa, giá trị cuộc sống. Con người ở
trong thế giới như thế nào, vai trị, vị trí của con
người ra sao?.
Giáo trình triết học Mác - Lênin của Bộ Giáo dục và
Đào tạo (2005) cũng nêu rõ: “Những vấn đề triết
học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử
triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người
là gì? bản tính, bản chất con người? mối quan hệ
giữa con người với thế giới? con người có thể làm
gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?,... Đây cũng

112 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019


LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan - một
nội dung cấu thành thế giới quan triết học” [1].

Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, một phần
Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc.

Cách diễn đạt tuy khác nhau, song tựu chung lại
các quan niệm đều khẳng định: Nhân sinh quan là
một phạm trù dùng để chỉ những quan niệm, quan
điểm mang tính định hướng của con người về mối
quan hệ của họ với gia đình, xã hội và môi trường
tự nhiên.


Xét cả về kinh tế, xã hội và tinh thần, làng người
Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc chặt chẽ, là
những đơn vị kinh tế - xã hội - quân sự - văn hóa
hồn chỉnh. Làng là tập hợp của những họ, lấy
gia đình hạt nhân làm nền tảng. Bao quanh khơng
gian tụ cư của xóm làng là lũy tre xanh, có nơi có
hào sâu bao bọc, có chức năng của một cơng trình
qn sự bảo vệ an ninh cho xóm làng. Về tổ chức
xã hội, ngoài những tổ chức và chức danh do Nhà
nước quy định, mỗi làng cịn có nhiều những tổ
chức, những hội tự nguyện khác, đáp ứng những
nhu cầu về tâm linh và thân phận khác nhau trong
cộng đồng. Có hội được thành lập trên nguyên tắc
theo lứa tuổi, có hội theo nghề nghiệp, có hội theo
tín ngưỡng, theo giới tính,... Đình, chùa, nhà thờ,
am, miếu, từ đường,... là những trung tâm thờ tự
công cộng nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, tơn
giáo và tâm linh, của từng nhóm đối tượng, nhiều
khi vượt ra khỏi phạm vi không gian xóm làng.

Có nhiều cách phân chia các loại hình của nhân
sinh quan. Có thể phân chia từ góc độ nhân sinh
quan cá nhân hay nhân sinh quan cộng đồng, có
thể phân chia dựa trên vai trị của nhân sinh quan
(tích cực và tiêu cực), hoặc có thể phân chia theo
trình độ nhận thức và tư duy của con người.
3.2. Đặc điểm nhân sinh quan người Việt
ở Đồng bằng Bắc Bộ
Thứ nhất, nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng

Bắc Bộ thường gắn bó chặt chẽ với vận mệnh dân
tộc, triết lý nhân sinh của họ đều đi đến giải đáp
những vấn nạn mà họ gặp phải trên con đường
dựng và giữ nước.
Thứ hai, nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng
Bắc Bộ luôn gắn liền với các điều kiện sinh tồn của
họ, được triển khai trong một hệ thống hoàn chỉnh
các mối quan hệ: xã hội, gia đình, dịng tộc,…
Thứ ba, nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng
Bắc Bộ thường được biểu hiện qua hai dịng văn
hóa: văn hóa dân gian (Folklore) và văn hóa bác
học hàn lâm (Academic). Cả hai dịng văn hóa này
đều đan xen, thẩm thấu, tác động lẫn nhau, tạo
nên bản sắc riêng, độc đáo cho nhân sinh quan
người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ.
Thứ tư, thái độ trọng nghĩa - tình là truyền thống
của văn hóa Việt Nam, nó được phản ánh khá
đậm nét trong nhân sinh quan người Việt ở Đồng
bằng Bắc Bộ.
Thứ năm, nằm giữa hai nền văn minh Trung - Ấn,
nên trong quá trình phát triển, nhân sinh quan
người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ đã tiếp thu và
cải biến nhiều yếu tố trong triết lý nhân sinh của
hai nền văn hóa đó, thơng qua hệ thống các học
thuyết triết học của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo.
4. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA
NGƯỜI DÂN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ - NHÌN TỪ
GĨC ĐỘ NHÂN SINH QUAN
Đồng bằng Bắc Bộ là một trong sáu vùng văn hóa
của cả nước. Đây là vùng văn hóa độc đáo và đặc

sắc trong sự phong phú đa dạng của nền văn hóa
Việt Nam.
Đồng bằng Bắc Bộ được kiến tạo nên bởi hệ
thống sông Hồng và sơng Thái Bình, bao gồm
phần bằng, trũng của các tỉnh, thành phố: Hà Nội,
Hải Phòng, Hải Dương, Hà Tây, Hưng Yên, Hà

