Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Thị trường Chứng khoán và vai trò của hệ thống ngân hàng thương mạ trong thị trường Chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.01 KB, 48 trang )

Lời mở đầu
Công nghiệp hoá là bớc phát triển tất yếu mà mỗi dân tộc, mỗi đất nớc phải
trải qua. Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế, chính sách và biện
pháp huy động đợc nhiều vốn nhất và sử dụng vốn hiệu quả. Một trong những biện
pháp, đã đợc nhiều nớc phát triển sử dụng có hiệu quả, nhằm huy động mọi nguồn
vốn nhàn rỗi trong nớc vào đầu t, thu hút vốn đầu t từ nớc ngoài, đó là thị trờng
chứng khoán. Thị trờng chứng khoán là một định chế tài chính đặc trng của cơ chế
thị trờng. Chỉ có nền kinh tế theo cơ chế thị trờng thì mới có thị trờng chứng khoán
đúng nghĩa. Cũng nh hầu hết các nớc có nền kinh tế đợc vận hành theo cơ chế thị
trờng, xu hớng hình thành thị trờng chứng khoán ở Việt Nam cũng là một tất yếu
khách quan. đ
Ngày 20 tháng 7 năm 2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK)
thành phố Hồ Chí Minh và cũng là TTGDCK đầu tiên của Việt Nam đã chính thức
đợc thành lập. Nh vậy, từ nay, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm một kênh huy động
vốn mới. Đây là một sự kiện đáng ghi nhớ và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống
kinh tế - xã hội của nớc ta.
Theo kinh nghiệm của các nớc, những điều kiện cần thiết để thiết lập và tổ
chức vận hành có hiệu quả một thị trờng chứng khoán đợc đặt ra rất khắt khe, liên
quan tới nhiều lĩnh vực nh môi trờng pháp lý, chế độ tài chính kế toán, kiểm toán,
trình độ cán bộ quản lý, sự hiểu biết của công chúng và đặc biệt là vai trò của hệ
thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của thị trờng chứng khoán. Không một nớc nào trên thế giới có
một thị trờng chứng khoán phát triển mà lại không có một hệ thống ngân hàng vững
mạnh.
Chính vì lý do đó và do một số hạn chế nhất định nên tôi đã đi đến lựa chọn
đề tài: Thị trờng chứng khoán và vai trò của hệ thống ngân hàng thơng mại
trong thị trờng chứng khoán làm nội dung cho đề án lần này của mình.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo Phạm Hồng Vân, ngời đã giúp em hình thành
nên những ý tởng và t duy cần thiết cho việc hoàn thành đề án này.
Xin hoan nghênh sự đóng góp ý kiến của Quý bạn đọc.
A. Thị trờng chứng khoán và vai trò của thị trờng


chứng khoán trong nền kinh tế quốc dân
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vốn là một vấn đề đợc đặt
lên hàng đầu. Tiềm năng kinh tế của ta có, lực lợng lao động của ta dồi dào, vậy
làm sao có vốn để đầu t khai thác, thực hiện các dự án nhằm công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc? Một trong những hớng quan trọng để giải quyết vấn đề về vốn là
huy động các nguồn vốn. Trên thực tế, có hai loại nguồn vốn cơ bản có thể khai
thác, đó là nguồn vốn trong nớc và nguồn vốn nớc ngoài, trong đó, huy động nguồn
vốn trong nớc đợc coi là phơng hớng chủ yếu, có vai trò quyết định. Vốn nớc ngoài
có thể trong thời gian đầu chiếm tỷ trọng lớn trong vốn đầu t nhng cũng chỉ đóng
vai trò quan trọng. Nói đến vấn đề huy động vốn trong nớc là nói đến vai trò của hệ
thống tài chính. Vai trò đó đợc thể hiện trong việc vốn đợc chuyển từ nơi thừa vốn
nhng không có cơ hội đầu t đến nơi thiếu vốn và có nhu cầu đầu t. Quá trình này có
thể đợc thực hiện một cách trực tiếp từ ngời có vốn đến ngời có nhu cầu vay bằng
việc ngời đi vay bán cho ngời có vốn những chứng khoán (hay còn gọi là những
công cụ tài chính, đó là những trái quyền, quyền đợc hởng, đối với thu nhập hoặc
tài sản tơng lai của ngời vay). Những chứng khoán này có thể đợc mua đi bán lại.
Thị trờng mà ở đó diễn ra việc mua bán các chứng khoán này (bao gồm cổ phiếu và
trái phiếu) gọi là thị trờng chứng khoán (TTCK). Nh vậy, TTCK là một định chế tài
chính thông qua các công cụ cổ phiếu, trái phiếu, với nhiều loại khác nhau, cho
phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, tín dụng, và Chính phủ, chính quyền
địa phơng huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong dân, dựa vào đầu t phát triển. Từ lâu
các nhà doanh nghiệp lớn của thế giới đã khẳng định: không thể triển khai các dự
án tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nếu không tập hợp đợc những nguồn vốn lẻ tẻ
trong dân chúng thành một nguồn vốn khổng lồ mà ngời tập hợp có toàn quyền sử
dụng cho những mục tiêu trung và dài hạn. TTCK có vai trò đó, cái mà ngành ngân
hàng với phơng thức kinh doanh ăn chắc không thể làm đợc. TTCK là bà đỡ
cho các dự án kinh doanh tiến bộ nhất đi vào cuộc sống, là biện pháp chủ yếu của
việc giải phóng năng lực sản xuất, cái mà hàng thế kỷ nay đã đợc kiểm nghiệm và
đợc khẳng định trong hầu hết các công ty kinh doanh thành đạt nhất của thế giới.
Chính vì vậy, trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở nớc ta, việc

