Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG Ở CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.95 KB, 34 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG Ở CÁC DOANH
NGHIỆP THƯƠNG MẠI
I. ĐẶC ĐIỂM NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG Ở DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm và ý nghĩa của bán hàng trong Doanh nghiệp thương mại:
1.1. Khái niệm bán hàng:
Bán hàng là khâu cuối cùng trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, là giai đoạn mà tài sản của doanh nghiệp được chuyển từ hình
thái hiện vật (hàng hoá) sang hình thái giá trị (tiền tệ). Thông qua bán hàng, giá
trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiện; vốn của doanh nghiệp doanh
nghiệp thu hồi vốn bỏ ra, bù đắp được chi phí và có nguồn tích luỹ để mở rộng
kinh doanh v.v.
1.2.ý nghĩa của bán hàng:
Bán hàng có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của một doanh nghiệp thương mại, bán hàng là khâu vận động cuối
cùng của hàng hoá, nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, bán được hàng là vấn đề quan
tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo vì có bán được hàng thì mới thu hồi
được vốn, mới bù đắp được chi phí bỏ ra và có lãi để tiếp tục quá trình
kinh doanh.
2. Đặc điểm
2.1 Đối tượng phục vụ
Về đối tượng phục vụ của doanh nghiệp thương mại là người tiêu dùng, bao
gồm các cá nhân, các đơn vị kinh doanh khác và các cơ quan, tổ chức xã hội.
2.2 Các phương thức và hình thức bán hàng
Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có thể bán hàng theo nhiều
phương thức khác nhau như bán buôn, bán lẻ hàng hoá, ký gửi, đại lý. Trong
mỗi phương thức bán hàng lại có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau (trực tiếp, chuyển hàng, …)
2.2.1 Phương thức bán buôn:
Là phương thức bán hàng cho các đơn vị thương mại, các doanh nghiệp
sản xuất ,. . . để thực hiện bán ra hoặc để gia công, chế biến bán ra. Đặc điểm


của hàng hoá bán buôn là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông chưa đi
vào lĩnh vực tiêu dùng, do vậy, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá chưa
được thực hiện. Hàng thường được bán theo lô hàng hoặc bán với số lượng
lớn. Giá bán biến động tuỳ thuộc vào khối lượng hàng bán và phương thức
thanh toán. Trong bán buôn thường bao gồm hai phương thức:
a) Phương thức bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng: Theo phương thức này,
doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, không đưa
hàng về nhập kho mà chuyển bán thẳng cho bên mua. Phương thức này có
thể thực hiện theo hai hình thức :
− Hình thức bán giao tay ba: Theo hình thức này, căn cứ vào hợp đồng
kinh tế đã ký kêt với nhà cung cấp và khách hàng, doanh nghiệp cử cán
bộ nghiệp vụ cùng khách hàng đến nhận hàng do nhà cung cấp giao.
Hành vi mua và bán hàng đồng thời được thực hiện.
− Hình thức gửi hàng chuyển bán thẳng: Theo hình thức này doanh nghiệp
thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, dùng phương tiệm vận
tải của mình hoặc thuê ngoài vận chuyển hàng đến giao cho bên mua ở
địa điểm đã được thoả thuận. Hàng hoá chuyển bán trong trường hợp
này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại. Khi nhận
được tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo của bên mua đã nhận
được hàng và chấp nhận thanh toán thì hàng hoá chuyển đi mới được
xác định là tiêu thụ .
b) Phương thức bán buôn hàng hoá qua kho: Là phương thức bán buôn hàng
hoá mà trong đó, hàng bán phải được xuất từ kho bảo quản của doanh
nghiệp. Bán buôn hàng hoá qua kho có thể thực hiện dưới hai hình thức:
− Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp: Theo
hình thức này, bên mua cử đại diện đến kho của doanh nghiệp thương
mại để nhận hàng. Doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá giao
trực tiếp cho đại diện bên mua. Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng,
thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
Chứng từ bán hàng là hoá đơn kiêm phiếu xuất kho. Một liên của chứng

