Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Lãi suất thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.32 KB, 78 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
*******

TRẦN THỊ THU NGÂN

LÃI SUẤT
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
Chuyên ngành:

Luật Kinh Tế

Mã số:

60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ VŨ NAM

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


MỤC LỤC
Trang

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ PHÁP LUẬT
VỀ LÃI SUẤT ............................................................................................................... 4
1.1. Tổng quan về lãi suất ............................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về lãi suất ..................................................................................... 4


1.1.2. Đặc điểm của lãi suất ..................................................................................... 5
1.1.3. Phân loại lãi suất ........................................................................................... 7
1.1.4. Các yếu tố tác động đến lãi suất .................................................................... 9
1.1.5. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường ....................................... 10
1.2. Khái quát pháp luật về lãi suất............................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm pháp luật về lãi suất ................................................................... 12
1.2.2. Chủ thể của quan hệ pháp luật về lãi suất ................................................. 14
1.2.3. Nội dung pháp luật về lãi suất ..................................................................... 18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................... 27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LOẠI LÃI SUẤT VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..................................................................................... 28
2.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về lãi suất ....................................................... 28
2.2. Các nguyên tắc cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật về lãi suất .................... 29
2.3. Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về loại lãi suất .............................. 30
2.3.1. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu .............................................. 30
2.3.2. Lãi suất cơ bản .............................................................................................. 38
2.3.3. Lãi suất khác ................................................................................................ 47
2.3.4. Các quy định pháp luật về cơ chế áp dụng lãi suất quá hạn ........................ 61
2.3.5. Các quy định pháp luật vê cơ chế áp dụng lãi suất chậm thanh toán ...... 65

1


KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................... 72
KỀT LUẬN ................................................................................................................. 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 74

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế, vì nó tác động đến

chi phí đầu tư. Do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu
về tiền tệ (GNP). Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi
suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền cung
ứng.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, vai trị của lãi suất chưa được nhìn nhận
đúng với vị trí của nó, cịn mờ nhạt và lệ thuộc.
Khác với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lãi suất trong nền kinh tế thị trường
như các nhà kinh tế đã khẳng định, là giá cả vay mượn hoặc thuê những dịch vụ tiền liên
quan đến việc tạo ra tín dụng. Do vậy người ta có thể coi lãi suất như giá cả của tín dụng.
Theo quy luật của kinh tế thị trường thì lãi suất – giá cả của tín dụng cũng phải tn theo
quy luật chung đó.
Tuy nhiên, chính sách điều hành lãi suất của NHNN trong từng thời kỳ cũng còn
nhiều tranh luận, chưa tuân theo quy luật của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu “Lãi suất – Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng” là thật sự cần thiết, để
tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãi suất theo hướng tự do hóa trên nguyên tắc thị trường, được
kiểm soát qua các nghiệp vụ thị trường.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu và thu thập tài liệu, tác giả nhận thấy vấn đề về lãi suất
khơng phải là vấn đề hồn tồn mới trong hoạt động nghiên cứu chun mơn. Nhưng nhìn
chung, các cơng trình này được nghiên cứu ở những mốc thời gian khác nhau nhưng giải

2


quyết vấn đề dưới góc độ kinh tế nhiều hơn là pháp luật. Có thể kể đến một số cơng trình
như:
- Luận án phó tiến sỹ khoa học kinh tế của tác giả Hoàng Thị Loan năm 1996,
“Phương pháp xác định lãi suất ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”.
- Luận văn thạc sỹ của Thạnh Hồng Đăng Khoa năm 2008 “Tự do hóa lãi suất và
những biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương

mại”.
- Luận văn Thạc sỹ của Võ Thị Thùy Trang năm 2010 “Giải pháp nâng cao hiệu
quả điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước Việt Nam”.
Bên cạnh đó, các tạp chí chuyên ngành kinh tế cũng có nhiều bài viết nghiên cứu
về lãi suất, đặc biệt là trong thời gian vừa qua, cả nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn
suy thối, khủng hoảng nền kinh tế tồn cầu, vấn đề lãi suất một lần nữa lại được đề cập.
Việt Nam cũng khơng ngoại lệ, có rất nhiều bài báo của các chuyên gia kinh tế tranh luận
về chính sách điều hành lãi suất của NHNN trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các
quốc gia khác.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phép biện chứng duy vật lịch sử
- Phương pháp phân tích so sánh
- Phương pháp khảo sát thống kê số liệu trong đó phương pháp phân tích là phương pháp
chủ đạo.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài có nhiệm vụ phân tích các quy định của pháp luật về các loại lãi suất của
Việt Nam hiện nay. So sánh, đối chiếu các quy định trong từng thời kỳ gắn liền với hiệu
quả kinh tế xã hội. Từ đó cho thấy sự hợp lý hay không của những quy định này, trên cơ
sở tham khảo các quy định của các quốc gia khác trên thế giới.
5. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận về lãi suất
theo quy định của pháp luật Việt Nam, có hay khơng sự tác động của các loại lãi suất đến
thị trường tài chính, quy định của pháp luật về lãi suất trong từng thời kỳ. Những vấn đề
3


nghiên cứu này nhằm trả lời cho câu hỏi: “tại sao NHNN phải điều hành lãi suất?”. Bên
cạnh đó, đề tài cũng phân tích một số mâu thuẫn của pháp luật Việt Nam quy định về lãi
suất, chủ yếu là trong Luật NHNN Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.

Với chuyên ngành Luật kinh tế, đề tài cũng đi sâu nghiên cứu cơ sở để NHNN ban
hành những quy định điều hành lãi suất. Đối chiếu với quy định của một số quốc gia trên
thế giới, để xem Việt Nam điều hành lãi suất có theo xu hướng chung hay có những điểm
gì chưa hợp lý.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm có 2 chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề chung về lãi suất
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về lãi suất và kiến nghị hoàn thiện