thành lập và phát triển TTCK là một mắt xích quan trọng trong tổng thể các vấn đề
đổi mới cơ chế kinh tế. Nhận thức đợc vấn đề này, ngày 20 tháng 7 năm 2000,
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) và cũng là TTGDCK đầu tiên của
Việt Nam đã đợc chính thức khai trơng. Nó đánh dấu sự ra đời của TTCK Việt
Nam, bớc phát triển mới và hoàn thiện thêm đối với mô hình kinh tế thị trờng
(KTTT) ở nớc ta. Bởi lẽ, từ nay, nền kinh tế Việt Nam đã có thêm một kênh, một
công cụ và cũng chính là một định chế tài chính quan trọng, cùng với hệ thống
ngân hàng và các tổ chức tài chính khác tham gia vào hoạt động tạo nguồn vốn đầu
t trung và dài hạn, phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc. TTCK
không phải là sản phẩm cao cấp, hay sản phẩm đặc biệt nào của Chủ nghĩa t bản,
mà nó chỉ là một bộ phận không thể thiếu của KTTT, đó là một hình thức phát triển
cao nhất trong hệ thống tài chính của nền KTTT. Ngày nay, vai trò của TTCK đã đ-
ợc khẳng định là cần thiết đối với bất kỳ chế độ xã hội nào có nền sản xuất hàng
hoá - kinh tế thị trờng.
1. TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn
vốn nhàn rỗi và đầu t
Muốn phát triển phải đầu t. Để đầu t, bất cứ một doanh nghiệp nào dù là khu
vực nhà nớc hay là khu vực t nhân cũng đều có hai giải pháp cơ bản:
Biện pháp đầu tiên là bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ để đầu t qua phân
phối lợi nhuận hàng năm. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ có thể thực hiện đợc ở
những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có lãi.
Biện pháp thứ hai là huy động vốn từ bên ngoài, chủ yếu bằng hai nguồn: vay
tín dụng trung và dài hạn của các tổ chức tài chính, tín dụng và phát hành cổ phiếu,
trái phiếu. Biện pháp này chỉ có thể thực hiện đợc khi dân chúng có nguồn tiết kiệm
dồi dào và ý thức cũng nh phong trào tiết kiệm trong dân chúng tốt.
Các ngân hàng thơng mại (NHTM) hay Kho bạc Nhà nớc đã thực hiện huy
động tiết kiệm trong dân chúng, nhng số tiết kiệm đợc tập trung qua các tổ chức
này chỉ là những nguồn vốn huy động ngắn hạn cha gắn với đầu t, cha tạo nên
nguồn vốn dài hạn cho đầu t phát triển. Hơn nữa, NHTM cũng chỉ là ngời trung
gian, cho nên ngân hàng không đủ hấp dẫn để thu hút hết các nguồn tiền tệ nhàn rỗi

trong dân c, do đó ngời có tiền d thừa phải chuyển sang dự trữ bằng vàng, ngoại tệ
để đảm bảo hệ số an toàn tài sản của mình. Ngoài ra, trong hoạt động của xã hội,
bên cạnh những khoản tiền tiết kiệm của dân c, luôn luôn tồn tại những loại quỹ có
vốn bằng tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, nh quỹ bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập
thể, và các loại quỹ tơng trợ khác... Một phần vốn của các loại quỹ này đợc gửi vào
ngân hàng để thực hiện việc thanh toán, số tiền còn lại quan trọng hơn nhiều, những
ngời quản trị quỹ luôn luôn tự hỏi là làm thế nào cho số vốn của họ vừa đợc sinh lợi
nhiều nhất, vừa an toàn, vừa có tính tạm thời... TTCK là chiếc đũa thần có khả
năng giải quyết đợc các vấn đề đó.
Thực tế cho thấy, TTCK ra đời đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các tổ
chức tài chính, tín dụng huy động đợc các nguồn vốn dài hạn từ các khoản tiết kiệm
và để dành trong dân chúng và các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức vào
quá trình đầu t. Mỗi ngời trong xã hội chỉ có một số tiền nhỏ, nhng tập hợp lại sẽ
thành một khối lợng lớn khổng lồ. Số tiền khổng lồ này đợc tập trung qua TTCK để
đa trực tiếp vào công cuộc đầu t có tính sản xuất. Qua đầu t, vốn đầu t sẽ sinh lời,
càng kích thích ý thức tiết kiệm trong dân chúng.
Nh vậy, nhờ TTCK, với công cụ cổ phiếu có mệnh giá rất nhỏ và cổ phiếu
quỹ đầu t, đại đa số dân chúng đều có thể tham gia đợc vào công cuộc đầu t của đất
nớc bằng số vốn ít ỏi của mình.
2. TTCK là một công cụ giúp Nhà nớc thực hiện chơng trình phát
triển kinh tế - xã hội
Nhà nớc nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế
tăng trởng hay suy thoái trớc hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can
thiệp của Nhà nớc. Bất cứ Nhà nớc nào cũng phải có ngân sách. Ngân sách Nhà nớc
càng lớn thì chơng trình phát triển kinh tế xã hội càng dễ thành công. Để có vốn
cho chi tiêu, Nhà nớc phải thực hiện chính sách thuế. Thuế là biện pháp quan trọng
nhất để tạo vốn cho ngân sách Nhà nớc. Nhng thông thờng, nguồn thu từ thuế
không đủ cho chi tiêu, do đó phải có một nguồn thu khác, đó là trái phiếu kho bạc,
trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phơng. Đây là một hình thức Nhà
nớc vay tiền của dân c. Điều này cũng làm giảm áp lực đối với lạm phát vì Chính

phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành thêm tiền giấy vào lu thông.
Ngày nay hầu hết các quốc gia, việc Nhà nớc phát hành trái phiếu thông qua
TTCK vay tiền của dân là biện pháp thờng xuyên và có kỹ thuật tiên tiến. Nếu là
trái phiếu Kho bạc, đó là nguồn thu thờng xuyên của ngân sách, vốn huy động qua
công cụ này đợc hoà vào nguồn thu thuế, từ đó phục vụ cho các chi tiêu thờng
xuyên của Nhà nớc. Nếu là trái phiếu có mục đích, nguồn thu đó đợc sử dụng vào
những mục đích đã định, nh xây dựng cầu đờng, sân bay, bến cảng, công trình văn
hoá và phúc lợi xã hội...
Không có TTCK thì Nhà nớc cũng phát hành đợc trái phiếu, nhng đó chỉ là
trái phiếu ngắn hạn hoặc trung hạn. Và nói chung việc phát hành sẽ có khó khăn vì
khả năng thanh khoản của trái phiếu (chuyển từ trái phiếu thành tiền mặt và ngợc
lại) là không đơn giản. Có TTCK tập trung, có việc phát hành, có việc mua đi bán
lại trái phiếu theo đúng tính chất thị trờng làm tăng tính thanh khoản của trái phiếu
thì khi đó, việc phát hành trái phiếu của Nhà nớc sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn
nhiều.
3. TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu t nớc ngoài
Vốn đầu t nớc ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nớc đang
phát triển. Chúng ta ai cũng có thể nhận ra rằng vốn đầu t trong nớc dù lớn đến đâu
cũng có giới hạn và không đủ cho nhu cầu tài trợ các dự án đầu t lớn. Do vậy, phải
có vốn đầu t từ nớc ngoài. Trong việc thu hút vốn đầu t nớc ngoài, có nhiều chính
sách và biện pháp có thể thực hiện ở nớc ta. Theo Luật đầu t hiện hành, có 3 hình
thức đầu t cơ bản: đầu t theo từng hợp đồng, đầu t liên doanh và đầu t 100% vốn n-
ớc ngoài. Mỗi loại hình đầu t đều có những mặt tích cực và tiêu cực riêng của nó.
Nhìn chung thờng xảy ra những tranh chấp về lợi ích giữa các bên tham gia đầu t.
Về phía ta, phải đảm bảo đợc hai lợi ích: quốc gia và đơn vị liên doanh, trong khi
phía nớc ngoài họ chỉ biết lợi ích của đơn vị liên doanh. TTCK là công cụ cho phép
vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn đầu t nớc ngoài một cách tốt nhất.
Trớc hết nói về khả năng thu hút vốn đầu t của TTCK. ở Việt Nam, Luật đầu
t nớc ngoài đợc đánh giá là cởi mở, nhng thực tế có những cản trở không nhỏ, đó
là thiếu thông tin, một vấn đề mà nhà đầu t nớc ngoài rất quan tâm. Không có thông

tin đầy đủ, chính xác thì dù có thừa vốn cũng không có ai dám đầu t. Ngợc lại, về
phía ta cũng có những trờng hợp do thiếu thông tin nên ta đã cấp giấy phép đầu t
cho những tổ chức không đáng cấp. Tuy nhiên, khi có TTCK, chúng ta sẽ phần nào
khắc phục đợc tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không trung thực cho cả hai
phía. Bởi lẽ, TTCK hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mọi đối tợng
tham gia mua bán chứng khoán phải công khai hoá và cập nhật toàn bộ thông tin
liên quan đến giá trị chứng khoán và công khai khả năng tài chính trong các giao
dịch mua bán chứng khoán.
Thứ hai, về khả năng kiểm soát vốn đầu t nớc ngoài của TTCK. Đầu t qua
TTCK là đầu t mua bán chứng khoán tại một TTCK có tổ chức. Trong mỗi loại
chứng khoán theo luật định, ngời nớc ngoài sẽ chỉ đợc mua theo một tỷ lệ nhất
định. Đó là sự khống chế việc tham gia quản lý và kiểm soát công ty có vốn đầu t
nớc ngoài. Với sự khống chế ở các mức tơng ứng cho từng ngành kinh tế, quyền
kiểm soát công ty có vốn đầu t nớc ngoài luôn luôn thuộc về ta. Đó là u điểm cơ
bản của phơng thức thu hút vốn đầu t từ nớc ngoài thông qua TTCK.
4. TTCK lu động hoá mọi nguồn vốn trong nớc
Các cổ phiếu, trái phiếu tợng trng cho một số vốn đầu t đợc mua đi bán lại
trên TTCK nh một thứ hàng hóa. Ngời nắm giữ các chứng khoán này không sợ vốn
của mình không thể lấy ra đợc khi không vừa ý. Vì khi cần, họ sẽ bán lại các chứng
khoán này trên TTCK để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác, nhờ vậy, sinh hoạt kinh
tế thêm sôi động.
Với một TTCK hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu t
phát triển sản xuất. Và đến giai đoạn phát triển, giá cổ phiếu tăng lên cao, ngời ta
đem bán số cổ phiếu đó lấy lời, để rồi lại đầu t vào một cuộc kinh doanh khác. Vốn
của họ luôn luôn đợc luân chuyển để tài trợ cho các dự án đầu t. Bên cạnh đó, đối
với những ngời có vốn tiết kiệm nhỏ cũng có thể mua đợc chứng khoán trên TTCK
mà không sợ bị kẹt tiền, và khi cần tiền họ đem số chứng khoán đó ra bán... Một
khi việc đầu t vào các doanh nghiệp có lợi đối với mọi tầng lớp dân chúng, thì qua
TTCK, các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ lĩnh vực bất động hoá,
chấp nhận vào quá trình đầu t. Và từ đó, mọi nguồn vốn đều đợc lu động hoá.

