Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ KĨ NĂNG CỦA ĐIỀU DƯỠNG VỀ THỰC HÀNH DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG (EBP)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.09 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ KĨ NĂNG CỦA ĐIỀU DƯỠNG VỀ THỰC HÀNH </b>


<b>DỰA TRÊN BẰNG CHỨNG (EBP) </b>



<b>Phạm Thị Oanh, Lương Thị Hoa*<sub>, Hoàng Trung Kiên </sub></b>
<i>Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên </i>
TĨM TẮT


Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mơ tả kiến thức, kĩ năng và thái độ của điều dưỡng về thực
hành dựa trên bằng chứng (EBP) và xác định mối liên quan giữa một số yếu tố (tuổi, giới, trình độ
học vấn, tham gia nghiên cứu khoa học, nguồn học liệu sẵn có) với kiến thức, thái độ và với kĩ
năng thực hành EBP của điều dưỡng. Thiết kế nghiên cứu mô tả tương quan đã được sử dụng để
khảo sát các điều dưỡng có trình độ từ cao đẳng trở lên và có thời gian cơng tác tại Bệnh viện Đa
khoa trung ương Thái Nguyên từ 6 tháng trở lên. Kết quả nghiên cứu cho thấy điều dưỡng có thái
độ tích cực về EBP (5,08 ±1,34) tuy nhiên kiến thức và kĩ năng về EBP của họ mới đạt ở mức độ
trung bình (4,00 ± 1,23) và (3,79 ± 1,39). Các yếu tố tuổi, giới và số năm công tác khơng có mối
liên quan với kiến thức, thái độ và kỹ năng EBP của điều dưỡng; trình độ chun mơn có mối
<i>tương quan tỷ lệ thuận với kiến thức EBP (r = 0,053; p < 0,1); với thái độ về EBP (r = 0,112 ; p < </i>
<i>0,05); và với kỹ năng EBP (r = 0,125; p < 0,01). Việc điều dưỡng đã từng tham gia nghiên cứu </i>
<i>khoa học có mối liên quan tỷ lệ thuận với kiến thức EBP (r = 0,388 ; p < 0,01); với thái độ về EBP </i>
<i>(r = 0,521; p < 0,01) và với kỹ năng EBP (r = 0,31 ; p < 0,01). </i>


Từ kết quả nghiên cứu này cho thấy cần có chiến lược phù hợp nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, kĩ
năng EBP cho điều dưỡng, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc cho người bệnh.
<i><b>Từ khóa: Điều dưỡng, thực hành dựa trên bằng chứng, kiến thức, thái độ, kỹ năng</b></i>


ĐẶT VẤN ĐỀ*


Y hoc chứng cứ (evidence based practice -
EBP) là một phong trào mới của y học do các
bác sĩ ở Canada khởi xướng từ thập niên 90
của thế kỉ trước. Theo David Saccket thì EBP


là vận dụng một cách thận trọng, chính xác và
rõ ràng tất cả các dự liệu nghiên cứu thu được
tốt nhất hiện có, kết hợp với kiến thức và kinh
nghiệm của thầy thuốc, cùng với tham khảo
yêu cầu và nguyện vọng của người bệnh, để
đưa ra biện pháp điều trị hữu hiệu cho từng
người bệnh cụ thể [8]. Các bước thực hành
dựa trên bằng chứng gồm: Đặt câu hỏi lâm
sàng thực tế, có thể trả lời được; tìm bằng
chứng y khoa liên quan đến câu hỏi lâm sàng;
đánh giá bằng chứng khoa học; ứng dụng
bằng chứng phù hợp trên người bệnh; và đánh
giá hiệu quả sau áp dụng. EBP đã và đang trở
thành mối quan tâm lớn của đội ngũ các nhân
viên y tế, các nhà quản lý hệ thống y tế cũng
như của các nhà khoa học [3], [6].