từ giao cho người nhận hàng (bên mua), hai liên gửi về phòng kế toán
làm thủ tục thanh toán tiền bán hàng. Số hàng đã giao nhận xong được
coi là tiêu thụ.
− Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức chuyển hàng: Theo hình thức
này, căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, hoặc theo đơn đặt hàng doanh
nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá, dùng phương tiện vận tải của
mình hoặc đi thuê ngoài, chuyển hàng đến kho của bên mua hoặc một
địa điểm nào đó bên mua quy định trong hợp đồng. Hàng hoá chuyển
bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại, chỉ khi nào
được bên mua kiểm nhận, thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì số
hàng chuyển giao mới được coi là tiêu thụ. Chí phí vận chuyển do doanh
nghiệp thương mại chịu hay bên mua chịu là do sự thoả thuận từ trước
giữa hai bên. Nếu doanh nghiệp thương mại chịu chi phí vận chuyển,
phải thu tiền của bên mua .
2.2.2 Phương thức bán lẻ
Bán lẻ hàng hoá là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng
hoặc các tổ chức kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua về mang tính
chất tiêu dùng nội bộ. Bán hàng theo phương thức này cóđặc điểm là hàng
hoá đã ra khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Giá trị và giá
trị sử dụng của hàng hoá đã được thực hiện. Bán lẻ thường bán đơn chiếc
hoặc số lượng nhỏ, giá bán thường ổn định. Phương thức bán lẻ có thể thực
hiện dưới các hình thức sau:
− Hình thức bán lẻ thu tiền tập trung: Là hình thức bán hàng mà trong đó,
tách rời nghiệp vụ thu tiền của người mua và nghiệp vụ giao hàng cho
người mua. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền làm nhiệm vụ thu
tiền của khách, viết hoá đơn hoặc tích kê cho khách để khách đến nhận
hàng ở quầy hàng do nhân viên bán hàng giao. Hết ca bán hàng, nhân
viên bán hàng căn cứ vào hoá đơn và tích kê giao hàng cho khách hoặc
kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán trong ngày,
trong ca và lập báo cáo bán hàng. Nhân viên thu tiền làm giấy nộp tiền

và nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ.
− Hình thức bán lẻ thu tiền trực tiếp: Là hình thức bán hàng trực tiếp thu
tiền và giao hàng cho khách .Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân viên bán
hàng làm giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ. Đồng thời, kiểm kê hàng
hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán trong ca, trong ngày và
lập báo cáo bán hàng. Theo hình thức bán hàng này, khách hàng không
mất thời gian chờ thanh toán nhưng đòi hỏi nhân viên bán hàng phải có
nghiệp vụ vững vàng ,nhanh nhẹn hoạt bát, có trách nhiệm cao để tránh
tình trạng nhầm lẫn, mất mát khi đông khách.
− Hình thức bán hàng trả góp : Theo hình thức này, người mua được trả
tiền mua hàng thành nhiều lần. Doanh nghiệp thương mại, ngoài số tiền
thu theo giá bán thường còn thu thêm người mua một khoản lãi do trả
chậm. Về thực chất, người bán chỉ mất quyền sở hữu khi người mua
thanh toán hết tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, khi giao hàng cho
người mua, hàng hoá bán trả góp được coi là tiêu thụ, bên bán ghi nhân
doanh thu.
− Hình thức bán hàng tự động: Bán hàng tự động là hình thức bán lẻ hàng
hoá mà trong đó, các doanh nghiệp thương mại sử dụng các máy bán
hàng tự động chuyên dùng cho một hoặc nột vài loại hàng hoá nào đó đặt
ở các nơi công cộng, sau khi người mua bỏ tiền bào máy, máy sẽ tự động
đẩy hàng ra cho người mua.
2.2.3. Phương thức bán hàng đại lý:
− Hình thức gửi hàng đại lý bán hay ký gửi hàng hoá: Theo hình thức này
doanh nghiệp thương mại giao hàng cho cở đại lý, ký gửi để cơ sở này
trực tiếp bán hàng. Bên nhận làm đại lý ,ký gửi sẽ trực tiếp bán hàng,
thanh toán tiền hàng và được hưởng hoa hồng đại lý. Số hàng chuyển
giao cho các cơ sở đại lý, ký gửi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp thương mại cho đến khi doanh nghiệp thương mại được cơ sở đại
lý ký gửi thanh toán tiền hay chấp nhận thanh toán hoặc thông báo về số
hàng đã bán được, doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu về số hàng này.