5. TTCK là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá
Trong công cuộc đổi mới của nớc ta, Nhà nớc đa ra chủ trơng cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc (DNNN). Đây là quá trình chuyển đổi từ DNNN sang công
ty cổ phần và nó đòi hỏi phải có TTCK. Bởi lẽ TTCK và công ty cổ phần có mối
quan hệ nh hình với bóng. Dân chúng bỏ tiền ra mua cổ phiếu của các công ty này,
đó là hành động đầu t dài hạn, khác với hành động tiết kiệm hoặc mua kỳ phiếu
ngắn hạn. Nh vậy, một câu hỏi đặt ra: ngời đầu t có thể bán số cổ phiếu của mình đi
một cách dễ dàng khi cần tiền đợc không và ở đâu? Vấn đề này chỉ có thể thực hiện
đợc khi có TTCK.
TTCK diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán hàng ngày, hàng giờ. Với
những nguyên tắc hoạt động (trung gian, đấu giá và công khai) TTCK sẽ là cơ sở, là
tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá đi đúng trật tự của pháp luật và phù hợp
với tâm lý của ngời đầu t: mệnh giá cổ phiếu đợc xác định chính xác trên cơ sở tài
sản có của doanh nghiệp do Nhà nớc, mà đại diện là Ban cổ phần hoá, xác định,
còn các giá mua bán cổ phiếu đợc xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu của thị tr-
ờng. Đây là phơng pháp cổ phần hoá thông qua TTCK. Và chỉ có thông qua TTCK
thì Nhà nớc mới có thể thực hiện cổ phần hoá đối với bất cứ loại doanh nghiệp nào,
dù là doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hay thua lỗ. Vì TTCK là nơi tập trung đ-
ợc toàn bộ quan hệ cung cầu về vốn, là nơi tập trung các nhà đầu t.
Mặt khác, nếu không có TTCK thì vốn đầu t qua cổ phiếu sẽ bị bất động, nh
vậy sẽ rất khó khăn trong việc phát hành cổ phiếu. Cổ phần hoá DNNN và các loại
doanh nghiệp khác với những mục tiêu chủ yếu là thu hút mọi nguồn vốn lẻ tẻ trong
dân chúng vào đầu t. Do vậy, TTCK là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá.
6. TTCK kích thích các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng hơn
Nhờ TTCK, các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành các cổ phiếu,
trái phiếu của họ. Ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận các cổ phiếu, trái phiếu của
những công ty có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có
doanh lợi... và dân chúng cũng chỉ mua cổ phiếu của những công ty thành đạt. Với
sự tự do lựa chọn của ngời mua cổ phiếu, để bán đợc cổ phiếu, không có cách nào
khác hơn là những nhà quản lý các doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn đàng hoàng

và có hiệu quả hơn. Hơn nữa, luật lệ của TTCK bắt buộc các doanh nghiệp tham gia
TTCK phải công bố công khai các báo cáo cân đối tài chính, kết quả kinh doanh
hàng quý, hàng năm trớc công chúng... Qua đó, công chúng có cơ hội nhận định
đánh giá đợc công ty.
Việc mua bán cổ phiếu của công ty một cách tự do, khiến ngời có cổ phiếu
trở thành chủ sở hữu của công ty, họ có thể kiểm soát công ty một cách dễ dàng
qua các cơ quan quản lý công ty và nhận biết đợc khả năng hoạt động của công ty
qua sự chấp nhận của TTCK. Từ đó thúc đẩy công ty phải làm ăn đàng hoàng hơn,
tốt hơn.
b. Hệ thống ngân hàng thơng mại trong thị trờng
chứng khoán
1. Vai trò của các ngân hàng thơng mại trong thị trờng chứng
khoán
Nh chúng ta đã biết, TTCK và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Rõ ràng TTCK chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở một hệ thống
ngân hàng phát triển lành mạnh và đợc kiểm soát tốt.
Mặc dù về mặt lý thuyết hoạt động ngân hàng và chứng khoán có sự khác
biệt, ví dụ ngân hàng hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ và thị trờng vốn ngắn hạn, còn
TTCK là thị trờng vốn trung và dài hạn. Nhng đây chỉ là sự phân biệt tơng đối. Hệ
thống ngân hàng cũng hoạt động trên thị trờng vốn trung và dài hạn. Đồng thời,
TTCK ở một khía cạnh nào đó cũng có liên quan đến thị trờng vốn ngắn hạn. Khi
thị trờng vốn ngắn hạn hoạt động ổn định và không ngừng phát triển sẽ là tiền đề
quan trọng cho sự phát triển của TTCK. Bởi vậy, bất kỳ một sự biến động nhỏ nào
về lãi suất, khối lợng tiền tệ, tỷ giá hối đoái trong hoạt động ngân hàng đều có thể
gây ra sự biến động lớn trong hoạt động chứng khoán và ảnh hởng lớn đến giá cả
chứng khoán và ngợc lại. Kinh nghiệm của Hồng Kông cho thấy khi các nhà chức
trách Hồng Kông nâng lãi suất lên 200-300% để duy trì tỷ giá đã ảnh hởng ngay
lập tức đến TTCK, làm cho giá chứng khoán bị giảm ghê gớm ngày 23-10-1997.
Mặt khác, về nghiệp vụ, ngành chứng khoán và ngân hàng đều có một số điểm
giống nhau và cùng với mục tiêu hoạt động là điều hoà vốn trong nền kinh tế và các

doanh nghiệp. Chính vì vậy sự kết hợp giữa ngành chứng khoán và ngân hàng trong
các chính sách kinh tế vĩ mô cũng nh việc tính các khoản thuế, phí và các vấn đề có
liên quan là cần thiết.
Từ mối quan hệ trên có thể ví rằng TTCK và hệ thống ngân hàng nh hai quả
tim để điều tiết nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong khi hoạt động của các NHTM
chủ yếu nhằm cung ứng các nguồn vốn ngắn hạn thì vai trò của TTCK là chuyên
cung cấp dòng vốn trung và dài hạn. Chính vì thế đây là hai bộ phận quan trọng cấu
thành nên một hệ thống tài chính hoàn chỉnh và chúng có mối quan hệ với nhau
theo nguyên tắc bình thông nhau. Tức là, mỗi động thái trên thị trờng tiền tệ đều
kéo theo một động thái mới trên TTCK và ngợc lại. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam
lại không nh vậy, thời gian đầu hoạt động của TTCK cho thấy rằng dờng nh vẫn
còn một bức tờng vô hình ngăn cách sự tơng quan trong hoạt động của hai dòng lu
chuyển vốn này. Điều này đợc thể hiện rất rõ ràng trong thực tế hoạt động của thị
trờng tài chính gần nửa năm qua. Đặc biệt trong mấy tháng cuối năm 2000, thị tr-
ờng tiền tệ có nhiều biến động mạnh nh những thay đổi nhanh chóng về lãi suất, tỷ
giá..., nhng những động thái này vẫn hoàn toàn vô tác dụng đối với TTCK. TTCK
vẫn cứ hoạt động theo xu hớng riêng của nó và nhiều nhà đầu t chứng khoán thậm
chí chẳng hề quan tâm đến những yếu tố này.
Chẳng hạn nh những biến chuyển về lãi suất đã đợc thể hiện rất rõ lãi suất
đồng Việt Nam tăng khá mạnh với mức tăng khoảng 0,02%/tháng so với tháng 10 -
2000. Đáng lẽ theo quy luật thị trờng, việc tăng lãi suất tất yếu sẽ kéo theo việc rút
lui của ngời đầu t khỏi TTCK để chuyển sang đầu t vào thị trờng tiền tệ kéo theo sự
giảm giá trên TTCK. Thế nhng trên thực tế thì TTCK lại vận động theo xu hớng
hoàn toàn ngợc lại. Giá cổ phiếu của các công ty niêm yết vẫn có chiều hớng đi lên,
chỉ số chứng khoán Việt Nam - Index đều tăng trong hầu hết các phiên giao dịch.
Theo kết quả của phiên giao dịch ngày 5-2-2001, giá cổ phiếu của Công ty cổ
phần Giấy Hải Phòng đã vợt quá 50000đồng/cổ phiếu, còn cổ phiếu của các công ty
khác, ngoại trừ cổ phiếu của Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu tỉnh Long
An, đều đã vợt mức 40000đồng/cổ phiếu. Ngoài ra, tỷ giá đôla Mỹ với đồng Việt
Nam cho dù tăng liên tục trong thời gian qua cũng không có tác động gì với hoạt