Thực hành dựa trên bằng chứng được xem là
yếu tố thiết yếu nhằm nâng cao chất lượng



*


<i>Tel: 0868 111984, Email: </i>


dịch vụ y tế nói chung cũng như tối ưu hóa
kết quả chăm sóc người bệnh nói riêng.
Melnyk và các cộng sự (2014) [7] đã chỉ ra
rằng thực hành dựa trên bằng chứng giúp cải
thiện các kết quả chăm sóc trên người bệnh


nhiều hơn 28% so với việc thực hành dựa trên
các quan điểm truyền thống. Thực hành dựa
trên bằng chứng có liên quan đến việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, cải thiện chất
lượng chăm sóc người bệnh, giảm giá thành
cũng như thời gian nằm viện, tăng sự hài lòng
của người bệnh, và giảm thiểu các can thiệp
không cần thiết [3], [6]. Chính vì vậy, Hội
đồng Điều dưỡng thế giới (ICN) cũng nhấn
mạnh rằng các dịch vụ y tế, đặc biệt là dịch
vụ do điều dưỡng cung cấp cần dựa trên bằng
chứng tốt nhất [3].


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

của người điều dưỡng nhằm đảm bảo an toàn
cho người nhận dịch vụ chăm sóc [3]. Tuy
nhiên nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra
rằng có rất ít bằng chứng được áp dụng trong
thực hành chăm sóc người bệnh bởi những
nguyên nhân chủ quan cũng như nguyên nhân
khách quan [2], [5]. Vì vậy người điều dưỡng
phải nhận thức được tầm quan trọng của EBP,
có kiến thức và kĩ năng đầy đủ về EBP cũng
như cần vượt qua những rào cản và thách thức
để có thể ứng dụng EBP trên lâm sàng nhằm
nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh.
Nghiên cứu điều dưỡng là một trong các
phương tiện khách quan, hệ thống và đáng tin
cậy để tạo ra bằng chứng hướng dẫn thực
hành chăm sóc lâm sàng và qua đó nâng cao
chất lượng của các dịch vụ điều dưỡng. Trên


thế giới, một số nghiên cứu về kiến thức, kĩ
năng và thái độ của điều dưỡng về EBP đã
được tiến hành với kết quả điểm trung bình
cao nhất thường ở phần thái độ, còn điểm
kiến thức và kĩ năng EBP hầu hết chỉ đạt mức
độ trung bình [1], [4], [6], [10]. Mặc dù các
nghiên cứu này được tiến hành ở nước ngoài
nơi mà những điều kiện cơ sở vật chất và
nguồn nhân lực điều dưỡng có nhiều khác biệt
so với nước ta nhưng hầu hết đều thể hiện
một kết quả chung đó là kiến thức và kĩ năng
EBP của điều dưỡng vẫn chưa đạt kết quả
như mong đợi.


Ở Việt Nam, trong quá trình tổng quan tài liệu
chúng tơi chưa thấy có nghiên cứu nào cơng
bố về kiến thức, kĩ năng và thái độ của điều
dưỡng về EBP. Để nâng cao chất lượng dịch
vụ chăm sóc điều dưỡng thì việc tiến hành
một nghiên cứu đánh giá về kiến thức, kĩ
năng và thái độ của điều dưỡng về EBP là
thực sự cần thiết. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm mục tiêu:


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU


- Mô tả kiến thức, kĩ năng và thái độ của điều
dưỡng về EBP.


<b>- Xác định mối liên quan giữa một số yếu tố </b>


nhân khẩu học (tuổi, giới, trình độ học vấn,
tham gia nghiên cứu khoa học, nguồn học liệu


sẵn có) với kiến thức thái độ và với kĩ năng
<b>của điều dưỡng về EBP. </b>


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Thiết kế nghiên mô tả cắt ngang đã được sử
dụng trong nghiên cứu này. Đối tượng nghiên
cứu là tất cả điều dưỡng có trình độ từ cao
đẳng trở lên và có thời gian cơng tác tại bệnh
viện Trung ương Thái Nguyên từ 6 tháng trở
lên. Số liệu được thu thập từ tháng 7 tới tháng
9, 2018 bằng bộ câu hỏi tự điền.


Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Phương
pháp chọn mẫu thuận tiện đã được áp dụng
trong nghiên cứu này. Tất cả điều dưỡng có
trình độ từ cao đẳng trở lên và có thời gian
cơng tác từ 6 tháng trở lên được chọn để tham
gia nghiên cứu. Thơng qua trưởng phịng điều
dưỡng bệnh viện và các điều dưỡng trưởng
khoa, bộ câu hỏi được gửi tới tổng số 253
điều dưỡng đủ tiêu chuẩn và số phiếu trả lời
thu về là 185. Bộ câu hỏi bao gồm 2 phần:
Phần I: Hỏi về thông tin cá nhân của đối
tượng nghiên cứu như tuổi, giới, trình độ
chuyên môn cao nhất, số năm công tác, đã
từng tham gia nghiên cứu khoa học hay chưa


và sự sẵn có của cơ sở dữ liệu trong bệnh viện
nơi điều dưỡng làm việc.


Phần II là bộ câu hỏi đánh giá kiến thức, thái
độ và kĩ năng của điều dưỡng về EBP của tác
giả Upton và các cộng sự. Phần này gồm 24
câu hỏi theo cấu trúc Likert- scale thang điểm
từ 1 đến 7. Kiến thức EBP của điều dưỡng
được đánh giá bằng 14 câu hỏi và được chia
các mức độ thấp (điểm trung bình từ 1,0 đến
dưới 3,0), trung bình (điểm trung bình từ 3,0
đến dưới 5,0), và cao (điểm trung bình từ 5,0
đến dưới 7,0); kĩ năng thực hành EBP được
đánh giá bằng 06 câu hỏi với 1 là “không bao
giờ thực hiện” và 7 là “luôn luôn”; 04 câu hỏi
còn lại dùng để đánh giá thái độ của điều
dưỡng về EBP. Thái độ của điều dưỡng với
EBP được coi là tích cực khi điểm trung bình
thái độ từ 4,0 trở lên [9].


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cậy của bản dịch sang tiếng Việt với kết quả là
0,83 cho toàn bộ 24 câu hỏi và 0,84; 0,88; và
0,80 tương ứng với các phần kiến thức; kỹ
năng; và thái độ.


Dữ liệu được xử lí bằng phần mềm thống kê
SPSS 18 với độ tin cậy alpha 0,05. Thống kê
mô tả được sử dụng để mô tả thông tin cá
nhân cũng như kiến thức, thái độ và kỹ năng
của điều dưỡng về EBP. Tương quan Pearson


và Spearman được dùng để xác định mối liên


quan giữa các yếu tố tuổi, giới, trình độ
chun mơn, tham gia nghiên cứu khoa học
và nguồn dữ liệu sẵn có với kiến thức, thái độ
kĩ năng thực hành EBP của điều dưỡng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


<i><b>Thông tin cá nhân </b></i>


Đặc điểm nhân khẩu học của các đối tượng
tham gia nghiên cứu được trình bày trong
Bảng 1.


<i><b>Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học của các đối tượng tham gia nghiên cứu (n= 185) </b></i>


<b>Đặc điểm </b> <b>SD </b> <b> n (%) </b>


<i>Giới tính </i>


Nam (41) 22,16


Nữ (144) 77,3


Tuổi 30,05 9,38


Năm công tác 8,34 5,03


<i>Trình độ học vấn </i>



Cao đẳng 78 (42,17)


Đại học 107 (57,83)


Thạc sĩ 0 (0)


<i>Tham gia nghiên cứu khoa học </i>


Đã từng 113 (61,09)


Chưa bao giờ 72 (38,91)


<i>Nguồn học liệu </i>


Có 0


Khơng 185 (100)


Nhận xét: Có 185 điều dưỡng tham gia vào nghiên cứu này. Kết quả cho thấy điều dưỡng có độ
tuổi trung bình là 30,05 (SD.= 9,38) với số năm cơng tác trung bình 8,34 (SD. = 5,03). Trong đó
42,17% điều dưỡng có trình độ cao đẳng; 57,83% điều dưỡng có trình độ đại học. Tỷ lệ nam là
22,16% và nữ là 77,84%. Mặc dù nguồn cơ sở dữ liệu trong bệnh viện chưa có sẵn nhưng có
khoảng gần hai phần ba điều dưỡng (61,09%) đã từng tham gia nghiên cứu khoa học.


