Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh lai châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.52 KB, 99 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ILO
UBND
CEDAW

Tổ chức Lao động Quốc tế
Ủy ban nhân dân

Cơng ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá
nhân, xã hội và mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát
triển có lực lượng lao động dồi dào như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho
người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng
để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành
thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu
vực và thế giới. Đối với mỗi cá nhân để tìm được cơng việc ổn định và phù hợp
ln khó khăn, đặc biệt đối với lao động nữ bởi họ ngoài chức năng lao động,
lao động nữ còn thực hiện thiên chức sinh đẻ và ni con; cơ thể người phụ nữ
khơng có cấu trúc để chịu đựng những tác động lớn, mạnh mẽ và rất dễ bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố độc hại, nguy hiểm. Do có những đặc điểm riêng biệt này
mà lao động nữ gặp khó khăn hơn so với lao động nam về tìm kiếm việc làm,
tính ổn định và bảo đảm thu nhập. Hơn nữa, cũng do thực hiện thiên chức nên
lao động nữ cần thiết phải được bảo vệ khi tham gia quan hệ lao động, tránh
những ảnh hưởng có hại từ mơi trường lao động đến chức năng sinh đẻ và ni


con của họ, hay nói cách khác ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất mở rộng lực
lượng lao động.
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã rất nỗ lực nội luật hóa các quy định
của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các quy định, các điều ước quốc tế về
quyền con người vào các văn bản quy phạm pháp luật trong nước như Bộ luật
Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Bình đẳng giới, Luật Hơn nhân và gia đình…
nhưng thực tế tình trạng phân biệt đối xử đối với lao động nữ vẫn tồn tại và việc
bảo đảm, bảo vệ quyền của lao động nữ vẫn chưa hiệu quả. Thực tiễn thi hành
pháp luật lao động đã cho thấy, sự gia tăng nhu cầu sử dụng lao động và tăng thu
nhập cho người lao động không đồng nhất với với sự bảo đảm quyền lợi của
người lao động. Do những đặc điểm về tâm sinh lý, giới tính, lao động nữ
thường gặp khó khăn hơn so với lao động nam trong quan hệ lao động. Cùng với
2


quan niệm sai lệch về giới làm cho lao động nữ trở thành đối tượng dễ bị tổn
thương hơn. Hơn nữa, với đặc thù về giới và sự tồn tại của quan niệm “trọng
nam khinh nữ” vẫn còn hiện hữu, lao động nữ ở Việt Nam vẫn gặp nhiều thách
thức, quyền và lợi ích hợp pháp chưa được đảm bảo đầy đủ, không đồng đều
giữa các địa bàn trên cả nước.
Tỉnh Lai Châu được thành lập theo Nghị quyết số 22/2003/QH11, ngày
01/01/2004 trên cơ sở chia tách tỉnh Lai Châu (cũ) và sáp nhập huyện Than
Uyên, tỉnh Lào Cai; là tỉnh miền núi, đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Vân
Nam (Trung Quốc), có vị trí chiến lược về an ninh, quốc phịng. Tồn Tỉnh hiện
có dân số trên 40 vạn người với 20 dân tộc anh em sinh sống. Tính đến cuối năm
2016, tỷ lệ hộ nghèo tồn tỉnh Lai Châu vẫn còn khá cao, chiếm 36,51%. Với
đặc thù về địa hình và tập trung đơng đồng bào dân tộc thiểu số, 80% lao động
của tỉnh làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp với năng suất thấp. Tỷ lệ lao động
qua đào tạo về chun mơn kỹ thuật cịn thấp, chiếm 42,8%. Trong số đó tỷ lệ
lao động nữ chiếm hơn 50% lao động của toàn Tỉnh và chủ yếu tập trung trong

lĩnh vực nông nghiệp, chưa qua đào tạo chuyên môn, đào tạo nghề.
Hơn nữa, do tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số với nhiều quan
niệm đã trở nên khơng cịn phù hợp, đánh giá thấp vị trí và vai trị của người phụ
nữ nên tỷ lệ thất nghiệp ở lao động nữ vẫn ở mức cao. Chính vì vậy, giải quyết
việc làm cho lao động nữ trên địa bàn Tỉnh vẫn là vấn đề bức xúc. Mặc dù
Chính quyền tỉnh Lai Châu đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm triển khai các
quy định của pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ song còn bộc lộ
nhiều tồn tại, hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả và đảm bảo được quyền làm
việc bình đẳng của lao động nữ. Nhiều quy định mới về chính sách giải quyết
việc làm cho lao động nữ tại địa bàn Tỉnh tuy đã được ban hành kịp thời nhưng
chưa được triển khai một cách hợp lý, thiếu tính khả thi, do đó chưa đi vào thực
tiễn đời sống.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc giải quyết việc làm
cho lao động nữ đã có nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này, nhưng hiện nay chưa
3