động trên TTCK. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu sự đồng bộ trong quan hệ giữa
TTCK và thị trờng tiền tệ nên mối quan hệ tơng hỗ giữa TTCK và thị trờng tiền tệ
cha phát huy đợc tác dụng nh mong muốn. Đây cũng là kết quả tất yếu của một
TTCK tuy đã ra đời nhng vẫn còn ở dạng sơ khai, cha phát huy đúng vai trò của nó
trong nền kinh tế. Thế nhng, ở nớc nào cũng vậy, trong giai đoạn đầu hình thành
TTCK và ngay cả khi TTCK đã đi vào hoạt động ổn định thì hệ thống NHTM vẫn
có một vai trò hết sức quan trọng, nếu không có một hệ thống ngân hàng vững
mạnh thì càng không thể nghĩ đến một TTCK có hiệu quả cao.
Chính vì vậy, trong việc hình thành và hoạt động của TTCK ở Việt Nam,
việc quan tâm đúng mức và phát huy đầy đủ vai trò của ngân hàng là rất cần thiết,
bởi lẽ:
Ngân hàng thơng mại vốn là một trung gian tài chính quan trọng nhất trên thị tr-
ờng tài chính, luôn giữ vai trò trung gian trong quá trình huy động và cung ứng
vốn cho toàn bộ nền kinh tế bằng việc chuyển vốn từ những nơi có cung lớn hơn
cầu về vốn (thừa vốn) đến nơi có cung nhỏ hơn cầu (thiếu vốn) giúp cho nền
kinh tế phát triển ổn định. NHTM đem lại lợi ích cho cả ngời cho vay tiền (bằng
những khoản lãi suất) và cả ngời đi vay (bằng việc đợc vay một khoản vốn mà
họ không thể có đợc bằng những con đờng khác). Nh vậy, mặc dù là một tổ
chức kinh doanh kiếm lời, nhng sự tồn tại và phát triển của các NHTM đã làm
cho thị trờng tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung đạt đợc một lợi ích
trọn vẹn.
Với khả năng chuyên môn và quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp, NHTM là
ngời hiểu rõ nhất thực trạng kinh tế, tài chính của các doanh nghiệp, có khả
năng phân tích kinh tế - tài chính, dự đoán các xu hớng phát triển kinh tế, các h-
ớng đầu t kinh doanh. Ngân hàng sẽ là ngời t vấn đầu t tài chính tốt nhất trên
TTCK. Ta biết rằng NHTM đã huy động đợc vốn thì phải cho vay kiếm lời. Đây
là hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nhng cũng có rất
nhiều rủi ro (ngân hàng có thể bị mất vốn hoặc thu hồi vốn không đầy đủ, do
khách hàng không có ý thức trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ...). Vì vậy,
ngân hàng phải tuân theo các nguyên tắc tín dụng nhằm đảm bảo an toàn về vốn

tín dụng. Mặt khác, NHTM phải hiểu tờng tận về đối tợng vay tiền của mình, về
điều này ngân hàng rất có kinh nghiệm. Sở dĩ nh vậy là vì nhờ hoạt động của
NHTM trên phạm vi toàn quốc, ngân hàng tham gia cho vay cả ngắn, trung và
dài hạn với tất cả các thành phần kinh tế. Từ đó, NHTM có đợc những bản lý
lịch, những thông tin khá đầy đủ và chính xác về các thành phần kinh tế, các
loại hình xí nghiệp khác nhau... Những thông tin này rất quan trọng, tạo điều
kiện thuận lợi cho ngân hàng tham gia TTCK ngay từ đầu. Chẳng hạn thông qua
hoạt động tín dụng, ngân hàng rất có kinh nghiệm trong việc xác định giá trị tài
sản thế chấp, đánh giá giá trị tài sản của doanh nghiệp, công nợ, lời, lỗ... Ngân
hàng có thể giúp các doanh nghiệp nhà nớc tiến hành cổ phần hoá, thành lập các
công ty cổ phần, góp phần tạo ra sự đa dạng và phong phú về hàng hóa cho
TTCK. Ngoài ra, ngân hàng giúp các doanh nghiệp cổ phần phát hành cổ phiếu,
trái phiếu trên thị trờng sơ cấp nhằm huy động vốn hoặc tăng vốn trong quá
trình sản xuất kinh doanh thông qua việc nhờ ngân hàng làm đại lý phát hành
chứng khoán, hởng phí hoa hồng hoặc bao tiêu toàn bộ chứng khoán của một
đợt phát hành và hởng phí bao tiêu. Hơn nữa, ngân hàng có thể dùng vốn tự có
để đầu t chứng khoán ở những công ty có triển vọng thu lợi nhuận cao. Vì ngân
hàng có đợc những thông tin chính xác về tình hình làm ăn của công ty, kết hợp
với sự phân tích và tài phán đoán về triển vọng của công ty trong tơng lai sẽ giúp
cho ngân hàng có đợc sự lựa chọn mua chứng khoán cho chính mình.
Theo quy định của pháp luật, các công ty cổ phần khi tham gia vào TTCK
phải công khai hoá các báo cáo tài chính, tình hình hoạt động của công ty. Nhng
các nhà đầu t đôi khi không có thời gian theo dõi một cách kỹ lỡng, hoặc không
theo dõi, hoặc không có khả năng phân tích một cách có hệ thống và cha có tài
phán đoán, hoặc đọc song không hiểu rõ tờng tận (nhất là thời gian đầu thành
lập TTCK). Nhng các NHTM do nghề nghiệp của mình nên ngân hàng rất thành
thạo về công việc này, mặt khác các công ty cổ phần này có thể là khách hàng
của ngân hàng trong quan hệ tín dụng nên ngân hàng có những thông tin khá
đầy đủ và chính xác về hoạt động của công ty. Từ đó các nhà đầu t có thể nhờ
ngân hàng t vấn trong mua bán chứng khoán hoặc nhờ ngân hàng mua bán