<i><b>Kiến thức, thái độ, và kỹ năng thực hành EBP của điều dưỡng </b></i>


Kiến thức, thái độ và kỹ năng của điều dưỡng về EBP được trình bày ở Bảng 2.


<i><b>Bảng 2. Giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, và mức độ kiến thức, thái độ, kỹ năng về EBP của đối tượng </b></i>
<i>nghiên cứu</i>



<b>Nội dung </b> <b>SD </b> <b>Mức độ </b>


Kiến thức 4,00 1,23 Trung bình


Thái độ 5,08 1,34 Tích cực


Kĩ năng 3,79 1,39


Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy thái độ của điều dưỡng đối với EBP là tích cực (5,08 ±
1,34) tuy nhiên kiến thức và kĩ năng về EBP của họ mới đạt ở mức độ trung bình, cụ thể điểm
<i>trung bình kiến thức là 4,00 (SD. = 1,23) và điểm trung bình kỹ năng là 3,79 (SD. = 1,39). </i>


<i><b>Mối liên quan giữa một số yếu tố nhân khẩu học với kiến thức, thái độ và kĩ năng của điều </b></i>
<i><b>dưỡng về EBP </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Mối liên quan giữa một số yếu tố nhân khẩu học với kiến thức, thái độ và kĩ năng của điều dưỡng
về EBP được trình bày trong Bảng 3.


<i><b>Bảng 3. Mối liên quan giữa một số yếu tố với kiến thức, thái độ và kĩ năng của điều dưỡng về EBP</b></i>
<b>Đặc điểm </b>


<b>nhân khẩu học </b>


<i><b>Kiến thức, thái độ và kĩ năng của điều dưỡng về EBP </b></i>


<b>Kiến thức </b> <b>Thái độ </b> <b>Kỹ năng </b>


Tuổi - 0,015 (NS) - 0,025 (NS) - 0,004 (NS)



Giới 0, 212 (NS) 0,134 (NS) 0,054 (NS)


Trình độ học vấn 0,053* 0,112** 0,125***


Năm công tác - 0,013 (NS) - 0,13 (NS) - 0,017 (NS)


Tham gia NCKH 0,388 *** 0,521*** 0,31***


Nguồn học liệu


NS: not significant; * p < 0,1; ** p< 0,05; *** p< 0,01
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi,


giới và số năm công tác không có mối liên
quan với kiến thức, thái độ và kỹ năng EBP
của điều dưỡng (xem Bảng 3).


Bảng 3 cũng cho ta thấy, trình độ chun mơn
có mối tương quan tỷ lệ thuận với kiến thức
<i>về EBP (r = 0,053; p < 0,1); với thái độ về </i>
<i>EBP (r = 0,112 ; p < 0,05); và với kỹ năng </i>
<i>EBP (r = 0,125; p < 0,01). Ngoài ra, kiểm </i>
định Independent sample t test đã được sử
dụng để xác định xem liệu có sự khác biệt về
kiến thức, thái độ, và kỹ năng thực hành EBP
giữa các đối tượng có trình độ cao đẳng và đại
học hay không. Kết quả cho thấy, khơng có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thái độ và
kĩ năng thực hành EBP giữa các nhóm có trình
độ chun mơn khác nhau (cao đẳng, đại học),


tuy nhiên điều dưỡng có trình độ chun mơn
cao hơn có điểm trung bình kiến thức cao hơn
(4,25 ± 1,24 và 3,86 ± 1,14; p < 0,05).