Với tư cách là một đơn vị kinh tế - xã hội và văn
hóa hồn chỉnh, làng xã Đồng bằng Bắc Bộ có vai
trị hết sức quan trọng trong việc ni dưỡng và
gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, trong
đó có ý thức về cội nguồn, lịng biết ơn tổ tiên những người có cơng tạo dựng và bảo vệ cuộc
sống của con người, gia đình, làng, nước. Và đây
cũng chính là cơ sở xã hội nảy sinh nhân sinh
quan trong hoạt động tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người dân.
4.1. Nhân sinh quan trong quan niệm “Đạo
hiếu” của người dân Đồng bằng Bắc Bộ
Do ảnh hưởng sâu đậm bởi nền văn hóa của
Trung Quốc và Ấn Độ (mà chủ yếu là tiếp nhận
và vận dụng quan điểm của Nho giáo, Lão giáo
và Phật giáo), người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ
rất chú trọng tới việc xây dựng gia đình theo chế
độ tơng pháp - lấy gia đình, dịng họ là đơn vị cơ
sở của xã hội. Trong gia đình, dịng họ, theo Nho
giáo, điều cốt lõi là con người phải có hiếu. Hiếu
là biểu hiện của nhân. Hiếu còn gắn với trung, là
nguồn gốc của trung. Trước đây, trong các triều
đại phong kiến Việt Nam chữ hiếu luôn được đề
cao. Hiếu được xem như một chuẩn mực đạo đức

xã hội và cũng là thước đo lòng trung thành đối
với vua. Chữ hiếu đã được Nhà nước phong kiến
pháp chế hóa, chính sách hóa. Trong sách "Nhị
thập tứ hiếu" được in và truyền bá rộng rãi thời
Nguyễn có nêu ra nhiều tấm gương hiếu đễ như:
Nguyễn Huy Đức, Phan Hữu Tự,...
Với người dân Đồng bằng Bắc Bộ, hiếu kính với
cha mẹ cịn là giá trị tinh thần, là nội dung đạo đức
trong gia đình truyền thống. Hiếu kính với cha mẹ
khơng phải chỉ là sự thể hiện tình cảm, lịng biết
ơn, mà cịn là trách nhiệm, nghĩa vụ của đạo làm

Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 113


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
con. Hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ,... trước hết
phải cư xử đúng đắn với người đang sống.
Đạo hiếu nhắc nhở con cháu không những chỉ
hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, mà phải hiếu đễ với
anh, chị em trong gia tộc. Phải xem "anh em như
thể chân tay" do vậy "tay đứt ruột xót", "một con
ngựa đau cả tàu bỏ cỏ". Trong nhà, anh em phải
biết "kính trên nhường dưới", anh, chị phải biết
thương yêu, nhường nhịn các em, gương mẫu
trước lời nói và việc làm. Nếu không may bố, mẹ
mất sớm phải thay cha (nếu là anh cả) và thay mẹ
(nếu là chị cả) nuôi dạy các em nên người. Người
anh trưởng được quyền thừa kế hương hỏa và có
trách nhiệm chính duy trì việc cúng giỗ. Hàng năm,

đến ngày giỗ cha, mẹ, các em khi đã có tư thất,
đến nhà trưởng góp giỗ, "giầu một bó, khó một
nén". Ngày giỗ, vì thế, chẳng những có ý nghĩa
thiêng liêng về mặt tâm linh, thể hiện sâu sắc ý
thức, lịng biết ơn cơng sinh thành của cha mẹ, tổ
tiên, mà cịn có ý nghĩa sum họp, đoàn kết, thân
ái trong gia tộc.
Người dân Đồng bằng Bắc Bộ trong quan niệm,
khơng chỉ chú trọng việc đồn kết, thương yêu
nhau giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc,
mà còn chú ý tới các thành viên trong cộng đồng
làng, nước. Người trong làng, nước đều là con
Lạc, cháu Rồng do mẹ Âu Cơ sinh ra. Trước là
"trong họ" sau là "ngoài làng" phải thương yêu
giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Bà con làng xóm
như "gà cùng một mẹ" "tắt lửa tối đèn có nhau",
tình làng nghĩa xóm tương thân, tương ái. Khi
làng, xóm nhà nào có việc hiếu mọi người đều
đến "sẻ chia". Việc hiếu là việc giỗ chạp, tang ma.
Ngày giỗ, ngoài con cháu nội tộc, cịn có khách
khứa. Khách mời thường là người có chức sắc
trong làng, song chủ yếu là những người có quan
hệ tình cảm thân thiết. Lễ giỗ có khi chỉ là chai
rượu, thẻ hương. Khách thắp hương cúi lễ trước
bàn thờ, kính lễ vong hồn người q cố, sau đó ăn
uống vui vẻ. Khi ăn, mọi người thường "ôn cổ tri
tân", nhắc về kỷ niệm, ca ngợi tài, đức của người
quá cố, qua đó nói về cuộc sống hiện tại, hy vọng
vào tương lai. Đạo hiếu như vậy, khơng chỉ bó hẹp
trong phạm vi gia đình, họ tộc, mà cịn được mở

rộng ra xã hội. Đó cũng là biểu hiện tích cực trong
nhân sinh quan tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người dân Đồng bằng Bắc Bộ.
4.2. Nhân sinh quan trong ý thức tưởng nhớ,
biết ơn tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ
Đối với người dân Đồng bằng Bắc Bộ: "Con
người có tổ, có tơng. Như cây có cội, như sơng
có nguồn". Từ bao đời, họ ln ý thức: “Cây có
gốc mới nở cành xanh ngọn. Nước có nguồn mới
bể rộng sông sâu. Người ta nguồn gốc ở đâu. Có
tổ tiên trước rồi sau có mình”. Ý thức tưởng nhớ,
biết ơn tổ tiên được hình thành, phát triển và được