chứng khoán hộ cho mình và trả phí cho ngân hàng.
Nh vậy, hoạt động tín dụng của ngân hàng đã tạo thuận lợi cho ngân hàng
tham gia vào các hoạt động trên TTCK.
Mạng lới của NHTM sẽ giúp cho việc giao dịch chứng khoán đợc dễ dàng, rộng
khắp, thuận tiện, tiết kiệm, tiếp cận đợc với đông đảo khách hàng. ở Việt Nam,
tháng 7-2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Tp. Hồ Chí
Minh đã ra đời, và trong năm 2001, TTGDCK thứ hai tại Hà Nội cũng sẽ đợc ra
đời nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam.
Tuy nhiên, làm sao chỉ có hai TTGDCK mà phục vụ cho việc huy động vốn
và cổ phần hoá của 61 tỉnh, thành phố và các bộ, ngành? Làm sao mà mở rộng
mạng lới mua bán chứng khoán trong cả nớc, để phục vụ rộng rãi cho các nhà
đầu t, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn và tạo điều kiện cho
công chúng đầu t mua bán chứng khoán? Để giải quyết các vấn đề này, thiết
nghĩ TTGDCK chỉ là nơi tập trung, lu giữ số liệu, công bố thông tin thị trờng và
là nơi giao dịch của các công ty kinh doanh chứng khoán, nh vậy, nó đóng vai
trò nh là trung tâm bán buôn hoặc là nơi mua bán của các công ty kinh doanh
chứng khoán. Phần lớn các hoạt động giao dịch chứng khoán đợc thực hiện ở
các công ty chứng khoán. Đối với công chúng đầu t và cả công ty phát hành
chứng khoán thì vấn đề địa điểm phát hành và mua bán chứng khoán là quan
trọng, họ chỉ giao dịch ở nơi nào thuận lợi cho việc mua bán của họ. Nh vậy,
chúng ta cần phải lu ý đến mạng lới các chi nhánh rộng lớn của các NHTM,
những nơi có thể nhận đại lý, uỷ quyền cho việc phát hành và thanh toán chứng
khoán, dịch vụ lu ký... nhằm vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty huy
động vốn qua mạng lới rộng lớn này, vừa phục vụ chủ trơng cổ phần hoá trong
cả nớc.
Khi có TTCK, các quan hệ mua bán chứng khoán diễn ra thờng xuyên, nhất là ở
TTCK thứ cấp. Các quan hệ mua bán bao giờ cũng kéo theo quan hệ thanh toán:
ngời mua trả tiền cho ngời bán, ngời bán giao chứng khoán cho ngời mua. Tại
TTCK sơ cấp phát sinh quan hệ thanh toán giữa công ty phát hành chứng khoán
hoặc Chính phủ (phát hành trái phiếu) với công ty nhận phát hành hộ chứng

khoán để hởng hoa hồng, hoặc hởng phí bao tiêu chứng khoán. Sau đó là quan
hệ thanh toán giữa công ty phát hành hộ chứng khoán với các nhà đầu t và kinh
doanh chứng khoán... Tại TTCK thứ cấp phát sinh các quan hệ thanh toán giữa
ngời mua, ngời bán, ngời môi giới trung gian, ngời bảo hộ chứng khoán, ngời t
vấn... Có thể có tới hàng trăm mối quan hệ thanh toán diễn ra với tốc độ rất
nhanh, hàng ngàn giao dịch mỗi ngày tại Sở giao dịch chứng khoán nhiều nớc,
ngày càng có nhiều chứng khoán tham gia niêm yết, doanh số mua bán ngày
càng tăng với các quan hệ thanh toán đa dạng và lớn nh vậy trên TTCK, nếu
công tác thanh toán không thông suốt, thì không thể nào đáp ứng yêu cầu mua
bán trên TTCK, sẽ ảnh hởng rất lớn đến hoạt động của TTCK. Do đó, với hệ
thống trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm dồi dào,
uy tín của ngân hàng..., khi tham gia vào TTCK, các NHTM có thể đảm bảo cho
công tác thanh toán qua ngân hàng nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiết kiệm,
lu giữ chứng khoán và đảm bảo các quyền lợi khác cho các nhà đầu t. Để thực
hiện điều này, ngân hàng có thể mở cho khách hàng của mình các tài khoản
chứng khoán để theo dõi việc mua bán, chuyển nhợng chứng khoán của khách
hàng. Rõ ràng, những tài khoản chứng khoán sẽ giúp ích rất nhiều cho những
hoạt động mua bán chứng khoán và thanh toán trên TTCK.
Nh vậy, dù ở bất cứ nền kinh tế nào thì vai trò của hệ thông ngân hàng đối
với sự hoạt động và phát triển của TTCK là rất to lớn. Nếu ta hình dung TTCK nh
một cỗ máy khổng lồ thì vị trí của ngân hàng nh những bánh răng truyền lực. Tất
nhiên nhà thiết kế có thể sử dụng những sợi dây cuaroa thay vì những bánh răng để
truyền lực. Song có một điều chắc chắn rằng hiệu suất của cỗ máy khổng lồ này sẽ
giảm đi rõ rệt và do đó, nó sẽ không thể phát huy đợc đầy đủ vai trò quan trọng của
mình trong quá trình vận hành.
2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thơng mại trên TTCK
Trên đây, ta đã nghiên cứu vai trò hết sức quan trọng của các NHTM đối với
TTCK, cả với thị trờng sơ cấp và thị trờng thứ cấp. Với những vai trò nh vậy,
NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ cơ bản sau đây trên TTCK:
2.1. Nghiệp vụ bảo lãnh, phát hành và phân phối chứng