4


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT
1.1. Tổng quan về lãi suất
1.1.1. Khái niệm về lãi suất
Lãi suất bắt đầu xuất hiện từ khi quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá bắt đầu hình
thành. Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong
nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí, vì trực tiếp
ảnh hướng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta.
Lãi suất (hay lãi suất tín dụng) là một cơng cụ kinh tế rất quan trọng và nhạy cảm đối
với mọi nền kinh tế, nó đóng vai trị quan trọng đặc biệt khi nền kinh tế ngày càng phát
triển, đó là vai trị ổn định và góp phần hồn thiện chính sách tiền tệ tạo ra sự kích thích
cần thiết để phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia và toàn thế giới.
Lãi suất là một phạm trù kinh tế và là một phạm trù giá cả, mang tính chất tổng hợp
và đa dạng, có liên quan đến những phạm trù kinh tế khác nên có khá nhiều cách tiếp cận.
Lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, hội tụ nhiều mối quan hệ, các mâu thuẫn liên
quan trực tiếp đến lợi ích vật chất trong xã hội. Bên cạnh đó, lãi suất tác động đến sự phát
triển của nền kinh tế nên mang tính chất tổng hợp, đa dạng, chịu ảnh hưởng của quy luật
cung cầu.
Nhà kinh tế học người Pháp A Poial khẳng định "Lãi suất là công cụ tích cực trong

phát triển kinh tế và đồng thời cũng là một cơng cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy,
tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng".
Khi bàn về bản chất của lãi suất, K.Marx quan niệm rằng “Thơng qua hình thức biểu
hiện, lãi suất là giá cả của vốn cho vay như một loại hàng hóa, giá cả của hàng hóa biểu
hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa cịn giá cả của vốn cho vay biểu hiện trực tiếp bằng lãi
suất”. Như vậy, nguồn gốc của lãi suất là giá trị thặng dư, lãi suất là giá trị của quyền sử
dụng vốn.
Theo Samuelson1: Lãi suất là giá mà người đi vay phải trả cho người vay để được sử
dụng một khoản tiền trong một thời gian nhất định, nó chính là giá của việc mua bán
quyền sử dụng tiền tệ trong một thời gian xác định.
1

Paul Anthony Samuelson (15/5/1915 - 13/12/2009) là một nhà kinh tế học người Hoa Kỳ, đại biểu của trường
phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp

5


Theo Marshall2: Lãi suất là chỉ giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường
bất kì.
Theo các nhà kinh tế học hiện đại trên quan điểm kinh tế ứng dụng thì: “Lãi suất là
giá mua và giá bán quyền sử dụng vốn, như lãi suất tiền gởi tiết kiệm chính là phần
thưởng cho sự tiết chế tiêu dùng trong hiện tại để có một sự tiêu dùng lớn hơn trong
tương lai”. Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ, lãi
suất vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn bằng tổng cung về vốn. Hay nói
cách khác, lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một khoảng thời
gian nhất định. Lãi suất cao hay thấp do quan hệ giữa cung và cầu vốn quyết định. Lãi
suất được thể hiện trên thị trường là lãi suất danh nghĩa, trong khi đó lãi suất thực là lãi
suất được điều chỉnh lại đúng theo những thay đổi dự tính về giá.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế, lãi suất được hiểu là khoản tiền phải trả cho một khoản

vay, đó là việc mua bán quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định và phải
trả tiền tương ứng với việc mua đó – đây là quan hệ mua bán.
1.1.2. Đặc điểm của lãi suất
- Dƣới góc độ quản lý nhà nước của NHNN đối với thị trường tài chính thì lãi suất
thể hiện các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, lãi suất có tính điều hành trong chính sách tài chính tiền tệ. CSTT là chính
sách do NHNN thực thi trên cơ sở tăng hay giảm khối tiền tệ tùy theo tình hình kinh tế
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Khoản 1 Điều 3 Luật NHNN Việt Nam 2010
xác định: “CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện
bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục
tiêu đề ra”.
Trong nền kinh tế, nếu tiền nhiều hơn hàng hóa thì đồng tiền giảm giá, giá trị hàng
hóa gia tăng dẫn đến lạm phát. Nếu tiền khan hiếm đến mức không cung cấp đủ cho các
nhu cầu về thanh tốn cần thiết, thì nền kinh tế sẽ lâm vào tình trạng giảm phát vì hàng
hóa nhiều hơn tiền, cung thấp hơn cầu. Giá trị của tiền lúc này tăng lên bởi giá cả của
hàng hóa giảm đi, điều này sẽ nguy hiểm hơn cho nền kinh tế, làm đình trệ nền kinh tế,
2

Alfred Marshall (26 tháng 7 1842 - 13 tháng 7 1924) là một nhà kinh tế học người Anh.

6


đình trệ các quan hệ sản xuất. Điều đó, sẽ làm cho giới sản xuất kinh doanh mất lời và họ
sẽ thu hẹp sức sản xuất, hệ quả là sản lượng hàng hóa sẽ suy giảm, kết quả cuối cùng nền
kinh tế trở nên trì trệ, suy thối. Có thể thấy rằng, mấu chốt cơ bản của CSTT quốc gia là
việc định lượng mức cung ứng tiền cho mỗi thời kỳ của nền kinh tế. Mục đích của CSTT
là ổn định giá trị đồng tiền để nền kinh tế phát triển bình ổn, sẽ kiềm chế tình trạng giảm
phát và lạm phát, mục đích này giải quyết vấn đề bình ổn điều kiện kinh tế xã hội, chính

trị. Để giải quyết vấn đề đó, ngồi các cơng cụ khác thì NHNN cịn thơng qua cơng cụ lãi
suất để tác động chi phối, điều tiết hoạt động bơm rút tiền nhằm tác động vào q trình
lưu thơng tiền tệ và khối lượng tiền trong lưu thông.
Thứ hai, các lãi suất của NHNN mang tính điều phối đối với lãi suất thương mại của
các TCTD. Theo Điều 91 Luật các TCTD 2010 quy định về lãi suất, phí trong hoạt động
kinh doanh của tổ chức tín dụng thì TCTD được quyền ấn định lãi suất huy động vốn và
có quyền thỏa thuận với khách hàng về lãi suất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng. Tuy nhiên quyền của TCTD phải được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật.
Do đó, các lãi suất điều hành được NHNN ban hành, tuy không tác động trực tiếp đối với
hoạt động kinh doanh của TCTD nhưng lại có tác động định hướng, điều phối chính sách
lãi suất thương mại của các TCTD hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp với
quy luật cung cầu của thị trường vốn.
Thứ ba, lãi suất của NHNN mang tính quyền lực nhà nước. Để đảm bảo duy trì trật
tự, tính ổn định và minh bạch trong thị trường tài chính, các lãi suất của NHNN ban hành
có tính bắt buộc chung đối với chính sách kinh doanh của các TCTD. Đồng thời, các lãi
suất này cũng là cơ sở để duy trì trật tự, ổn định, minh bạch thị trường tài chính và được
đảm bảo thực hiện bằng các chế tài như: chế tài hành chính, chế tài hình sự,…
- Dƣới góc độ hoạt động kinh doanh của các TCTD thì lãi suất là một cơng cụ để
tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của cả bên gửi tiền, bên
cho vay tiền và bên đi vay tiền, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng tín dụng: trong các hợp
đồng gửi tiền, cho thuê tài chính hoặc các hợp đồng vay tiền, lãi suất quy định là cơ sở để
tính lãi.
7


Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do thoả
thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của lãi suất là một tỉ
lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền vay gốc trong một thời
hạn nhất định. Do đó, sẽ khơng thể có tỉ lệ đó nếu như không tồn tại số tiền gốc mà các

bên thoả thuận được trong hợp đồng tiền gửi và hợp đồng vay tín dụng.
Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay): lãi
suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó, tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít,
thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.
Thứ tư, lãi suất có tính cạnh tranh: Lãi suất huy động vốn hình thành trên cơ sở cạnh
tranh giữa các Ngân hàng thương mại, Tố chức tín dụng... Tính cạnh tranh của lãi suất
càng được thế hiện rõ ràng khi hệ thống các tô chức tham gia và cung cấp tín dụng ngày
càng nhiều. Mức lãi suất phải hấp dẫn thì mới thu hút được khách hàng tham gia. Do vậy,
mỗi ngân hàng thương mại, tố chức tín dụng muốn phát triển được hệ thống của mình
đều phải đưa ra được một mức lãi suất có khả năng cạnh tranh đối với các ngân hàng
thương mại, tổ chức tín dụng khác nhằm lơi kéo khách hàng về bên mình.
Thứ năm, lãi suất có tính linh hoạt: Lãi suất tín dụng hình thành một cách linh hoạt,
nhạy bén, thích ứng với mọi hoàn cảnh, đối tượng. Sự thay đổi thường xuyên của chính
sách tín dụng phù hợp với sự biến đổi của cung, cầu về vốn vay, tỷ lệ lạm phát, thu chi
Ngân sách Nhà nước, yếu tố tâm lý của người đi vay và người cho vay trên thị trường tài
chính.
1.1.3. Phân loại lãi suất
Có nhiều cách phân loại lãi suất khác nhau, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn,
có ba cách phân loại như sau:
1.1.3.1 Theo tính chất của khoản vay
Theo cách phân loại này thì lãi suất được chia thành:
- Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết
khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh tốn của khách hàng,
được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá.
- Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHNN cho các ngân hàng trung gian vay dưới
hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn
8


thanh tốn của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá

của giấy tờ có giá.
- Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên
thị trường liên ngân hàng.
- Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi
suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng nước, nó
có thể do NHNN ấn định (như ở Nhật); hoặc có thể do tự bản thân các ngân hàng tự xác
định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (ở Mỹ, Anh, Úc); hoặc
căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu rồi cộng (+) hoặc trừ (-)
biên độ dao động theo một tỷ lệ phần trăm nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của
mình (Malaysia)…Mặt dù khác nhau nhưng lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều
hình thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận bình qn cho phép.
1.1.3.2 Phân loại theo giá trị thực của tiền lãi
Theo cách phân loại này thì lãi suất được chia thành lãi suất danh nghĩa và lãi suất
thực.
- Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay nói cách
khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
- Lãi suất thực: là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát,
hay nói cách khác, là loại lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Quan hệ giữa lãi suất thực
và lãi suất danh nghĩa được phản ảnh bằng phương trình Fisher:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
1.1.3.3 Phân loại theo loại tiền cho vay
Lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ là 2 dạng của lãi suất phân loại theo loại tiền vay.
- Lãi suất nội tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ
- Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ
Mối liên hệ giữa hai lãi suất này là: rD = rF + ΔE;
Trong đó: rD là lãi suất nội tệ, rF là lãi suất ngoại tệ, ΔE là mức tăng tỷ giá dự tính
của đồng ngoại tệ.
1.1.3.4 Phân loại theo chủ thể ban hành.
9



Trong thị trường tài chính có 02 loại chủ thể có quyền ban hành lãi sất với tính chất và
tác động khác nhau đến thị trường tài chính tiền tệ là: NHNN và TCTD. Cụ thể, phân loại
theo chủ thể ban hành thì lãi suất được phân thành 02 loại như sau:
- Lãi suất điều hành do Ngân hàng Nhà nước công bố, được xác định dựa trên quan hệ
cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước xác định tuỳ thuộc vào mục
tiêu chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế vĩ mơ... Bao gồm: lãi suất chiết khấu, lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất định hướng trên thị trường liên Ngân hàng,
lãi suất nghiệp vụ thị trường mở...
- Lãi suất kinh doanh hay lãi suất thương mại do TCTD ấn định và công bố dựa vào
ảnh hưỏng của quan hệ cung - cầu trên thị trưòng: Bao gồm lãi suất các loại tín phiếu kho
bạc, tiền gửi, chứng chỉ tiến gửi (L/C), lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng, lãi suất của
các khoản tín dụng ngắn hạn của các NHTM cho các doanh nghiệp vay...
1.1.4. Các yếu tố tác động đến lãi suất
Cung cầu về vốn trên TTTT: Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, vì vậy bất kỳ
sự thay đổi nào của cung hoặc cầu, hoặc cả cung và cầu tiền tệ đều làm thay đổi mức lãi
suất trên thị trường. Những thay đổi về các điều kiện cung và cầu về vốn đều tác động
đến việc điều hành lãi suất của NHNN.
Thực trạng tài chính của các ngân hàng: Sự phát triển của TTTT phụ thuộc rất nhiều
vào hoạt động và khả năng tài chính của các thành viên chủ chốt tham gia trên TTTT,
trong đó đặc biệt là các ngân hàng. NHNN thường lựa chọn những đối tác giao dịch đóng
vai trị là thành viên bn bán trên thị trường. Những đối tác phải bảo đảm các điều kiện
như: có khả năng tài chính, có uy tín trên thị trường để tiếp nhận những giao dịch có giá
trị lớn như thơng qua hình thức tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở…, và có thể truyền
tải những giao dịch đến các đối tượng khác trên thị trường thứ cấp theo mong muốn của
NHNN. Nếu khả năng tài chính của các đối tác trên thị trường không minh bạch thông
tin, năng lực yếu kém, thì có khi NHNN khơng thực hiện được mục tiêu của mình trong
việc điều hành CSTT quốc gia thơng qua việc sử dụng cơng cụ lãi suất.
Kiểm sốt lạm phát: Khi lạm phát được dự đốn có xu hướng gia tăng trong một giai
đoạn nào đó, thì lãi suất sẽ có xu hướng tăng lên. Khi lạm phát gia tăng người dân sẽ

dành khoản tiết kiệm của mình vào việc mua hàng hóa hoặc dự trữ dưới những hình thức
10