Tương tự, việc điều dưỡng đã từng tham gia
nghiên cứu khoa học có mối liên quan tỷ lệ
<i>thuận với kiến thức về EBP (r = 0,388 ; p < </i>
<i>0,01); với thái độ về EBP (r = 0,521; p < </i>
0,01) và với kỹ năng thực hành EBP của điều
<i><b>dưỡng (r = 0,31 ; p < 0,01). </b></i>


BÀN LUẬN


Nghiên cứu này được thực hiên nhằm mô tả
kiến thức, thái độ và kĩ năng của điều dưỡng
về EBP và xác định mối liên quan với một số
yếu tố thuộc đặc điểm nhân khẩu học của các
đối tượng nghiên cứu.


Các đối tượng tham gia nghiên cứu báo cáo
rằng họ có thái độ tích cực với EBP tuy nhiên


kiến thức về EBP và kỹ năng thực hành EBP
ở mức độ trung bình. Kết quả này tương đồng
với kết quả của một số nghiên cứu trước đây
[1], [2], [5].


Có thể nói, áp dụng EBP trong thực hành
chăm sóc người bệnh là cách tiếp cận đa
chiều và đòi hỏi người điều dưỡng cần trang


bị cho mình những kiến thức và kỹ năng nhất
định. Tuy nhiên, là một bệnh viện tuyến trung
ương với số lượng người bệnh ln trong tình
trạng q tải, điều dưỡng thường khơng có đủ
thời gian để tiến hành các nghiên cứu. Thêm
nữa nguồn học liệu chưa được trang bị đầy đủ
cũng có thể là một trong những lí do khiến
cho điều dưỡng khó có thể tiếp cận với các
kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước. Cho
nên dù có thái độ tích cực với EBP nhưng
điều dưỡng mới chỉ có kiến thức và kỹ năng
thực hành EBP ở mức độ trung bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tương tự kết quả của nghiên cứu được tiến
hành trước đó [1], trong nghiên cứu này trình
độ chuyên mơn có mối liên quan với kiến
thức, thái độ và kĩ năng thực hành EBP của
điều dưỡng. Cụ thể điều dưỡng có trình độ đại
học có điểm trung bình kiến thức về EBP cao
hơn so với điều dưỡng có trình độ cao đẳng.
Điều này có thể do chương trình học đại học
đã trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ
bản về phương pháp nghiên cứu khoa học. Do
đó sinh viên điều dưỡng trình độ đại học được
làm quen với việc nghiên cứu thông qua các
bước như hình thành câu hỏi nghiên cứu, tìm
tổng quan tài liệu, đánh giá các kết quả
nghiên cứu có trước, viết đề cương nghiên
cứu cũng như xuất bản các bài báo khoa
học… Thông qua các hoạt động nghiên cứu


khoa học đó sinh viên thu thập được các kiến
về thực hành dựa trên bằng chứng và tầm
quan trọng của việc áp dụng các bằng chứng
khoa học trong thực hành chăm sóc người
bệnh. Như vậy, việc nâng cao trình độ cho đội
ngũ điều dưỡng viên sẽ giúp nâng cao kiến
thức của họ về thực hành dựa trên bằng
chứng. Song song với đó các khóa học
chuyên sâu về EBP nên được đưa vào chương
trình mơn học trong các trường đào tạo về
điều dưỡng nói riêng và nhân lực y tế nói
chung. Các bệnh viện cũng cần thường xuyên
tổ chức các chương trình đào tạo hoặc các
khóa tập huấn, hội thảo và hội nghị về EBP
nhằm tăng cường năng lực thực hành EBP cho
điều dưỡng. Theo đó, các nghiên cứu nhằm
đánh giá hiệu quả của chương trình can thiệp
nâng cao kiến thức, thái độ và kĩ năng EBP cho
điều dưỡng cũng cần được tiến hành.