khẳng định thành đạo lý, lẽ sống,... Đạo lý biết ơn
và tiếp tục nối dõi truyền thống tổ tiên được thể
hiện thơng qua các nghi thức thờ cúng có tính chất
huyền bí thiêng liêng.
Thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống có nhiều hình
thức và cấp độ khác nhau. Trước hết là việc thờ
cúng tổ tiên trong mỗi gia đình (thờ cúng gia tiên).
Trong mỗi gia đình người dân Đồng bằng Bắc Bộ
đều thiết lập bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên là không
gian thiêng liêng để các thành viên gia đình thể hiện,
gửi gắm lịng tưởng nhớ, biết ơn tiên tổ. Bàn thờ
là nơi tổ tiên "đi", "về" và ngự trên đó. Bàn thờ tổ
tiên thường được lập cố định, ở chỗ trang trọng
nhất, gian chính giữa của nhà trên. Đây là sự khác
biệt với một số dân tộc khác. Ở Hàn Quốc, người
ta chỉ lập bàn thờ và dán bài vị khi có việc cúng
giỗ. Ở Nhật Bản, vị trí trang trọng nhất trong nhà

dành thờ Thần Đạo (Shin to), còn bàn thờ gia tiên
lại lập ở gian phụ.
Việc bài trí trên bàn thờ gia tiên của người dân
Đồng bằng Bắc Bộ cũng hồn tồn khơng giống
nhau, nó phụ thuộc vào quan niệm tâm linh và cả
điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung, một bàn
thờ gia tiên thường được chia làm hai lớp, giữa
hai lớp được ngăn bằng một bức y môn bằng vải
che rủ. Lớp trong đặt long khám của thần chủ (ngai
hoặc ỷ, tượng trưng cho ngôi vị của tổ tiên), bộ đồ
thờ để đặt hộp trầu, chén nước, đĩa hoa quả,...
Lớp ngoài là hương án, trên đặt bình hương,
đèn, ống hương, mâm bồng,... Ngày thường y
mơn được vén lên, chỉ khi nào có lễ, sau khi con
cháu thắp hương khấn mời thì y mơn mới được
bng rủ xuống. Theo cách giải thích dân gian,
làm như thế để tổ tiên được hưởng lễ một cách tự
nhiên, khơng cho ai nhìn ngó, quấy nhiễu. Ngồi
ra, bàn thờ của các gia đình giàu có hoặc đại gia
khoa bảng cịn treo các bức hồnh phi ở bên trên,
câu đối ở hai bên, được sơn son thếp vàng. Nếu
như hồnh phi, câu đối trong nhà thờ họ, tơng tộc
mang nặng tính tổng kết, phơ trương và tơn vinh
dịng họ để làm gương cho hậu thế thì hồnh phi,
câu đối ở bàn thờ gia tiên thường được viết với nội
dung bày tỏ lịng thành kính, biết ơn, hoặc lời hứa
của con cháu đối với tổ tiên.
Trong cỗ giỗ, người ta khơng chỉ ăn uống, mà
chính là trị chuyện. Chuyện trong nhà, xã hội,
chuyện làm ăn, chuyện giáo dục con cái,... Đây

là nếp sống văn hóa truyền thống tốt đẹp, nên gìn
giữ và phát huy.
Một nghi thức cần thiết là lúc hóa vàng phải đổ
theo vào đống lửa một chén rượu cúng. Chén
rượu này làm vàng mã bốc cháy, song ý nghĩa
của việc làm là cốt biến vàng mã trên trần thành
vàng thật, đồ dùng thật dưới âm, cho người âm.
Việc đốt vàng, mã, theo quan niệm của Đạo giáo,

114 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019


LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
người ta phải dùng một chiếc đòn gánh hoặc cây
mía hơ trên lửa qua lại để người chết gánh hàng
mã về cõi âm. Đồng thời, hương nến trên bàn thờ
lúc này cũng có thể tắt, vì hương hồn tổ tiên đã
trở về cõi âm để tiếp tục "sống" cuộc sống ở cõi
Hoàng Tuyền và lại phải một năm nữa, hoặc khi
cần, có lời khấn mời mới trở lại. Việc đốt vàng
mã mang tính mê tín, gây lãng phí. Nếu đốt hạn
chế, chỉ mang ý nghĩa biểu trưng thì lại là sự giải
thoát tâm lý, làm người sống được yên tâm, thoải
mái. Niềm tin vào ông bà, tổ tiên vẫn "sống và sinh
hoạt" như ở trên dương gian, khiến cho con cháu
hăng say lao động, làm ra nhiều của cải.
Người dân Đồng bằng Bắc Bộ luôn coi việc cúng
giỗ, thờ phụng tổ tiên là việc làm hàng ngày, hàng
tháng, quanh năm, tuần tiết nào, lễ vật ấy. Vì muốn
khói hương tiên tổ được đời đời tiếp nối, dịng dõi