− Hình thức bán hàng nhận đại lý: Theo hình thức này doanh nghiệp sẽ
nhận bán hàng cho doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp có trách nhiệm về
số hàng đã nhận, tổ chức bán hàng và thanh toán kịp thời, đầy đủ tiền
hàng cho người giao đại lý khi hàng hoá đã được tiêu thụ. Hình thức bán
hàng này có đặc điểm là hàng hoá không thuộc sở hữu bán của doanh
nghiệp và khi bán được hàng thì doanh nghiệp được hưởng hoa hồng tính
trên giá bán.
2.3 Các phương thức thanh toán :
Tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như trị giá lô hàng bán, mức độ thường xuyên
trong quan hệ mua bán, mức độ tín nhiệm lẫn nhau, . . . mà doanh nghiệp
thương mại và người mua có thể thoả thuận lựa chọn sử dụng các phương thức,
hình thức thanh toán khác nhau.
2.3.1 Phương thức thanh toán trực tiếp:
Là quá trình bán hàng và thu tiền phát sinh cùng một thời điểm. Theo
phương thức thanh toán này, có các hình thức sau :
− Hình thức thanh toán bằng tiền mặt, ngân phiếu: Là hình thức khi bên
bán chuyển giao hàng hóa, dịch vụ thì bên mua xuất tiền, ngân phiếu để
trả trực tiếp tương ứng với giá cả mà hai bên đã thỏa thuận.
− Hình thức trao đổi hàng: Theo hình thức này, khi bên bán chuyển giao
hàng hóa cho bên mua thì bên mua xuất giao cho bên bán một lô hàng
có giá trị tương ứng với giá trị lô hàng đã nhận được từ bên bán.
2.3.2 Phương thức thanh toán không trực tiếp
Thanh toán không trực tiếp là phương thức thanh toán được thực hiện
bằng cách trích chuyển ở tài khoản của doang nghiệp hoặc bù trừ giữa hai bên
thông qua các tổ chức kinh tế trung gian thường là Ngân hàng. Phương thức này
có thể được thực hiện theo một số hình thức sau:
− Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi
− Hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu
− Hình thức thanh toán bằng séc
− Hình thức thanh toán trả bằng thư tín dụng

2.3.3 Phương thức thanh toán chậm:
Theo phương thức này, khi người bán giao hàng cho người mua thì người
mua không thanh toán ngay mà ký chấp nhận nợ. Hết thời hạn tín dụng, theo thoả
thuận bên mua có nghĩa vụ phải thanh toán hết số tiền hàng cho bên bán.
3. Nội dung chuẩn mực kế toán nghiệp vụ bán hàng theo VAS 14
3.1. Các thuật ngữ có liên quan đến bán hàng và cung cấp dịch vụ
− Doanh thu: Là tổng giá trị của các lợi ích kinh tế doanh nghiệp đã thu
được hoặc sẽ thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ hoạt động SXKD
thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
− Chiết khấu thương mại: Là khoản doanh nghiệp bán giảm giá niêm yết
cho khách hàng mua hàng với khối lượng lớn.
− Giảm giá hàng bán: Là khoản giảm trừ cho người mua do hàng bán kém
phẩm chất, sai quy cách theo quy định trong hợp đồng kinh tế hoặc lạc
hậu thị hiếu.
− Hàng bán bị trả lại: Là giá trị khối lượng hàng bán xác định là đã bán bị
khách hàng trả lại và từ chối thanh toán.
− Chiết khấu thanh toán: Là khoản doanh nghiệp bán hàng giảm giá cho
khách hàng do thanh toán sớm.
3.2. Xác định doanh thu
− Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: Là toàn bộ số tiền thu được
hoặc sẽ thu được từ các giao dịch và nghiệp vụ phát sinh doanh thu như
bán sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho khách hàng bao gồm cả
các khoản phụ thu và phí thu bên ngoài giá bán( nếu có)
− Trường hợp doanh nghiệp có doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ bằng
ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra Đồng VN hoặc đơn vị tiền tệ chính thức
sử dụng trong kế toán theo tỷ giá giao dịch thực tế phát sinh hoặc tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà
nước VN công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ kinh tế.
− Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ thuần mà doanh nghiệp thực
hiện được trong kỳ kế toán có thể thấp hơn doanh thu bán hàng và cung