Trong nghiên cứu này, mặc dù đều biểu thị
thái độ tích cực về EBP, nhưng giữa các điều
dưỡng có trình độ đại học và cao đẳng lại
không có sự khác biệt về mức độ thực hành
EBP. Ngược lại, Majid và các cộng sự (2011)
[5] chỉ ra rằng điều dưỡng có trình độ chun
mơn cao hơn thực hành kĩ năng EBP thường
xuyên hơn. Có thể lí giải rằng các điều dưỡng
trong nghiên cứu này có trình độ chun mơn
khác nhau nhưng vẫn làm việc trong cùng



một bệnh viện công lập với vai trò và chức
năng giống nhau. Họ đều phải cùng nhau làm
việc với áp lực bệnh nhân đông, nhân lực điều
dưỡng thiếu hụt, cơ sở vật chất và trang thiết
bị chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Ngoài ra họ phải
dành nhiều thời gian để ghi chép giấy tờ hồ sơ
bệnh án. Dường như họ khơng cịn đủ thời
gian để tìm kiếm các bằng chứng khoa học
mới nhất và áp dụng vào thực tế lâm sàng. Do
vậy, thực hành EBP chưa phải là ưu tiên hàng
đầu của các điều dưỡng. Nhiều nghiên cứu
trên thế giới đã chỉ ra rằng áp lực công việc
quá tải và thiếu thời gian là các yếu tố chính
ảnh hưởng đến kĩ năng thực hành EBP của
điều dưỡng [2], [4], [6]. Tuy nhiên, nghiên
cứu trong bối cảnh các bệnh viện ở Việt Nam
để làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức,
thái độ và kĩ năng EBP của điều dưỡng cần
được triển khai trong tương lai gần.


Các điều dưỡng đã từng tham gia nghiên cứu
khoa học có điểm trung bình kiến thức, thái
độ và kĩ năng EBP cao hơn những người chưa
bao giờ tham gia nghiên cứu. Điều này đã
được chứng minh trong nhiều nghiên cứu
trước đây [1], [2], [4]. Nghiên cứu khoa học
là một phần của EBP. Thông qua các bước
nghiên cứu khoa học điều dưỡng thu thập
thêm những kiến thức mới có độ tin cậy, và


nhận thức được tầm quan trọng của EBP
trong thực hành nghề nghiệp nên điều dưỡng
có xu hướng thực hành kĩ năng EBP thường
xuyên hơn. Vì vậy, cần có giải pháp phù hợp
để khuyến khích điều dưỡng tích cực nghiên
cứu khoa học qua đó nâng cao kiến thức, thái
độ và kĩ năng EBP của điều dưỡng.
KẾT LUẬN


Nghiên cứu cho thấy điều dưỡng có thái độ
tích cực về EBP tuy nhiên kiến thức và kĩ
năng thực hành EBP ở mức độ trung bình.
Các yếu tố tuổi, giới, và số năm cơng tác
khơng có mối liên quan có ý nghĩa thống kê
với kiến thức, thái độ và kĩ năng thực hành
EBP của điều dưỡng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nghiên cứu khoa học có điểm trung bình kiến
thức, thái độ và kĩ năng EBP cao hơn những
điều dưỡng chưa bao giờ tham gia nghiên cứu
khoa học.


KHUYẾN NGHỊ


Các kết quả trong nghiên cứu này đã bước
đầu cung cấp những thông tin cơ bản giúp cho
các nhà quản lí y tế cũng như người làm công
tác giảng dạy điều dưỡng đưa ra những chiến
lược phù hợp nhằm nâng cao kiến thức, thái
độ, kĩ năng EBP cho điều dưỡng qua đó


khuyến khích họ áp dụng các bằng chứng mới
nhất trong chăm sóc người bệnh, góp phần
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.