khác như vàng, ngoại tệ, hoặc đầu tư vốn vào những việc kinh doanh khác. Vì vậy, khi
lạm phát xảy ra sẽ làm giảm cung quỹ vốn cho vay và gây áp lực tăng lãi suất trên thị
trường.
Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái: Khi đồng tiền nội tệ đứng trước những sức ép của
đồng tiền ngoại tệ mạnh, thì tâm lý phổ biến của người dân là coi đồng tiền ngoại tệ mạnh
như một trong những loại tài sản tiết kiệm an tồn. Như vậy, khi xây dựng chính sách
điều hành lãi suất thì NHNN phải xem xét đến tỷ giá hối đoái để giảm bớt chênh lệch
giữa lợi tức lãi suất tiền gửi đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, để ổn định TTTT.
Ảnh hưởng của chính sách thuế suất: chính sách thuế suất thường khơng mang tính ổn
định mà có thể thay đổi theo từng thời kỳ, cho nên khi thay đổi về đối tượng chịu thuế là
cá nhân đối với lợi nhuận từ tiền gửi tiết kiệm thì sẽ gây ra tác động đối với quyết định
gửi tiền, tác động đối với lãi suất thỏa thuận cho khoản tiền gửi. Như vậy, Chính sách
thuế cũng tạo ra các tác động và ảnh hưởng không nhỏ đối với lãi suất và nhu cầu gửi tiết
kiệm của người gửi.
Những thay đổi trong đời sống kinh tế - xã hội: Ngồi những yếu tố trên thì việc điều
hành lãi suất của NHNN còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống kinh tế xã hội, chính trị. Những biến động tài chính quốc tế như: cuộc khủng hoảng tài chính –
tiền tệ trên thế giới, các nguồn vốn đầu tư ra vào đối với các nước…
1.1.5. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường
1.1.5.1. Vai trò của lãi suất trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Lãi suất là địn bẩy, kích thích sự tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu của
CSTT quốc gia. Lãi suất trở thành công cụ quan trọng để thực hiện CSTT quốc gia, bởi vì
lãi suất có khả năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Lãi suất với tư cách là giá cả của những
khoản tiền vay để đầu tư hay mua các sản vật tiêu dùng, đã tạo nên khoản chi phí của
người đi vay, so sánh giữa lãi suất phải trả với hiệu quả của đồng vốn để người kinh
doanh đưa ra quyết định về đầu tư. Lãi suất là công cụ dùng để điều chỉnh các hoạt động
đầu tư trong nền kinh tế, vì sự biến động lãi suất có tác động đến đầu tư, đến tiêu dùng

nên nó có tác động trực tiếp đến các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mơ.
1.1.5.2. Vai trị của lãi suất trong nền kinh tế thị trường
11


Một là, vai trò của lãi suất đối với hoạt động sản xuất kinh doanh: Khi lãi suất hợp lý
cho phép các DN tính tốn được lợi nhuận thu về từ các dự án khả thi, vì vậy sẽ chiếm
lĩnh được các cơ hội kinh doanh. Một lãi suất hợp lý, các DN sẽ có lợi nhuận sau khi trừ
chi phí trả tiền lãi cho các khoản vay, kích thích các DN mở rộng đầu tư, thực hiện tái sản
xuất đẩy mạnh các hoạt động của DN.
Hai là, vai trò của lãi suất đối với thị trường chứng khoán: Khi thị trường chứng
khốn hoạt động, việc duy trì một mức lãi suất hợp lý, không được thăng trầm quá đáng là
điều cần thiết, nếu khơng những biến động trong chính sách lãi suất của NHNN tất yếu sẽ
dẫn đến những biến động trên thị trường chứng khốn.
Ba là, vai trị của lãi suất đối với thị trường bất động sản: Cũng giống như thị trường
chứng khốn thì khi thị trường bất động sản hoạt động, những biến động trong chính sách
lãi suất của NHNN tất yếu sẽ dẫn đến những biến động trên thị trường bất động sản. Lý
do cơ bản là để kiềm chế lạm phát nên NHNN nâng lãi suất lên để giảm cung tiền ra thị
trường, hệ quả đương nhiên là thị trường bất động sản thiếu vốn.
Bốn là, vai trò của lãi suất đối với thị trường tín dụng: Lãi suất là một cơng cụ kích
thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân. Lãi suất
cao khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế hy sinh tiêu dùng hiện tại, tiết kiệm nhiều
hơn để có khoản tiền cao hơn trong tương lai.
Năm là, vai trò của lãi suất đối với tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại
tệ được biểu hiện bằng đồng tiền quốc gia (đồng bản tệ), là một loại giá cả cũng giống
như bất kỳ một giá cả nào đó, chức năng kinh tế của nó là nhằm ảnh hưởng đến sự phân
bổ các nguồn tài nguyên. Lãi suất có tác động rất lớn đến tỷ giá hối đối, vì lãi suất là giá
cả th vốn trên TTTT. Sáu là, vai trò của lãi suất trong vấn đề kiềm chế lạm phát: Lãi
suất có vai trị trung tâm trong việc tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng cung ứng
tiền tệ. Khi mức cung ứng tiền tăng lên, nếu đem số tiền nhàn rỗi cho vay, đầu tư thì lãi

suất sẽ hạ xuống. Như vậy, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thối, trì trệ, NHNN có
thể hạ lãi suất nhằm tăng cung ứng tiền và kích cầu để phát triển kinh tế vượt qua giai
đoạn suy thoái. Khi lãi suất giảm, giá thành đầu tư giảm theo, các DN lại tăng đầu tư, nhu
cầu đầu tư và tiêu dùng tăng lên, lãi suất lại tăng lên. Do đó, khi nền kinh tế rơi vào tình
12


trạng lạm phát cao ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội, NHNN có thể nâng lãi suất lên
nhằm hạn chế và rút bớt cung tiền góp phần giảm tỷ lệ lạm phát.
1.2. Khái quát pháp luật về lãi suất
1.2.1. Khái niệm pháp luật về lãi suất
Lãi suất là thuật ngữ được đề cập trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Tuy nhiên, trong tất cả các văn bản có liên quan đến lãi suất đều khơng trực tiếp đưa ra
một định nghĩa cụ thể về lãi suất. Cụ thể:
- Theo từ điển Luật học: “Lãi suất là tỷ lệ phần trăm tính trên vốn đầu tư để xác định
lãi của người đầu tư”.3Và theo Quy định phương pháp tính và hạch tốn thu, trả lãi của
NHNN Việt Nam và các TCTD Ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN
ngày 17 tháng 5 năm 2001 của Thống đốc NHNN tại Khoản 1 Điều 2 thì: “Lãi được hiểu
là khoản tiền bên vay, huy động vốn hoặc bên thuê trả cho bên vay, đầu tư chứng khoán,
gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê.
Lãi được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất”. Thuật ngữ lãi
suất tiếp cận dưới góc độ pháp lý được hiểu theo từ điển Luật học, theo Quy định phương
pháp tính và hạch tốn thu, trả lãi của NHNN Việt Nam và các TCTD Ban hành kèm theo
Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN vừa nêu trên, chỉ xem xét lãi suất trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ của các TCTD với khách hàng; và cũng chỉ xem xét ở góc độ hoạt
động đầu tư của khách hàng vào các TCTD chứ chưa xem nó là yếu tố để duy trì tính ổn
định của nguồn vốn huy động và các khoản cho vay.
- Khoản 1 Điều 12 Luật NHNN Việt Nam số 46/2010/QH12 do Quốc Hội thông qua
ngày 16 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2011 quy định: “NHNN
công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành CSTT,

chống cho vay nặng lãi”.
- Điều 91 Luật các TCTD 2010 quy định về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh
của tổ chức tín dụng thì “Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai
mức lãi suất huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng”, “Tổ chức
tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng theo quy định của pháp luật”.
3

Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa và NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.452-453.