cấp dịch vụ ghi nhận ban đầu do các nguyên nhân: Doanh nghiệp chiết
khấu thương mại, giảm giá hàng đã bán, hàng bán bị trả lại và doanh
nghiệp phải nộp thuế TTĐB hoặc thuế xuất khẩu, thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp được tính trên doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ thực tế mà doanh nghiệp đã thực hiện trong một kỳ kế toán.
− Tài khoản 511 “Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” chỉ phản ánh
doanh thu của khối lượng sản phẩm, hàng hoá, bất động sản đầu tư đã
bán; dịch vụ đã cung cấp được xác định là đã bán trong kỳ không phân
biệt doanh thu đã thu tiền hay sẽ thu được tiền.
− Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT
tính theo phương pháp khấu trừ, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch
vụ là giá bá chưa có thuế GTGT.
− Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế
GTGT, hoặc thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo pương pháp trực
tiếp thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá thanh toán.
− Đối với sản phẩm, hàng, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt, hoặc thuế xuất khẩu thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là
tổng giá thanh toán (Bao gồm cả thuế TTĐB hoặc thuế xuất khẩu,..)
− Những doanh nghiệp nhận gia công vật tư, hàng hoá thì chỉ phản ánh
vào doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ số tiền gia công thực tế
được hưởng, không bao gồm giá trị vật tư, hàng hoá nhận gia công.
− Đối với hàng hoá nhận bán đại lý, ký gửi theo phương thức bán đúng giá
hưởng hoa hồng thì hạch toán vào doanh thu bán hàng và cung cấp dịch
vụ phần hoa hồng bán hàng mà doanh nghiệp được hưởng.
− Trường hợp bán hàng theo pương thức trả chậm, trả góp thì doanh nghiệp
ghi nhận doanh thu bán hàng theo giá bán trả tiền ngay và ghi nhận vào
doanh thu chưa thực hiện phần lãI tính trên khoản phảI trả nhưng trả chậm
phù hợp với thời điểm ghi nhận doanh thu được xác định.
− Những sản phẩm, hàng hoá đựơc xác định là đã bán nhưng vì lý do về
chất lượng, về quy cách kỹ thuật,… người mua từ chối thanh toán, gửi

trả lại người bán hoặc yêu cầu giả giá và được doanh nghiệp chấp thuận;
hoặc người mua mua hàng với khối lượng lớn dược chiết khấu riêng trên
các Tài khoản 521 “Các khoản giảm trừ doanh thu”, cuối kỳ kết chuyển
vào TK511 để tính doanh thu thuần.
3.3. Điều kiện ghi nhận doanh thu:
Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải theo nguyên tắc phù hợp. Khi
ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng
có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chỉ ghi nhận doanh thu bán sản
phẩm, hàng hoá khi thoả mãn đồng thời 5 điều khiện sau:
− Doanh nghiệp đã trao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở
hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua.
− Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá cũng như
người sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá
− Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn
− Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch
bán hàng.
− Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
4. Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ bán hàng
4.1. Yêu cầu quản lý nghiệp vụ bán hàng:
Trong các doanh ngiệp thương mại , nghiệp vụ bán hàng mang tính
thường xuyên liên tục và chiếm tỷ trọng lớn, vì thế công tác quản lý nghiệp
vụ bán hàng cũng manh tính thường xuyên liên tục. Quản lý nghiệp vụ bán
hàng đòi hỏi phải quản lý về các chỉ tiêu: Doanh thu, giá vốn, công nợ.
− Doanh thu: Đây là chỉ tiêu quan trọng mà doanh nghiệp phải quan tâm
đến vì nó phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
− Giá vốn: Phải theo dõi và phân tích giá vốn của hàng bán để có các
chính sách phù hợp. Bởi vì nếu doanh thu của công ty mà thấp hơn giá
vốn hàng bán thì doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ, hoạt động kinh doanh
không có hiệu quả. Phải xem xét và phân tích giá vốn một cách cẩn then
để đưa ra mức giá phù hợp.