Bên cạnh đó cần tiến hành thêm các nghiên cứu
nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến kiến
thức, thái độ, kĩ năng EBP của điều dưỡng, từ
đó xây dựng và đánh giá hiệu quả của chương
trình can thiệp nhằm nâng cao kiến thức, thái
độ, kĩ năng EBP của điều dưỡng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. AbuRuz M. E. et al. (2017), “Knowledge,
attitudes, and practice about evidence- based
<i>practice: A Jordanian study”, Health Science </i>
<i>Journal, 11, pp. 1-8. </i>


2. Brown E. C., Wichline M. A., Ecoff L., &
Glaser D., (2009), “Nursing knowledge, practices,
attitudes and perceived barriers to evidence- based


<i>practice at an academic medical center”, Journal </i>
<i>of Advanced Nursing, 65(2), pp. 371-381. </i>


3. International Council of Nurses ICN, (2007),
<i>Position Statement on Nursing Reaserach. </i>
4. Koehn M. L. & Lehman K. (2008), “Nurses
<i>perceptions of evidence- based practice”, Journal </i>
<i>of Advanced Nursing, 62, pp. 209-215. </i>



5. Majid S., Foo S., Luyt B., Zhang X., Theng Y.
L., Chang Y. K., & Mokhtar I. A. (2011),
“Adopting evidence- based practice in clinical
decision making: Nurses’ perception, knowledge,
<i>and barriers”, Journal of the Medical Library </i>
<i>Association, 99 (3), pp. 229- 236. </i>


6. Mehrdad N., Joolaee S., Joulaee A., & Bahrani
N. (2012), “Nursing faculties knowledge and
<i>attitude on evidence- based practice”, Irannian </i>
<i>Journal of Nursing and Midwifery Research, </i>
17(7), pp. 506- 511.


7. Melnyk B. M., Gallagher L., Long L. E, Fineout
E. (2014), “The establishment of evidence-based
practice competencies for practicing registered
nurses and advanced practice nurses in real world
clinical settings: proficiencies to improve
healthcare quality, reliability, practice outcomes,
<i>and costs”, Worldviews on Evidence-Based </i>
<i>Nursing, 11, pp. 5-15. </i>


8. Sacckett D. (1996), “Evidence based medicine:
<i>what it is and what it isn’t”, British Medical </i>
<i>Journal, 312, pp. 71- 72. </i>


9. Upton D., Upton P. (2006), “Development of an
evidence- based practice questionnaire for nurses”,
<i>Journal of Advaned Nursing, 54(4), pp. 454- 458. </i>


10. Upton D., Upton P. (2005), “Nurses attitudes to
evidence- based practice: Impact of a national
<i>policy”, British Journal of Nursing, 14, pp. 284- 288.</i>
SUMMARY


<b>NURSES’ KNOWLEDGE, ATTITUDES AND PRACICE </b>
<b>ABOUT EVIDENCE- BASED PRACTICE </b>


<b>Phạm Thị Oanh, Lương Thị Hoa*</b>


<b>, Hoàng Trung Kiên </b>
<i>TNU - University of Medicine and Pharmacy </i>


A descriptive cross- sectional correlational study was conducted in Thai Nguyen national hospital
to describe nurses’ knowledge, attitudes and practice about evidence- based practice (EBP) and
explored the correlation of nuurses’ perceived EBP and their demographic characteristics. The
result showed that nurses have positive attitudes towards EBP (5.08 ± 1.34), however, their EBP’
knowledge and practice were at medium level (4.00 ± 1.23 và 3.79 ± 1.39). The nurses’ perceived
EBP knowledge was difference based on educational level. The nurses’ previous participate in
research was relate to their knowledge, attitudes and practice about evidence- based practice.
The results of this study suggest that a comprehensive strategy for building EBP compitencies
through proper training is needed to ehance the quality of the nursing care.


<i><b>Keywords: nurse, evidence- based practice, knowledge, attitudes, practice </b></i>


<i><b>Ngày nhận bài: 09/10/2018; Ngày phản biện: 28/10/2018; Ngày duyệt đăng: 31/10/2018 </b></i>



*



</div>

<!--links-->

×