"khơng đứt mạch", nên người ta coi trọng việc sinh
con trai để lập người thừa tự.
Trong việc lập tự này cũng có nhiều quy định. Ví
như trong gia đình đa thê thì người được giữ việc
hương khói phải là con trai trưởng của bà vợ cả.
Nếu bà vợ cả ngoài năm mươi tuổi mà khơng có
con trai thì mới lập tự con trai trưởng của bà vợ lẽ,
tức là "thứ trưởng tự".
Ý thức hướng về cội nguồn, về những người
có cơng sinh thành, tạo dựng cuộc sống đối với
người dân Đồng bằng Bắc Bộ cũng là ý thức
hướng về cội nguồn chung của dân tộc. Tình yêu
quê hương, đất nước cũng được hun đúc từ đây.
Gia đình - làng - nước trong tâm thức người dân
ở Đồng bằng Bắc Bộ bao đỗi thân thương, chúng
được gắn quyện với nhau trong cuộc đấu tranh
chống thiên tai, địch họa. Nước mất thì nhà tan.
Nhà muốn yên ấm thì nước phải thịnh, cường.
Hơn nữa, họ có tổ họ, làng có Thành hồng, nước
có Tổ nước. Vua Hùng là Tổ của muôn dân nước
Việt. Ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm,
người Việt từ khắp nơi, cả ở ngồi nước "về viếng
Tổ là tỏ lịng kính hiếu tổ tiên, nhân thêm tình
thương u con người, xứ sở" [5].
Bác Hồ đã từng căn dặn chúng ta: "Vua Hùng là
người có cơng dựng nước ta... Uống nước phải
nhớ nguồn, con cháu thì phải nhớ đến tổ tiên. Các
Vua Hùng đã có cơng dựng nước. Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước. Đó mới là uống nước
nhớ nguồn, mới là nhớ tổ tiên vậy" [3]. Lời của

Người cách đây đã gần thế kỷ, song vẫn mãi mãi
là bài học về cách ứng xử trong đạo làm người, là
sự thể hiện tập trung nhất ý thức về cội nguồn của
các thế hệ trước đây, hôm nay và mai sau.
4.3. Nhân sinh quan trong bản sắc văn hóa của
người dân Đồng bằng Bắc Bộ
Nhà - Họ - Làng - Nước là cơ cấu xã hội truyền

thống của người Việt trong lịch sử. Trong xã hội,
diện mạo của mỗi cá nhân rất mờ nhạt, dường
như người ta chỉ biết đến "anh ta" là con nhà ai,
người họ nào, làng nào. Nhà nước quản lý dân
đinh của mình thơng qua bộ máy quản lý làng xã,
việc phân bổ nghĩa vụ binh lính, phu phen tạp dịch
được căn cứ theo kê khai của bộ phận chức dịch
của làng. Trong tình hình như vậy, làng thực sự
đóng vai trị là cầu nối giữa các thành viên với
cộng đồng quốc gia.
Xét trên lĩnh vực kinh tế và tổ chức sản xuất, nếu
như mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế - tổ chức
sản xuất hoàn chỉnh, liên kết với nhau chủ yếu
bằng sợi dây tình cảm, tâm linh, thì làng là một
đơn vị kinh tế - xã hội - văn hóa thống nhất chặt
chẽ, liên kết giữa các gia đình, dịng họ lại với
nhau trong một cộng đồng lãnh thổ chung. Phong
tục tập quán, tâm lý, lối sống và tín ngưỡng là
những yếu tố tạo nên bản sắc, thần thái văn hóa
riêng của mỗi làng. Các làng ở Đồng bằng Bắc Bộ
đều thờ nhiều vị thần, trong đó có vị thần được
xem là thần bản mệnh của cả làng - đó là Thành

Hồng làng. Thành Hoàng là đối tượng thờ cúng
của Nho giáo và Đạo giáo, song, trên phương diện
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng
bằng Bắc Bộ, thì Thành Hồng cịn được xem là
ơng Tổ của cả làng. Ơng Tổ của làng có thể là
nhiên thần, hoặc nhân thần. Dù là nhiên thần hay
nhân thần, thì trong ý thức tâm linh của dân làng,
Thành Hoàng làng là những người có cơng giúp
dân trị thủy, đánh giặc. Ngồi Thành Hồng làng,
các vị Tổ nghề, Tổ sư, các anh hùng dân tộc, các
danh nhân văn hóa cũng được dân làng thờ cúng.
Họ khơng chỉ là những người có cơng, được xem
như tiền hiền, hậu hiền, mà cịn là những người có
sức mạnh linh thiêng che chở, phù giúp cho dân
làng trong cuộc sống.
Ngồi ý thức tơn thờ ơng Tổ chung của làng,
người dân Đồng bằng Bắc Bộ còn thể hiện sự tơn
kính của mình đối với những người cao tuổi. Với
quan niệm "kính lão đắc thọ", "kính già, già để tuổi
cho", cứ mỗi độ xuân sang, các làng đều có tục
yến lão, mừng thọ. Xưa, thời phong kiến, các làng
cịn có ruộng lão. Hoa lợi ruộng lão dùng để sắm
sửa cỗ bàn. Các cụ từ 60 tuổi trở lên được mời ra
đình dự yến lão. Các vua triều Lý, Trần, Lê thường
ban yến, lụa, tiền cho bô lão. Hội nghị Diên Hồng
đời Trần là biểu hiện tập trung của ý thức "dưỡng
người già, xin lời hay". Kính già, yêu trẻ, ngày tết
Nguyên Đán mọi người chúc nhau già thì mạnh
khỏe, sống lâu trăm tuổi, con trẻ thì mừng thêm
một tuổi. Tết Đoan Ngọ nhiều nơi có tục làm bánh

gai, bánh rợ, bánh nếp biếu ông bà, cô, bác hai
bên nội, ngoại.
Ý thức về tổ làng còn được củng cố thêm qua các
tục, lệ của làng. Trong khơng gian thiêng liêng

Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 115


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
của lễ hội, các cá nhân, gia đình, làng xã được
gắn quyện vào nhau qua nghi thức thờ cúng thần
bản mệnh - cũng là ông Tổ của làng. Tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên "theo nghĩa rộng, khơng chỉ thờ
những người có cơng sinh dưỡng đã khuất, nghĩa
là những người có cùng huyết thống, mà thờ cả
những người có cơng với cộng đồng làng xã, đất
nước" [7].
Thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc
Bộ là nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Tùy gia cảnh, tùy thời mà các lễ giỗ gia tiên, giỗ tổ
họ, hội làng, tổ nước được tổ chức đơn giản hay
long trọng. Song dù đơn giản hay long trọng cũng
đều lấy cái tâm, cái "đạo" làm đầu và theo một hệ
thống nhất định. Có thể mơ hình hóa hệ thống thờ
cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ
như sau:
Bảng 1. Hệ thống thờ cúng tổ tiên của người dân
Đồng bằng Bắc Bộ
Cấp
độ


Gia
đình

Khơng
gian
thờ
cúng

Bàn thờ
gia tiên

Thời
gian
thờ
cúng

Làng


Nước

- Đền
Hùng ở
Phú Thọ
- Đền thờ
vọng vua
Hùng ở
các địa
phương


Bài
cúng

- Ngày
giỗ, chạp
- Ngày lễ,
- Văn
tết
- Gia tiên cúng
- Ngày
gia tiên
có việc
trọng

- Ngày
- Nhà thờ giỗ Tổ họ
họ
- Ngày
Họ tộc
- Nhà thờ
giỗ Tổ
tổ chi
chi,
ngành

- Đình
làng
- Am,
miếu

- Chùa

Đối
tượng
thờ
cúng

- Tổ họ
- Tổ chi,
ngành

- Văn tế
Tổ

Chủ lễ
cúng

- Con
trai
trưởng

- Tộc
trưởng
- Chi,
ngành
trưởng

- Ngày
hội làng
- Các

ngày lễ,
tết

- Thành
- Chủ
Hoàng
tịch xã
- Tổ nghề
- Bậc
- Tổ sư
- Văn tế
cao
- Anh
thần
niên có
hùng dân
uy tín
tộc, danh
và đức
nhân văn
cao
hóa

- Ngày
10/3 âm
lịch

- Chủ
tịch tỉnh,
- Văn tế

- Cán
quốc
bộ phụ
Tổ
trách
văn hóa

- Vua
Hùng

5. VAI TRỊ CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ
TIÊN TRONG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH Ở ĐỒNG
BẰNG BẮC BỘ HIỆN NAY
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt, thực hiện
những chức năng cơ bản nhất để có thể hỗ trợ
con người phát triển tồn diện. Một trong những
chức năng đó là chức năng giáo dục.
Ngay từ khi mới ra đời, mỗi con người đều chịu
ảnh hưởng từ giáo dục gia đình với những mức độ
khác nhau. Trong một thiết chế mà cha mẹ luôn ý
thức về nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng con cái,
chăm lo việc học tập và sự phát triển lành mạnh
của con cái cả về thể chất lẫn tinh thần để con cái
trở thành những công dân có ích cho xã hội, con
người sẽ được tạo những điều kiện tốt nhất để trở
nên hoàn thiện. Đối với các gia đình ở Đồng bằng
Bắc Bộ, vấn đề giáo dục con cái luôn là vấn đề
được họ quan tâm. Mỗi thành viên trong gia đình
ln sống vì nghĩa vụ và trách nhiệm với những
thành viên khác, đồng thời họ lấy gia đình làm

nịng cốt để tạo lập kỷ cương xã hội. Với ý nghĩa
đó, gia đình vừa là đơn vị sinh hoạt, đơn vị kinh tế,
cũng là đơn vị giáo dục và là tế bào xã hội ở vùng
Đồng bằng Bắc Bộ.
Giáo dục gia đình là loại hình giáo dục tương đối
toàn diện. Trước hết là sự toàn diện trong nội dung
giáo dục, bao gồm: giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục lao động, giáo dục ứng xử, giáo dục giới tính,
giáo dục quan hệ huyết thống, giáo dục đạo đức
nhân cách,... Bên cạnh đó, giáo dục gia đình cũng
khá đa dạng trong hình thức: giáo dục bằng làm
mẫu và nêu gương, giáo dục bằng răn đe, giáo
dục bằng truyền thống gia đình, giáo dục bằng
ca dao tục ngữ, giáo dục bằng sự cảm hóa u
thương,...
Một trong những hình thức giáo dục mà các gia
đình ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay rất quan tâm,
đó là giáo dục nhân cách và cách ứng xử cho các
thành viên thông qua hoạt động tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên.
5.1. Vai trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
giáo dục chữ “Nhân”
Việc thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng
Bắc Bộ có liên quan đến quan niệm con người khi
chết sẽ biến thành ma, phải có người thờ cúng,
mới trở thành ma lành, phù hộ cho con cháu; nếu
khơng thì sẽ biến thành dữ, đi lang thang đây đó,...
Vì thế, phải có con trai để thờ cúng mình sau này.
Về nguyên tắc, việc thờ cúng tổ tiên thuộc quyền
của ngành trưởng. Trong trường hợp bố mẹ chết,

con trai trưởng thay bố mẹ thờ cúng tổ tiên. Bát
hương thờ bố mẹ đặt tại nhà con trưởng. Các con
trai khác nếu sống gần con trưởng không được
lập bàn thờ riêng để thờ bố mẹ và không được tổ