− Công nợ: Phải quản lý công nợ một cách chặt chẽ và có khoa học. Nếu
công nợ của công ty cao thì phải có chính sách để giảm
Nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá liên quan đến từng khách hàng, từng
phương thức thanh toán và từng mặt hàng nhất định. Do đó, công tác quản lý
nghiệp vụ bán hàng đòi hỏi phải quản lý các chỉ tiêu như: Quản lý doanh thu,
tình hình thay đổi trách nhiệm vật chất ở khâu bán, tình hình thu hồi tiền, tình
hình công nợ và thanh toán công nợ về các khoản phải thu của người mua,
quản lý giá vốn của hàng hoá đã tiêu thụ, …Cụ thể quản lý gnhiệp vụ bán
hàng cần bám sát các yêu cầu sau:
− Quản lý sự vận động của từng loại hàng hóa trong quá trình xuất nhập
tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng, chất lượng và giá trị.
− Nắm bắt theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể thức
thanh toán, từng khách hàng và từng loại hàng hóa tiêu thụ.
− Đốn đốc thanh toán, thu hồi đầy đủ tiền hàng
− Tính toán xác định từng loại hoạt động của doanh nghiệp
− Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước theo chế độ quy định.
4.2. Nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ bán hàng:
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì kế toán nghiệp vụ bán hàng
cung cấp thông tin quan trọng hơn cả. Hạch toán nghiệp vụ bán hàng trong
doanh nghiệp thương mại có các nghiệp vụ cơ bản sau:
− Ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ và chính xác tình hình bán hàng cả về
mặt giá trị và hiện vật của từng mặt hàng, nhóm hàng.
− Kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về
quá trình bán hàng. Tính toán chính xác giá vốn hàng hoá đã tiêu thụ từ đó
xác định đúng đắn kết quả hoạt động bán hàng.
− Phản ánh và giám đốc tình hình thu hồi tiền, tình hình công nợ và thanh
toán công nợ với người mua.
− Cung cấp thông tin cần thiết về tình hình bán hàng, phục vụ cho việc
chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
5. Giá bán và giá vốn của hàng hóa:

5.1. Giá bán của hàng hoá:
Giá bán hàng hoá của doanh nghiệp thương mại được xác định là giá thỏa
thuận giữa người mua và người bán, được ghi trên hóa đơn hoặc hợp đồng và có
thể được tính theo công thức:
Giá bán = Giá mua thực tế + Thặng số thương mại
Thặng số thương mại = Giá mua thực tế * Tỷ lệ % thặng số thương mại
Vậy: Giá bán = Giá mua thực tế ( 1 + Tỷ lệ % thặng số thương mại)
(Trong đó: Thặng số thương mại là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá
mua hàng hoá nhằm bù đắp chi phí và hình thành thu nhập cho doanh nghiệp).
Trong trường hợp doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp thì giá mua trong công thức trên là giá bao gồm cả thuế
GTGT. Còn nếu doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì giá
mua trong công thức trên là giá không bao gồm thuế GTGT.
5.2. Giá vốn của hàng bán:
Bên cạnh việc tính toán được mức giá bán hợp lý của hàng hóa bán ra
doanh nghiệp còn phải quan tâm đến việc xác định chính xác trị giá vốn của
hàng hóa. Căn cứ vào yêu cầu của công tác quản lý và cách đánh giá hàng hoá
phản ánh trong tài khoản và sổ kế toán mà vận dụng cách tính trị giá mua của
hàng hoá xuất kho.
5.2.1. Phương pháp tính trị giá mua của hàng hoá xuất kho trong trường
hợp kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết hàng hoá theo trị giá mua thực tế của
hàng hoá:
Theo cách đánh giá này, có thể tính trị giá mua của hàng hoá xuất kho
theo các phương pháp sau:
− Giá thực tế bình quân gia quyền
− Giá thực tế nhập trước, xuất trước
− Giá thực tế nhập sau, xuất trước
− Giá thực tế từng loại hàng hoá theo từng lần nhập (còn gọi là giá thực tế
đích danh).
5.2.1.1. Phương pháp tính trị giá thực tế bình quân gia quyền:

Theo phương pháp này trước tiên phải tính giá mua bình quân của
hàng hoá luân chuyển trong kỳ đối với từng thứ hàng hoá theo công thức:
Giá mua bình quân
đơn vị hàng hoá luân
chuyển trong kỳ
=
Trị giá mua của
hàng
hoá còn đầu kỳ
+
Trị giá mua của
hàng hoá nhập trong
kỳ
Số lượng hàng hoá
còn đầu kỳ
+
Số lượng hàng hoá
nhập trong kỳ
Sau đó tính trị giá mua của số hàng hoá xuất kho trong kỳ cho từng thứ
hàng hoá:
Trị giá mua của
hàng hoá xuất
kho
=