13


- Bộ luật dân sự 2005 quy định về lãi suất ở nhiều điều luật khác nhau. Ví dụ như Ðiều
305 quy định Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự “Trong trường hợp
bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
thanh toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Điều
476 quy định về lãi suất thì “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt
quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”
- Theo Điều 305 Luật thương mại 2005 quy định về Quyền địi tiền lãi do chậm thanh
tốn thì “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh
toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu
cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường tại thời điểm thanh tốn tương ứng với thời gian chậm trả”
- Theo Khoản 1 Điều 163 Luật hình sự 2009 quy định về Tội cho vay nặng lãi thì
“người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy
định từ mười lần trở lên có tính chất chun bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười
lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm”.

Rõ ràng thuật ngữ lãi suất đã được đề cập trong nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau
nhưng hầu như các văn bản pháp luật chưa đưa ra khái niệm cụ thể về lãi suất: Luật
NHNN chỉ mới đề cập mục đích của lãi suất trong quan hệ quản lý nhà nước về lãi suất
để điều hành CSTT, chống cho vay nặng lãi; Luật các TCTD chỉ quy định về quyền thỏa
thuận lãi suất, quyền ấn định lãi suất và trách nhiệm niêm yết lãi suất của NHTM trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ của các TCTD với khách hàng; Luật Dân sự dựa vào lãi suất
cơ bản của NHNN làm cơ sở để tính lãi đối với nghĩa vụ chậm trả, hoặc làm cơ sở để tính
mức lãi suất tối đa cho các thỏa thuận vay dân sự; Luật hình sự sử dụng lãi suất cơ bản để
làm cơ sở tính mức định lượng vật chất truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cho vay
nặng lãi. Chính vì vậy, khi nghiên cứu dưới góc độ pháp lý về lãi suất trong mối quan hệ
với thị trường tài chính thì cần hiểu rõ bản chất lãi suất dựa vào các chủ yếu như sau:
Một là, lãi suất là tỷ lệ phần trăm mà ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền tùy
theo thời gian gửi, và tiền lãi thu từ hoạt động cho vay cũng theo tỷ lệ phần trăm nhất
14


định theo thời gian. Về bản chất, đây là sự phân phối lại thật hợp lý giữa người có “của”
và người có “cơng” và tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức tín dụng với tồn bộ vốn gốc đã vay
mượn hay khoản tín dụng trong một thời gian nhất định.
Hai là, lãi suất ảnh hưởng lớn đến hoạt động gửi tiết kiệm và hoạt động vay vốn.
Ba là, lãi suất là hình thức đảm bảo an tồn giá trị đồng tiền cho những người có tiền
khi chuyển tiền thành tư bản cho vay, và lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu tiền tệ
trong nền kinh tế.
Bốn là, lãi suất có tác động chặt chẽ với cung cầu về tiền tệ, với lạm phát. Do đó, lãi
suất là một trong những công cụ quan trọng để điều tiết kinh tế vĩ mô, là cơ sở để đánh
giá tác động đến đầu tư và là cơ sở để phân bổ nguồn vốn.
Năm là, NHNN là chủ thể thực hiện CSTT quốc gia thông qua việc điều hành linh
hoạt công cụ lãi suất.
Khi chúng ta tiếp cận lãi suất bao gồm các nội dung như trên sẽ là cơ sở quan trọng để
nghiên cứu tính hiệu quả hoạt động điều hành lãi suất của NHNN, đưa ra các đề xuất về

điều hành lãi suất phù hợp với hoạt động ngân hàng và đảm bảo lợi ích của các chủ thể
tham gia trong quan hệ gửi tiền và vay vốn.
1.2.2. Chủ thể của quan hệ pháp luật về lãi suất
Trong hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ, chúng ta thấy tồn tại hai quan hệ pháp
luật liên quan đến lãi suất, đó là quan hệ quản lý nhà nước về lãi suất và quan hệ về kinh
doanh tiền tệ theo lãi suất. Đối với quan hệ quản lý nhà nước về lãi suất sẽ có hai chủ thể:
cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và các tổ chức tín dụng. Đối với quan hệ về kinh
doanh tiền tệ sẽ có hai chủ thể chủ yếu hình thành hai dạng quan hệ là quan hệ gửi tiền và
quan hệ vay tiền, cụ thể là các TCTD và người gửi hoặc vay tiền. Do đó, chủ thể của quan
hệ pháp luật về lãi xuất sẽ có các chủ thể sau:
1.2.2.1 Ngân hàng Nhà nước
Phần lớn luật về ngân hàng của các quốc gia đều đưa ra khái niệm về ngân hàng nhà
nước hoặc thông qua những quy phạm pháp luật xác định đặc điểm, chức năng để thể
hiện khái niệm về ngân hàng nhà nước. Một cách chung nhất, ngân hàng nhà nước được
hình dung như sau:
15


-Ngân hàng nhà nước là một cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
-Ngân hàng nhà nước là một định chế hành chính thực hiện chức năng cung ứng các
dịch vụ ngân hàng cho chính phủ và cho hệ thống các tổ chức tín dụng.
-Ngân hàng trung ương khơng lấy mục đích lợi nhuận làm hàng đầu.
-Ngân hàng trung ương là cầu nối giữa chính phủ với nền kinh tế, giữa thị trường tài
chính, tiền tệ trong nước và ngồi nước, các tổ chức tài chính quốc tế.
Luật Ngân hàng NNVN 2010 không đưa ra khái niệm Ngân hàng nhà nước Việt Nam
mà tại Điều 2 Luật NHNN VN 2010 chỉ chỉ ra vị trí và chức năng của NHNN Việt Nam
như sau:
“1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ
quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam.
2. Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có
trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.
3. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động
ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của
Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung
ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.”
Từ vị trí, chức năng của NHNN VN, chúng ta có thể đặc trưng của NHNN VN như
sau:
- NHNNVN Cơ quan quản lý nhà nước. NHNNVN là cơ quan ngang bộ, trực thuộc
Chính Phủ, Thống đốc NHNNVN mang hàm Bộ trưởng. NHNNVN được tổ chức và hoạt
động theo những qui định tại các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động
của Chính phủ. Qui trình bổ nhiệm, miễn nhiệm Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt
Nam theo các qui định pháp luật hiện hành trong Luật Tổ chức Quốc Hội và Luật tổ chức
Chính Phủ.
-NHNNVN quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Với tư
cách là cơ quan quản lý nhà nước, NHNNVN sử dụng các phương thức và cơng cụ quản
lý khi thực thi nhiệm vụ của mình,
16