116 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019


LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
chức cúng giỗ riêng; ngược lại, họ cùng những chị
em gái đã đi lấy chồng có trách nhiệm góp giỗ (vào
ngày giỗ của bố mẹ) và gửi lễ (vào các dịp Tết) để
người con trưởng thắp hương. Quy định này của
việc thờ cúng tổ tiên mang ý nghĩa giáo dục, cách
ứng xử rất cao trong việc nhắc nhở con cái điều
chỉnh quan hệ để có thể vẫn gắn kết thuận hòa
như khi cha mẹ còn sống. Việc tổ chức cúng giỗ
chung tại nhà người con trưởng là dịp để củng cố
tình anh em, giáo dục truyền thống gia đình, dòng
họ. Trường hợp người con nào hỗn hào, bị anh chị
em truất quyền thờ cúng bố mẹ bằng việc không
nhận lễ, cũng đồng nghĩa với việc bị xã hội phủ
nhận. Chữ “Nhân” vì thế được coi trọng đặc biệt
để làm căn cứ duy trì sự kết nối này.
Khơng chỉ điều chỉnh quan hệ ứng xử giữa các
anh chị em ruột để gắn kết gia đình trong ngày giỗ
cha mẹ, các thành viên khác cũng phải đề cao chữ
“Nhân” mới có thể duy trì được nhiều thế hệ gắn
bó với nhau, đặc biệt là ứng xử giữa chị em dâu,
giữa anh em rể, giữa anh em con chú con bác,…

Cư xử nhân ái, hòa thuận, hiếu đễ để mỗi khi gặp
nhau trong ngày giỗ cha mẹ, các thành viên trong
nội tộc mới có thể khơng hổ thẹn với cha mẹ.
Tính tơn ty trong quan hệ gia đình được củng cố và
nhấn sâu thêm cũng chính bởi quy định về quyền
thờ cúng này của người con trai trưởng. Người
con trai trưởng tuy được thừa hưởng những
quyền lợi từ phần hương hỏa của cha mẹ để lại
như một nền tảng kinh tế để duy trì lâu dài và ổn
định việc thờ cúng, nhưng nhìn chung là vẫn phải
gánh vác phần đóng góp vật chất nặng nề hơn.
Các em trai và em gái có đóng góp nhưng khơng
mang tính bình qn. Đây là một yếu tố rất dễ nảy
sinh mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình.
Tuy nhiên, trong tâm thức mỗi người, việc cúng
giỗ cha mẹ thuộc về những phạm trù thiêng, do
đó, mỗi người đều nhân ái với nhau hơn khi nghĩ
về việc đóng góp. Thờ cúng tổ tiên là nghi thức
tâm linh điều chỉnh và giáo dục chữ Nhân trong
mỗi người. Đây cũng chính là cơ sở hình thành
nên những mơ thức khác của cơ sở kinh tế duy
trì việc thờ cúng tổ tiên và đề cao tính tơn ty theo
chiều dọc của quan hệ huyết thống như ruộng họ,
nhà thờ họ,…
5.2. Vai trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
giáo dục chữ “Hiếu”
Dân gian vẫn lưu truyền: “đói ngày giỗ cha, no ba
ngày Tết” với hàm ý về việc tất cả mọi thành viên
trong gia đình đều chú ý đặc biệt đến việc tổ chức
cúng giỗ sao cho chu tất nhất. Điều này thể hiện

sự hiếu thảo của con cháu khi nghĩ đến ông bà tổ
tiên. Thông thường, trong ngày giỗ cha mẹ, các
anh chị em đều cố gắng tổ chức cho đàng hoàng,
trọng thể, vừa để thể hiện tấm lịng biết ơn cơng
lao của bố mẹ, vừa là dịp anh chị em gặp gỡ nhau

để hàn huyên, tâm sự, ơn lại kỷ niệm với bố mẹ;
có khi là giải quyết, tháo gỡ những vướng mắc,
khó khăn trong các gia đình. Ngày Tết, các em trai
và chị em gái đi lấy chồng tùy tâm, tùy điều kiện
gửi về nhà trưởng một lễ (thường là chai rượu, gói
mứt, gói chè, vài quả cau,…) để người con trưởng
thắp hương lên bố mẹ.
Việc thờ cúng cha mẹ với ý nghĩa giáo dục chữ
Hiếu được thể hiện ngay từ sau khi cha mẹ qua
đời, trong việc tang và cúng tế sau này. Từ quy
định về tang phục với chất vải thơ, xấu xí, kiểu
cách sơ sài, đơn giản, đến việc quy định con trai
chống gậy, con gái lăn đường lót huyệt đều để thể
hiện nỗi tiếc thương đau đớn của con cái khi cha
mẹ qua đời. Sau khi chu toàn tang ma, con cái
cúng cơm hàng ngày cho cha mẹ vẫn nằm trong
mạch ý nghĩa về sự hiếu thảo để con cái được tiếp
tục chăm sóc cha mẹ hàng ngày. Những ứng xử
ấy đều có ảnh hưởng trực tiếp đến những thế hệ
tiếp theo trong gia đình, để con cái của chính họ
sẽ được ý thức đầy đủ hơn về sự hiếu thuận trong
ứng xử hàng ngày với người còn sống.
Những trường hợp anh em ở gần nhau, nhưng vì
bất hịa nghiêm trọng mà phải từ nhau, lập bàn thờ