khoán trên thị trờng sơ cấp
Cùng với hoạt động mua đi bán lại các chứng khoán đã phát hành trên thị tr-
ờng thứ cấp, hoạt động phát hành và cung ứng các chứng khoán mới để tăng vốn
của các doanh nghiệp cũng diễn ra liên tục trên thị trờng sơ cấp. Góp phần vào việc
tạo ra sự sôi động trên thị trờng sơ cấp phải kể đến ngân hàng đầu t (NHĐT), định
chế tài chính hoạt động với t cách là trung gian giữa các doanh nghiệp phát hành và
ngời mua chứng khoán sau cùng. Thông thờng tại các nớc có thị trờng vốn phát
triển, mỗi đợt phát hành các chứng khoán mới đều đợc tổ chức dới sự hỗ trợ đắc lực
của các NHĐT. Vai trò này thể hiện ở việc NHĐT cung ứng một loạt các dịch vụ: t
vấn, bao tiêu và phân phối các chứng khoán mới đợc phát hành đến công chúng.
Trớc hết ta cần hiểu rằng thuật ngữ NHĐT có ý nghĩa khá đặc biệt vì
NHĐT hoàn toàn không phải là NHTM hiểu theo nghĩa thông thờng. Đó là một
định chế tài chính chuyên nghiệp, chuyên kinh doanh chứng khoán trên thị trờng tài
chính. Nói cách khác, NHĐT chính là công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán
trên TTCK. Trong một đợt phát hành chứng khoán mới ra công chúng, với t cách là
nhà t vấn, NHĐT cung cấp những dịch vụ hỗ trợ cần thiết để giúp các doanh nghiệp
có thể đáp ứng yêu cầu của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nớc (UBCKNN) về đăng ký
phát hành và chuẩn bị những hồ sơ cần thiết để đáp ứng các qui định về công bố
các thông tin về nhà phát hành cho các nhà đầu t. Một trong những yêu cầu công bố
thông tin đó là phải lập bản cáo bạch để giúp các nhà đầu t đánh giá chính xác tình
hình tài chính của doanh nghiệp và từ đó đa ra các quyết định đầu t chứng khoán.
Về phía doanh nghiệp phát hành, lý do chính buộc các doanh nghiệp phải sử dụng
dịch vụ t vấn của NHĐT trong lĩnh vực này là vì, một mặt, bất cứ một sai sót nào
trong những thông tin từ bản cáo bạch cũng có thể dẫn tới tranh chấp, kiện tụng
giữa các nhà đầu t và doanh nghiệp; Mặt khác, NHĐT là ngân hàng có kinh
nghiệm, có kỹ năng nghề nghiệp trong việc giúp các doanh nghiệp phát hành chuẩn
bị các hồ sơ cần thiết để đáp ứng các yêu cầu về công bố thông tin theo đúng qui
định của pháp luật. Chức năng t vấn khác của NHĐT là t vấn về việc xác định giá
bán hợp lý và cơ cấu hợp lý cho các chứng khoán mới đợc phát hành của các doanh
nghiệp.

Quá trình bao tiêu các đợt phát hành chứng khoán mới là một dịch vụ quan
trọng khác đợc các NHĐT cung cấp. Đây là việc bảo đảm với đơn vị phát hành rằng
họ sẽ thu đợc một số vốn nhất định từ một đợt phát hành. Trong hoạt động bao tiêu
chứng khoán, NHĐT có thể hoạt động với t cách là một chính chủ, tức là một nhà
kinh doanh chứng khoán, hoặc hoạt động với t cách là nhà đại lý hay nhà môi giới.
Điểm khác biệt căn bản giữa một chính chủ giao dịch và một ngời môi giới là nếu
nh chính chủ không hởng hoa hồng mua bán vì họ mua bán cho chính mình và
gánh chịu mọi rủi ro nếu có, thì nhà môi giới thay mặt khách hàng thực hiện mua
bán để hởng hoa hồng.
Với t cách là chính chủ giao dịch, NHĐT thoả thuận với nhà phát hành mua
đứt toàn bộ chứng khoán từ nhà phát hành (bao tiêu toàn bộ) ở mức giá thấp hơn
mức giá chào bán cho công chúng (giá đặt mua) và rồi bán lại cho công chúng với
mức giá cao hơn (giá chào bán). Chênh lệch giữa giá đặt mua và giá chào bán chính
là phần lợi nhuận bù đắp cho những rủi ro có thể có trong việc mua bán lại các
chứng khoán đợc mua từ nhà phát hành. Loại thoả thuận này đợc gọi là cam kết bao
tiêu chắc chắn, nghĩa là nhà phát hành sẽ nhận đợc đầy đủ số tiền bán khối lợng
chứng khoán đã phát hành theo giá đã thoả thuận dù rằng NHĐT có bán hết số
chứng khoán đã mua hay không. Thông thờng NHĐT chỉ thực hiện hình thức bao
tiêu này cho những doanh nghiệp lớn, có uy tín cao trên thơng trờng. Khác với hình
thức cam kết bao tiêu chắc chắn, khi thực hiện bao tiêu hình thức cam kết với mức
tối đa, NHĐT chỉ cam kết bán càng nhiều các chứng khoán mới càng tốt chứ không
mua toàn bộ các chứng khoán đợc phát hành. Khi thực hiện hình thức bao tiêu này,
NHĐT giữ vai trò là nhà đại lý. Ngoài ra, trong vai trò của một chính phủ giao dịch,
NHĐT cũng có thể đóng vai trò là nhà bao tiêu dự phòng trong trờng hợp doanh
nghiệp phát hành các cổ phiếu có quyền đăng ký mua trớc. Đặc quyền này cho
phép các cổ đông hiện tại đợc quyền mua một phần các chứng khoán mới đợc phát
hành trong một thời gian cố định (thờng là 30 đến 60 ngày) trớc khi phát hành cổ
phiếu ra công chúng. Trong trờng hợp này, nhà phát hành có thể đề nghị NHĐT
thực hiện một cam kết theo đó NHĐT sẽ mua tất cả các cổ phần có đặc quyền đăng
ký trớc nhng không đợc mua. Loại cam kết này đợc gọi là cam kết bao tiêu dự