Số lượng hàng hoá
xuất kho trong kỳ
x
Giá mua
bình quân

đơn vị
)
(
Cuối kỳ tính trị giá mua của toàn bộ hàng hoá xuất kho trong bằng
cách tổng hợp trị giá mua của từng thứ hàng hoá xuất kho.
5.2.1.2. Phương pháp nhập trước, xuất trước:
Phương pháp này dựa trên giả thiết lô hàng (chuyến hàng) nào nhập
trước thì tính giá mua vào của nó cho hàng hoá xuất trước, nhập sau thì tính
sau.
Công thức tính như sau:
Trị giá mua
của hàng hoá
xuất kho
trong kỳ
=

Giá mua thực tế đơn vị
hàng hoá nhập kho
theo từng lần nhập kho
trước
x
Số lượng hàng hoá
xuất kho trong kỳ
thuộc số lượng từng
lần nhập kho
Theo phương pháp này kế toán phải ghi sổ kế toán chi tiết mở cho từng
thứ hàng hoá cả về số lượng, đơn giá và số tiền tong lần nhập, xuất hàng hoá.
5.2.1.3. Phương pháp nhập sau, xuất trước:
Theo cách này giả thiết những lô hàng nào nhập kho sau được tính trị
giá mua vào của nó cho lô hàng nào xuất trước, nhập trước thì tính sau.

Công thức tính như sau:
Trị giá mua
của hàng hoá
xuất kho
trong kỳ
=

Giá mua thực tế đơn vị
hàng hoá nhập kho
theo từng lần nhập kho
sau
x
Số lượng hàng hoá
xuất kho trong kỳ
thuộc số lượng từng
lần nhập kho
Theo phương pháp này kế toán phải ghi sổ kế toán chi tiết mở cho từng thứ
tự hàng cả về số lượng đơn giá và số tiền của tong lần nhập, xuất hàng hoá.
5.2.1.4. Phương pháp tính theo giá thực tế đích danh:
Khi ta nhận biết giá thực tế của tong thứ hoặc loại hàng hoá theo tong
lần nhập kho thì có thể định giá cho nó theo giá thực tế đích danh.
5.2.2. Phương pháp tính trị giá mua của hàng hoá xuất kho trong trường
hợp kế toán tổng hợp hàng hoá theo giá mua thực tế và kế toán chi tiết hàng hoá
theo giá hạch toán:
Theo phương pháp này, để tính được trị giá mua thực tế của hàng hoá
bán ra trong kỳ, kế toán phải mở sổ kế toán chi tiết, phản ánh sự biến động của
hàng hoá nhập, xuất trong kỳ theo hạch toán và theo giá mua thực tế.
Cuối tháng tính theo trị giá mua thực tế của hàng hoá xuất kho trong kỳ
theo công thức:
Hệ số chênh

lệch giữa giá
thực tế với
giá hạch
toán
=
Trị giá mua thực tế của
hàng
hoá tồn đầu kỳ
+
Trị giá mua thực tế của
hàng hoá nhập kho trong
kỳ
Trị giá hạch toán của hàng
hoá tồn đầu kỳ
+
Trị giá hạch toán của
hàng hoá nhập kho trong
kỳ
II - PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1. Hạch toán ban đầu:
Hạch toán ban đầu là quá trình theo dõi, ghi chép, hệ thống hoá các
nghiệp vụ kinh tế, các hiện tượng và quá trình kinh tế trên chứng từ làm cơ sở
cho hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết. Hạch toán ban đầu được thực hiện
trên các nội dung sau:
− Sử dụng mẫu chứng từ
− Số lượng chứng từ lập
− Tổ chức luân chuyển chứng từ
Kế toán nghiệp vụ bán buôn, bán lẻ sử dụng các mẫu chứng từ sau:
+ Hoá đơn GTGT( Sử dụng đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo

phương pháp khấu trừ). Hoá đơn GTGT được lập làm 03 liền, một liên giao cho
khách hàng, hai liên giữ lại. Trên hoá đơn GTGT ghi rõ giá bán chưa thuế, thuế
GTGT, tổng giá thanh toán. Nếu trên hoá đơn chỉ ghi tổng giá thanh toán thì
thuế GTGT được tính trên tổng giá thanh toán theo công thức sau:

×