bố mẹ riêng, tuy việc cúng tế vẫn được chu đáo,
nhưng trong quan niệm xã hội, đó vẫn là một biểu
hiện của sự bất hiếu khi ly tán để bố mẹ đau lịng.
Sự khơng chấp nhận đó của xã hội lại thêm một
lần nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục chữ “Hiếu” trong
việc thờ cúng tổ tiên.
5.3. Vai trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
giáo dục chữ “Lễ”
Giáo dục gia đình truyền thống đặc biệt coi trọng
thái độ ứng xử đúng trong các mối quan hệ huyết
thống của mỗi con người, coi đó là một trong
những chuẩn mực đạo đức quan trọng nhất. Một
quan niệm được thừa nhận rộng rãi và được kiểm
định bằng kinh nghiệm dân gian là: Một người nếu
không ứng xử đúng và tốt trong các mối quan hệ
huyết thống, thì cũng sẽ khó có thể ứng xử đúng
với các mối quan hệ xã hội khác. Do vậy, việc hiểu
biết và ứng xử đúng với những mối quan hệ huyết
thống được xem là thước đo sự lễ nghĩa của mỗi
người. Điều này được đánh giá và giáo dục qua
việc thờ cúng tổ tiên.
Việc thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng
Bắc Bộ diễn ra vào nhiều dịp trong năm, không
chỉ vào ngày mất của cha mẹ, ơng bà, mà cịn vào
các ngày sóc, vọng vốn là ngày cúng Thổ cơng;
các ngày Tết Nguyên đán và các lễ tiết khác trong
năm; những khi trong nhà có việc vui, việc buồn,
hoặc để cầu mong tổ tiên phù hộ cho một việc làm
đang dự định thực hiện, một ước nguyện đang ấp
ủ. Mỗi dịp thờ cúng lại có những quy định riêng mà

việc tuân thủ những quy định này tạo nên một hệ
thống nghi thức trong ứng xử. Khi thực hiện được

Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 117


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
đúng những quy định của nghi thức, con người
được xem là ứng xử có lễ nghĩa, có lễ nghĩa với
thần linh và lễ nghĩa với nhau giữa những người
cịn sống.
Để ứng xử đúng, có lễ, trước hết phải hiểu biết về
tôn ty, thứ bậc các mối quan hệ huyết thống. Ngay
từ khi còn bé, trẻ em trong các gia đình Đồng bằng
Bắc Bộ đã được dạy cách nhận biết những người
thân quen trong gia đình, thơng qua các từ chỉ vai
vế, quan hệ: bố mẹ, ông bà, anh, chị, em,… Sau
đó, bắt đầu được nhận biết những người thuộc
phạm vi ngồi gia đình mình, thuộc họ nội, tức họ
bên bố (gồm chú, bác ruột, cô ruột, anh chị em
con chú, con bác và các bậc trên hơn, xa hơn,…);
họ ngoại, tức họ bên mẹ (ông bà ngoại, cậu mợ
ruột, dì ruột, anh chị em con cơ con cậu, con dì
con già và các bậc trên hơn, xa hơn,…). Gắn với
sự nhận biết từng người thuộc từng vai vế là cung
cách xưng hơ, lời ăn tiếng nói, dáng điệu và nhiều
khi là cả các nghĩa vụ,… đối với mỗi bậc. Sau này,
khi trưởng thành, lấy vợ lấy chồng, từng người
còn phải nhận biết được đầy đủ các mối quan hệ
của gia đình nhà vợ (hay nhà chồng ), bên nội và

bên ngoại để có một thái độ ứng xử đúng. Với mỗi
vai vế và quan hệ, việc ứng xử lại được điều chỉnh
cho phù hợp.
5.4. Vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
giáo dục chữ “Tâm”
Nhân, Hiếu, Lễ đều là những phẩm chất căn bản,
quan trọng mà mỗi người phải được giáo dục để
hoàn thiện nhân cách, nó bị chi phối mạnh mẽ bởi
suy nghĩ, tình cảm của từng người trong từng điều
kiện cụ thể. Suy nghĩ và tình cảm ấy là sự thành
tâm. Khi có “Tâm”, con người ứng xử nhân hịa
với nhau, khi có tâm con người hiếu đễ với cha
mẹ, anh em, khi có tâm, con người ứng xử có lễ
nghĩa, khi có tâm, con người dễ cảm hóa người
khác, dễ hịa nhập với cộng đồng.
Về cơ bản, chữ “Tâm” được xem là biểu hiện căn
bản của đạo đức khi nó đề cao sự chân thành,
nhân hậu, thành ý. Không phải trong mọi trường
hợp, sự thiện tâm, thành ý đều mang lại kết quả
ngay lập tức, nhưng rõ ràng là điều đó giúp mỗi
người được đón nhận tốt hơn. Sự thành tâm, thiện
ý ln thể hiện bằng sự trân trọng, chu đáo, không
nề hà khó khăn, khơng so đo tính tốn hơn thiệt.
Những điều tốt đẹp ấy được tìm thấy rất rõ trong
thái độ mỗi người khi thờ cúng tổ tiên.
Sự thành tâm thể hiện ở việc, con cái luôn chuẩn
bị kế hoạch cho ngày cúng giỗ trước đó nhiều
ngày. Sự chuẩn bị chu đáo thể hiện từ việc lên
kế hoạch, phân công người thực hiện, mua sắm
chuẩn bị lễ vật, mời khách khứa,... Việc cúng giỗ