-Ngân hàng nhà nước Việt Nam là Ngân hàng trung ương. Đây là điểm khác biệt giữa
NHNNVN với các Bộ khác trong Chính Phủ. Ngân hàng nhà nước Việt Nam còn là một
Ngân hàng. Ngân hàng này thực hiện một số hoạt động ngân hàng đặc biệt, bao gồm:
hoạt động độc quyền phát hành tiền; cung ứng các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho Chính
phủ và cho các tổ chức tín dụng.
-Về mặt dân sự, NHNN Việt Nam là một pháp nhân. NHNN Việt Nam có vốn pháp
định thuộc sở hữu nhà nước, Thủ tướng Chính phủ qui định mức vốn pháp định của
NHNN Việt Nam phù hợp trong từng thời kỳ. NHNN Việt Nam hoạt động theo nguyên
tắc Chênh lệch thu, chi hàng năm của Ngân hàng Nhà nước được xác định từ nguồn thu

về hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các nguồn thu khác, sau khi trừ chi phí hoạt động
và khoản dự phịng rủi ro. Ngân hàng Nhà nước trích từ chênh lệch thu, chi để lập quỹ
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ; số cịn lại phải nộp
vào ngân sách nhà nước.
1.2.2.2. Tổ chức tín dụng
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì khái niệm TCTD được
hiểu như sau:
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động
ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức
tài chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân”.
Qua khái niệm về TCTD, chúng ta thấy:
- Thứ nhất, TCTD bao gồm:
+ Ngân hàng. Theo Khoản 2 Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì Ngân hàng là loại hình
tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của
Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã. Cũng theo Khoản 3 Điều
4 Luật các TCTD 2010 thì điểm khác biệt giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng
chính sách, Ngân hàng hợp tác xã là mục tiêu lợi nhuận. Nghĩa là Ngân hàng thương mại
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo
quy định của Luật các TCTD 2010 nhằm mục tiêu lợi nhuận.
17


+ Tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Theo Khoản 4 Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc
một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ các hoạt động nhận tiền gửi
của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Tổ chức
tín dụng phi ngân hàng bao gồm cơng ty tài chính, cơng ty cho th tài chính và các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng khác. Trong đó, Cơng ty cho th tài chính là loại hình cơng
ty tài chính có hoạt động chính là cho th tài chính theo quy định của Luật này.

+ Tổ chức tài chính vi mô, theo Khoản 5 Điều 4 Luật các TCTD 2010, là loại hình tổ
chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của
các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
+ Quỹ tín dụng nhân dân, theo Khoản 6 Điều 4 Luật các TCTD 2010, là tổ chức tín
dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp
tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này và Luật hợp
tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời
sống.
- Thứ hai, Hoạt động của các TCTD, theo Khoản 12 Điều 4 Luật các TCTD 2010, là
hoạt động ngân hàng bao gồm việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số
các nghiệp vụ cụ thể:
+ Nhận tiền gửi, theo Khoản 13 Điều 4 Luật các TCTD 2010, là hoạt động nhận tiền
của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi
khác theo ngun tắc có hồn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
+ Cấp tín dụng, theo Khoản 14 Điều 4 Luật các TCTD 2010, là việc thỏa thuận để tổ
chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền
theo ngun tắc có hồn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
c) Cung ứng dịch vụ thanh tốn qua tài khoản, theo Khoản 15 Điều 4 Luật các TCTD
2010, là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh
chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ
thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
18


Như vậy, trong quan hệ quản lý nhà nước về lãi suất thì các TCTD sẽ đóng vai trị là
người thực hiện các quy định pháp lý liên quan đến lãi suất để nhằm tác động điều chỉnh
thị trường tiền tệ theo chính sách tiền tệ của NHNN và trong quan hệ kinh doanh tiền tệ
thì TCTD sẽ giữ vai trò là người thỏa thuận, điều phối mức lãi suất linh động trong khung

quy định của Nhà nước.
1.2.2.3. Người gửi và người vay tiền.
Quan hệ gửi tiền và vay tiền được hình thành theo hợp đồng mà trong đó một bên
quan hệ là các TCTD và bên còn lại là người gửi hoặc người vay tiền. Bản chất hợp đồng
tín dụng hay hợp đồng tiết kiệm là hợp đồng cho vay tài sản, do đó, thuật ngữ là người
gửi tiền hay người vay tiền sẽ tùy thuộc vào mối quan hệ sở hữu với khoản tiền cho vay
đó.
- Ngƣời gửi tiền, xét trong mối quan hệ hợp đồng tiền gửi, là chủ sở hữu của khoản
tiền gửi cho các TCTD theo thời hạn nhất định để thu về khoản tiền gốc và khoản tiền lãi
suất tương ứng với thời hạn gửi tiền và khoản tiền gửi.
- Ngƣời vay tiền, xét trong mối quan hệ hợp đồng tín dụng, là người được TCTD
giao cho một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định
theo thoả thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi.
Như vậy xem xét trong cả quan hệ tín dụng và quan hệ tiền gửi thì TCTD giữ vai trò
là người trung gian thiết lập mối quan hệ giữa người gửi tiền và người vay tiền, qua đó
tiền từ người gửi tiền sẽ được chuyển đến tay người cần tiền hay người vay tiền trong
một thời hạn nhất định theo thoả thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi. Trong
đó, người vay sẽ có nghĩa vụ trả tiền gốc và tiền lãi cho TCTD, đồng thời TCTD có nghĩa
vụ trả tiền gốc và tiền lãi cho người gửi tiền. Đây là hoạt động thương mại, do đó về bản
chất thì lãi suất tín dụng sẽ lớn hơn lãi suất tiền gửi và khoản chênh lệch về lãi suất được
xem là doanh thu kinh doanh của các TCTD. Cho nên, xét ở góc độ về hợp đồng tín dụng
và hợp đồng gửi tiền thì mối quan hệ tín dụng và mối quan hệ tiền gửi đều được xây dựng
trên sự thỏa thuận, bình đẳng; giữa các bên đều có quyền và lợi ích ngang nhau trong thị
trường tài chính tiền tệ.
1.2.3. Nội dung pháp luật về lãi suất
1.2.3.1 Điều hành lãi suất.
19