phòng.
Thông thờng, các NHĐT có thể thực hiện bao tiêu theo hai cơ chế bao tiêu
thơng lợng và bao tiêu đấu giá. Trong cơ chế bao tiêu thơng lợng, nhà phát hành và
nhà bao tiêu sẽ thơng lợng về các điều khoản cung ứng, giá bán ra và lệ phí cho nhà
bao tiêu. Trong cơ chế bao tiêu đấu giá (bao tiêu theo giá đặt mua có tính cạnh
tranh), nhà phát hành sẽ thông báo ý định phát hành chứng khoán, mời các nhà bao
tiêu đặt mua chứng khoán và nhà phát hành sẽ chọn nhà bao tiêu nào đặt mua với
giá cao nhất.
Một dịch vụ cũng đợc NHĐT cung cấp là dịch vụ phân phối chứng khoán
đến các nhà đầu t. Trong thực tế, cũng có trờng hợp, NHĐT có thể tìm đợc một nhà
đầu t lớn đồng ý mua toàn bộ các chứng khoán đợc phát hành và đứng ra dàn xếp
một giao dịch trực tiếp giữa nhà phát hành và nhà đầu t này. Trong hình thức mua
bán riêng này, NHĐT đợc hởng phí cho các dịch vụ dàn xếp giao dịch (môi giới),
xác định giá cả công bằng và thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, khác với hình thức
mua bán riêng, trong hình thức mua bán công khai, thông thờng các doanh nghiệp
phát hành tổ chức việc phát hành thông qua một hoặc hai ngân hàng bao tiêu chính.
Tuỳ thuộc vào qui mô của đợt phát hành, để chia sẻ rủi ro, ngân hàng quản lý bao
tiêu chính sẽ tổ chức một nhóm gồm các NHĐT khác tham gia vào việc phân phối
các chứng khoán. Nhóm các NHĐT này đợc gọi là nhóm bao tiêu hay tổ hợp bao
tiêu. Các thành viên của nhóm này cam kết với nhà bao tiêu chính trong việc cộng
tác để phân phối chứng khoán mới phát hành đến công chúng. Thoả thuận của các
thành viên trong nhóm bao tiêu chứng khoán ghi rõ trách nhiệm của các thành viên,
nhà bao tiêu chính là lợi nhuận sẽ đợc phân bổ. Ngoài ra, để gia tăng năng lực phân
phối chứng khoán, NHĐT có thể hình thành nhóm bán. Nhóm bán bao gồm các
thành viên của tổ hợp bao tiêu và các công ty chứng khoán không phải là thành viên
của tổ hợp bao tiêu. Nh vậy, với vai trò nhà bao tiêu chính, NHĐT chỉ đạo toàn bộ
tiến trình bao tiêu bao gồm việc thiết lập thoả thuận giữa các thành viên thuộc tổ
hợp bao tiêu, ấn định trách nhiệm pháp lý của các thành viên và ấn định tiền công;
nhận cam kết về số chứng khoán sẽ bao tiêu của các thành viên; xác định số lợng
chứng khoán mà mỗi thành viên khác có nhu cầu thêm hoặc cho thành viên nhóm

bán khác; thiết lập nhóm bán để hỗ trợ cho việc phân phối chứng khoán và ký hợp
đồng bao tiêu với nhà phát hành. Các thành viên của nhóm mua chủ yếu là các
công ty chứng khoán lớn có quan hệ giao dịch thờng xuyên với nhau và với một số
các công ty chứng khoán đóng vai trò là ngời môi giới chứng khoán sau cùng cho
các nhà đầu t. Khối lợng chứng khoán càng lớn đòi hỏi mạng lới phân phối càng
lớn để phân phối chứng khoán đến ngời mua cuối cùng.
2.2. Các nghiệp vụ của ngân hàng thơng mại trên thị trờng thứ
cấp
a. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
NHTM hoạt động nghiệp vụ môi giới chứng khoán với t cách là một đại lý
thay mặt khách hàng đã giúp ngời mua và ngời bán gặp nhau thông qua cơ chế giao
dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay TTCK không tập trung. Nh vậy, với nghiệp
vụ này, NHTM đóng vai trò trung gian giúp khách hàng mua bán chứng khoán để
hởng hoa hồng. Để thực hiện đợc nghiệp vụ này, NHTM phải mở cho khách hàng
một tài khoản chứng khoán và một hay một số tài khoản tiền mặt tại ngân hàng. Tài
khoản chứng khoán dùng để quản lý số chứng khoán và theo dõi sự biến động kinh
doanh chứng khoán của khách hàng. Tất cả các hoạt động mua bán chuyển nhợng
chứng khoán của khách hàng khi kết thúc đều đợc ngân hàng thực hiện việc thanh
toán vốn thông qua tài khoản tiền mặt. Khách hàng có thể mua hoặc bán bất cứ loại
chứng khoán nào trên cơ sở tài khoản chứng khoán và tài khoản tiền mặt. Khi có
lệnh mua hay bán chứng khoán của khách hàng, ngân hàng sẽ nhận lệnh và tiến
hành các thủ tục nhằm mua bán hộ chứng khoán cho khách hàng. Kết quả của hoạt
động giao dịch này có thể đem lại cho khách hàng những khoản lời lớn, nhng cũng
có thể làm cho họ bị thua lỗ. Nhng cho dù lời hay lỗ thì ngân hàng vẫn đợc phép
thu một khoản hoa hồng theo quy định của luật pháp (hiện nay ở Việt Nam theo
quy định của UBCKNN, đối với cổ phiếu, mức hoa hồng là 0,5% tổng giá trị giao
dịch, còn đối với trái phiếu là 0,15%) và về pháp lý, ngân hàng không chịu trách
nhiệm đối với kết quả cuối cùng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện lệnh theo yêu

×