nhất thiết phải được xác định là tự nguyện. Chỉ có

khi tâm sáng, khơng toan tính, cha mẹ mới linh
chứng cho hành vi nghi lễ của con cháu. Với mọi
gian dối, thiếu thiện ý trong thờ cúng tổ tiên, quan
niệm xã hội đều cho rằng đó là biểu hiện xấu của
nhân cách.
Điều này được người dân Đồng bằng Bắc Bộ rất
quan tâm, cho dù khó khăn, các gia đình vẫn tự
nguyện tiết kiệm chi tiêu để dành dụm, tập trung
cho việc tổ chức cúng giỗ. Sự tiết kiệm này khơng
hề gây nên sự khó chịu vì ai nấy đều xác định
đó là việc làm cần thiết, là thể hiện mong muốn
thực sự được tổ chức nghi lễ thờ cúng cho cha
mẹ được chu tất nhất. Các vật phẩm đươc mua
sắm với tâm ý sẽ dâng lên tổ tiên, cha mẹ những
gì tốt đẹp nhất.
Với ý nghĩa đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người dân Đồng bằng Bắc Bộ khơng chỉ giúp cho
mỗi cá nhân hình thành ý thức tiết kiệm, biết dự
tính, lo toan cho cuộc sống bản thân và gia đình;
nó cịn giúp cho họ có ý thức chia sẻ với anh chị
em khi cùng lo cúng giỗ, chia sẻ với họ mạc khi
thờ cúng tổ tiên, tích luỹ việc thiện (vì tổ tiên đều
chứng được mọi hành vi của họ nên khơng được
làm điều gì xấu, vì mình mà làm hại người khác).
6. KẾT LUẬN
Đồng bằng Bắc Bộ là nơi hình thành, tồn tại và
phát triển của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa
nước. Thông qua những hoạt động thực tiễn và

quá trình tiếp - biến những giá trị văn hóa của các
nền văn minh bên ngồi, người dân Đồng bằng
Bắc Bộ đã có những quan niệm về bản thể, vũ
trụ. Khơng gian trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
được nhận thức thông qua các khái niệm trời, đất,
người, mây, gió, núi, sơng, thần, ma, quỷ, đình,
đền, miếu, bàn thờ, mồ mả,... Thời gian được
tính theo nông lịch với những thời vụ, năm, tháng,
tuần, tiết, ngày, giờ, được đánh dấu bằng các nghi
lễ thờ cúng, hội hè, giỗ chạp của con người và
cộng đồng. Trên cơ sở nhận thức về thế giới, vũ
trụ, người dân Đồng bằng Bắc Bộ nhận thức về
mình và đề ra triết lý.
Quan niệm nhân sinh của người dân đồng bằng
Bắc Bộ vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính
đặc thù, được thể hiện sinh động qua hoạt động
thờ cúng tổ tiên ở bốn cấp độ gia đình, họ tộc, làng
và nước. Nó chịu ảnh hưởng sâu sắc tín ngưỡng
tơ-tem, thờ thần, thờ Mẫu và đặc biệt là tam giáo,
mang tính duy tâm khách quan, song cũng chứa
đựng những yếu tố duy vật mang tính ngây thơ,
chất phác và giàu tính nhân văn.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có vai trị rất lớn trong
giáo dục gia đình ở Đồng bằng Bắc Bộ. Hiện nay,
trong bối cảnh giáo dục gia đình ngày càng có sự
thay đổi mạnh mẽ, thì việc nhận thức đúng đắn ý

118 Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019



LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
nghĩa giáo dục nhân cách cá nhân của việc thờ
cúng tổ tiên sẽ giúp cho tín ngưỡng này phát huy
được đầy đủ giá trị tốt đẹp của nó.

[3]

Trần Viết Hoàn - Lê Kim Dung (tuyển chọn và
giới thiệu) (1995), Một trăm linh năm lời nói của
Bác Hồ, Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin, Hà
Nội, tr. 81.

[4]

C.Mác (1995), Luận cương về Phoi-ơ-bắc,
C. Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.12.

[5]

Lê Khả Phiêu (1998), "Người Việt về viếng Tổ là tỏ
lịng kính hiếu với tổ tiên, nhân thêm tình thương
yêu xứ sở", Báo Thanh niên, (32), Hà Nội, tr. 7.

[6]

Đặng Nghiêm Vạn (1998), "Bản chất và
biểu hiện tơn giáo", Tạp chí Triết học, (101),
Hà Nội, tr.17-20.


[7]

Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1996), Về tơn giáo
tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 53.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình triết
học Mác - Lênin (dùng trong các trường đại
học, cao đẳng), Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia,
Hà Nội, tr. 201.

[2]

Nguyễn Chính (1998), "Đảng viên với tín
ngưỡng tơn giáo", Tạp chí Cộng sản, (6),
Hà Nội, tr. 38 - 42.

THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Hảo
- Tóm tắt q trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo,
nghiên cứu):
+ Năm 2006: Tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Giáo dục Chính trị, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội
+ Năm 2012: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Triết học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội
+ Năm 2017: Tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

- Công việc hiện tại: Giảng viên, khoa Giáo dục Chính trị và Thể chất, Trường Đại học
Sao Đỏ
- Lĩnh vực quan tâm: Phụ nữ, gia đình, bình đẳng giới
- Email:
- Điện thoại: 0915162159

Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 119



×