Hiện nay, thuật ngữ “điều hành lãi suất” được nhắc đến nhiều trong các văn bản pháp

lý hoặc chính sách điều tiết kinh tế vĩ mơ, tuy nhiên chưa có một văn bản nào đưa ra cách
hiểu khái quát về thuật ngữ này cũng như khái quát hình thức, cơ chế vận động của hoạt
động điều hành lãi suất trong ổn định CSTT quốc gia.
Theo từ điển Tiếng việt, Viện ngơn ngữ học, NXB Giáo dục – Hà Nội thì “điều hành
là điều khiển mọi bộ phận và quá trình hoạt động chung”.4
Xem xét về điều hành lãi suất của NHNN trong giai đoạn trước năm 1988 và giai
đoạn từ năm 1988 đến nay:
Bảng 1: Thống kê về quy định lãi suất của NHNN
trong giai đoạn từ trước năm 1988 và từ năm 1988 đến nay.

Quy định lãi suất bao cấp (trước năm 1988).

Lãi suất thời kỳ quản
lý nền kinh tế theo
phương thức kế hoạch
tập trung.

Quy định và thực thi theo lãi suất cố định
(từ năm 1988 đến tháng 5 năm 1992).
Quy định và điều hành theo khung lãi suất
(từ tháng 6 năm 1992 đến năm 1995).
Quy định và điều hành theo lãi suất trần
(từ năm 1996 đến tháng 7 năm 2000).
Quy định và điều hành theo lãi suất cơ bản + biên độ
(từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 5 năm 2002).
Quy định lãi suất thoả thuận
(từ tháng 6 năm 2002 đến ngày 18 tháng 5 năm 2008).
Quy định kiểm soát lãi suất

Lãi suất thời kỳ nền

kinh tế thị trường phát
triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của Nhà nước
(từ năm 1988 đến
nay).

(từ ngày 19 tháng 5 năm 2008 đến năm 2010).
Quy định lãi suất thỏa thuận có sự kiểm sốt
(từ năm 2010 đến nay).
4

Hồng Phê, Viện ngôn ngữ học (1994), Từ điển Tiếng việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.190.

20


Qua các giai đoạn, chúng ta thấy rằng trong từng giai đoạn cụ thể thì NHNN sẽ quy
định cụ thể về lãi suất và sẽ tiến hành thực hiện điều hành lãi suất theo từng giai đoạn
tương ứng. Đồng thời, qua các giai đoạn này, chúng ta cũng thấy NHNN thực hiện điều
hành lãi suất tác động đến nền kinh tế vĩ mơ theo các hình thức như sau:
Hình thức thứ nhất, quy định về lãi suất: được hiểu là phương thức vận động của lãi
suất trong hoạt động ngân hàng theo những quan hệ vốn có và được nhà nước quy định.
Nó phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế, với đặc điểm của chế độ xã hội
theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, thơng qua cách thức này một q trình điều
chỉnh về lãi suất trong hoạt động ngân hàng được thực hiện để đảm bảo mục tiêu CSTT
trong giai đoạn đó5. Căn cứ vào mức độ tác động của nhà nước, quy định về lãi suất được
phân thành ba loại như sau:
Một là, kiểm soát lãi suất: được tiến hành trên cơ sở chuyển tải ảnh hưởng của CSTT
tới nền kinh tế thông qua phản ứng dây chuyền giữa các mức lãi suất và giữa các loại giá

cả trên thị trường tài chính. Đây là cơ chế kiểm sốt sự biến động lãi suất của nền kinh tế
một cách gián tiếp mà theo đó CSTT có thể tác động tới nhu cầu tiền tệ thông qua những
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của lãi suất tới hành vi chi tiêu của các chủ thể kinh tế.
Hai là, tự do hóa lãi suất hoàn toàn: được tiến hành trên cơ sở nhà nước không ấn
định các mức lãi suất, đồng thời cũng không khống chế lãi suất mà để lãi suất hình thành
theo cơ chế thị trường, các ngân hàng được quyền xác định và công bố lãi suất kinh
doanh của mình để áp dụng trong việc huy động vốn và cho vay.
Ba là, tự do hóa lãi suất có quản lý: được tiến hành trên cơ sở nhà nước tham gia can
thiệp gián tiếp mang tính chất định hướng, xác định thơng qua các cơng cụ tài chính để
thực hiện CSTT. Lãi suất vẫn hình thành theo cơ chế thị trường và các ngân hàng được
quyền xác định và công bố lãi suất kinh doanh của mình để áp dụng trong việc huy động
vốn cho vay nhưng khi có sự biến động lớn trên thị trường tài chính thì nhà nước sẽ can
thiệp trực tiếp vào lãi suất để nhằm ổn định nền kinh tế của đất nước. Hiện nay, trong
công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thị trường
tài chính Việt Nam vẫn cịn những hạn chế nhất định, để có nguồn vốn phù hợp với sự
5

Xemtại: />
29yZD1jJWM2JWExK2NoJWUxJWJhJWJm&page=1

21


vận động của quy luật kinh tế, quy luật xã hội, nhà nước ta thực hiện cơ chế tư do hóa lãi
suất có sự quản lý của nhà nước nhằm hạn chế những yếu tố tiêu cực tác động làm lũng
đoạn TTTT.
Hình thức thứ hai, quy định về kiểm tra giám sát: được hiểu là phương thức tổ chức
về con người, bộ máy và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ quy định về lãi suất của các TCTD. Từ đó, đưa ra các đề xuất phù
hợp để khắc phục, hoàn thiện quy định về lãi suất. Kiểm tra giám sát là cơ sở để xác định

lực lượng, phương pháp, hình thức, nội dung và mục đích kiểm tra giám sát đối với
TCTD trong điều hành lãi suất của NHNN.
Hình thức thứ ba, quy định về điều chỉnh pháp luật: hệ thống các biện pháp mà pháp
luật tác động đến quan hệ xã hội, bao gồm toàn bộ những mối quan hệ tác động lẫn nhau
giữa các bộ phận cấu thành: chủ thể pháp luật, quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lí.
Thơng qua đó, các bộ phận cấu thành của quá trình điều chỉnh pháp luật liên kết với nhau
trong quan hệ pháp luật cụ thể với những quyền và nghĩa vụ nhất định. Nếu pháp luật là
một hiện tượng tĩnh, thì điều chỉnh pháp luật là một trạng thái động, cho phép thấy rõ các
quan hệ pháp luật được hình thành và được thực hiện như thế nào.6 Điều chỉnh pháp luật
là cơ sở pháp lý cho việc phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động
điều hành lãi suất của NHNN.
Như vậy, từ hoạt động điều hành lãi suất của NHNN trong giai đoạn trước năm 1988
và giai đoạn từ năm 1988 đến nay, tác giả hiểu tổng quát về thuật ngữ điều hành lãi suất
phù hợp với việc nghiên cứu của đề tài như sau: “Điều hành lãi suất là hoạt động sử
dụng công cụ lãi suất của NHNN trên cơ sở ban hành các quy định về lãi suất thực hiện
trong TTTT, quan hệ tín dụng, tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện theo cơ chế tác
động tương ứng đã được thống nhất về mặt chủ trương và chính sách nhằm kiểm sốt và
điều tiết lãi suất trên TTTT, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định”.
1.2.3.2 Các loại lãi suất để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia

6

Xem tại:

/>jJWM2JWExK2NoJWUxJWJhJWJm&page=1

22


CSTT là chính sách do NHNN thực thi trên cơ sở tăng hay giảm khối tiền tệ tùy theo

tình hình kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Khoản 1 Điều 3 Luật NHNN
Việt Nam 2010 xác định: “CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền
biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực
hiện mục tiêu đề ra”.
Trong nền kinh tế, nếu tiền nhiều hơn hàng hóa thì đồng tiền giảm giá, giá trị hàng
hóa gia tăng dẫn đến lạm phát. Nếu tiền khan hiếm đến mức không cung cấp đủ cho các
nhu cầu về thanh tốn cần thiết, thì nền kinh tế sẽ lâm vào tình trạng giảm phát vì hàng
hóa nhiều hơn tiền, cung thấp hơn cầu. Giá trị của tiền lúc này tăng lên bởi giá cả của
hàng hóa giảm đi, điều này sẽ nguy hiểm hơn cho nền kinh tế, làm đình trệ nền kinh tế,
đình trệ các quan hệ sản xuất. Điều đó, sẽ làm cho giới sản xuất kinh doanh mất lời và họ
sẽ thu hẹp sức sản xuất, hệ quả là sản lượng hàng hóa sẽ suy giảm, kết quả cuối cùng nền
kinh tế trở nên trì trệ, suy thối. Có thể thấy rằng, mấu chốt cơ bản của CSTT quốc gia là
việc định lượng mức cung ứng tiền cho mỗi thời kỳ của nền kinh tế. Mục đích của CSTT
là ổn định giá trị đồng tiền để nền kinh tế phát triển bình ổn, sẽ kiềm chế tình trạng giảm
phát và lạm phát, mục đích này giải quyết vấn đề bình ổn điều kiện kinh tế xã hội, chính
trị. Để giải quyết vấn đề đó, thì NHNN thơng qua việc chi phối, điều tiết hoạt động bơm
rút tiền nhằm tác động vào quá trình lưu thông tiền tệ và khối lượng tiền trong lưu thông.
CSTT biến đổi phụ thuộc vào tình hình kinh tế. Khi tình hình kinh tế ở giai đoạn giảm
phát thì cần CSTT nới rộng, mở rộng sản xuất bằng cách bơm tiền vào lưu thơng, hỗ trợ
bằng tỉ giá, khuyến khích đầu tư. Ngược lại, khi nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát thì cần
phải thắt chặt CSTT nhằm hạn chế đầu tư, kiềm chế sự gia tăng quá nhanh giá trị của
hàng hóa làm mất giá đồng tiền. Để thực hiện việc điều hành CSTT quốc gia, NHNN có
quyền lựa chọn sử dụng các cơng cụ tài chính trong số các công cụ: tái cấp vốn, lãi suất,
tỉ giá hối đoái, dự trự bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ biện pháp khác
theo quy định của Chính phủ. Mỗi một cơng cụ tài chính đều có vai trị nhất định trong
việc điều hành CSTT quốc gia của NHNN, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tác giả
chỉ phân tích cơng cụ lãi suất dựa vào các loại lãi suất cụ thể như sau:
- Lãi suất cơ bản
23



Lãi suất cơ bản là một công cụ để NHNN điều hành CSTT linh hoạt trong từng thời
kỳ, đặt trong mối liên hệ với lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, trên thị trường mở,
lãi suất huy động của các NHTM và trạng thái cung cầu vốn trên thị trường. Lãi suất cơ
bản là lãi suất bình quân của các giao dịch về vốn trên TTTT. Lãi suất cơ bản là một loại
lãi suất tham khảo để các giao dịch về vốn trên TTTT khơng bị “hớ”, tránh tình trạng q
cao hoặc q thấp, nhìn chung nó thay đổi chậm hơn các lãi suất khác, do đó nằm trong
tầm kiểm sốt của các NHTM. Nó là điểm dung hịa một cách tự nhiên lợi ích của người
gửi tiền, của người vay tiền và của các ngân hàng. Thông thường, lãi suất cơ bản được
công bố vào thời điểm cuối tháng để áp dụng cho tháng tiếp theo.
Theo Luật NHNN Việt Nam 1997 và Luật NHNN Việt Nam sửa đổi năm 2003 quy
định tại Khoản 12 Điều 9: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho
các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh”. Khi Luật NHNN Việt Nam 2010 có hiệu lực
ngày 01 tháng 01 năm 2011, tuy không trực tiếp định nghĩa về lãi suất cơ bản nhưng có
sự thay đổi về nội hàm của lãi suất cơ bản, theo hướng lãi suất cơ bản không phải là cơ sở
để cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh, mà là cơ sở cho việc phòng chống cho vay
nặng lãi trong nền kinh tế. Như vậy, lãi suất cơ bản theo Luật NHNN Việt Nam 2010,
không công bố “trước” để định hướng lãi suất thị trường, mà thực hiện cơ chế công bố
“sau” về lãi suất đã được hình thành trên thị trường của các TCTD để làm cơ sở cho việc
phòng, chống nạn cho vay nặng lãi.
Lãi suất cơ bản thường được hình thành khác nhau tùy theo từng nước, nó có thể do
NHTW ấn định (ví dụ ở Nhật: là mức lãi suất cho vay thấp nhất), hoặc có thể do bản thân
các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (ví
dụ ở Mỹ, Anh, Úc) và đó là mức lãi suất được áp dụng cho các khách hàng có mức rủi ro
thấp nhất. Một số nước lại sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản (như ở
Singapore, Pháp), vì thực chất lãi suất cơ bản của các ngân hàng rất gần với mức lãi suất
thị trường liên ngân hàng. Mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều
hình thành trên cơ sở thị trường và đó là mức lãi suất tối thiểu bù đắp được lãi suất cho
vay và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với các đối tượng có


24


×