có cơng trình nghiên cứu khoa học nào khái lược một cách hệ thống, cơ bản về
pháp luật giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Việc
nghiên cứu những bất cập, tồn tại, vướng mắc trong quy định của pháp luật và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Lai Châu để hoàn thiện pháp luật lao động,
khơng những có ý nghĩa lý luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, có tính cấp
thiết đối với việc phát triển thị trường lao động việc làm ở Lai Châu nói riêng
và ở Việt Nam nói chung, thơng qua đó thúc đẩy sự phát triển tồn diện về kinh tế
- văn hóa – xã hội trên địa bàn Tỉnh.
Vì những lý do nói trên, tôi đã chọn đề tài "Thực hiện pháp luật về giải
quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu" để nghiên cứu
trong luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề pháp luật về giải quyết việc làm cho

lao động nữ nói riêng và pháp luật về việc làm, giải quyết việc làm nói chung,
đã thu hút được khơng ít sự quan tâm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu,
viện khoa học, trường đại học…Đã có nhiều cơng trình khoa học được cơng bố
trên sách, báo, tạp chí, cụ thể như: Nolwen.Hennaff.Jean-Yves.Martin (biên tập
khoa học): Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới Nxb Thế giới, Hà nội 2001; “Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh
tế ở Việt Nam” (1999) của GS. Lê Thi; “Quyền lao động nữ Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới” (2000) của Trung tâm nghiên cứu khoa học nữ; “Địa vị pháp
lý của lao động nữ theo Bộ luật Lao động”(1999) của Luật gia Lê Thị Châu, Lê
Thị Phúc; “Hoàn thiện, thực thi pháp luật về lao động nữ trong doanh nghiệp
ngồi Nhà nước”(2005) do TS. Nguyễn Hữu Chí (chủ biên); PGS. Nguyễn Hữu
Dũng - PTS. Trần Hữu Trung (chủ biên): Về chính sách giải quyết việc làm ở
Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997…
Một số sinh viên cũng đã chọn đề tài về việc làm, giải quyết việc làm cho
lao động nữ làm khóa luận tốt nghiệp như: Đồn Thị Hà (2014),“Giải quyết
việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Quảng Bình” Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại
4


học Đà Nẵng; Lưu Thị Bích Ngọc (2011), “Giải quyết việc làm cho lao động
nữ ở tỉnh Quảng Nam” Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Đà Nẵng; Nghiêm
Thị Hồng Vân (2007), “Việc làm đối với lao động nữ trong các doanh nghiệp ở
Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Hoàn thiện pháp luật về quyền lao động nữ ở Việt Nam hiện nay” Luận văn
Thạc sỹ Luật học năm 2000 của Dương Thị Ngọc Lan, Khoa luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Nhìn chung, các bài viết và các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến
một số vấn đề liên quan đến Đề tài luận văn, tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có
cơng trình chun biệt nào đề cập một cách cụ thể và đi sâu vào vấn đề giải
quyết việc làm đối với lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Vấn đề này chỉ
được điểm qua với tư cách là một quyền cơ bản của lao động nữ trong việc

nghiên cứu nội dung các chế định về quyền lao động nữ. Bên cạnh đó, cũng có
một số bài viết trong các tạp chí chuyên ngành đề cập đến vấn đề việc làm đối
với lao động nữ nhằm làm rõ một số quy định của pháp luật, song do phạm vi
có hạn nên các bài viết chưa đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện từ phương diện lý luận đến thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết việc làm
trên phạm vi tỉnh. Bên cạnh đó, các cơng trình nghiên cứu cũng chưa đưa ra
được tồn tại, vướng mắc trên thực tiễn để từ đó đưa ra giải pháp hồn thiện,
nâng cao hiệu quả pháp luật về giải quyết việc làm đối với lao động nữ trên địa
bàn tỉnh Lai Châu.
Để đáp ứng được u cầu trên địi hỏi phải có nhiều hơn các cơng trình
nghiên cứu chun sâu. Do vậy, với đề tài “Thực hiện pháp luật về giải quyết
việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu”, người viết mong
muốn trong một phạm vi nhất định sẽ đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về
giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu, qua đó, đưa ra
những giải pháp hồn thiện các quy định pháp luật, chính sách pháp luật liên
quan, góp phần giải quyết việc làm cho lao động nữ nói riêng và người lao động
trên địa bảnTỉnh nói chung nhằm mục tiêu xây dựng kinh tế - xã hội tỉnh Lai
5


Châu ngày một phát triển.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
về giải quyết việc làm cho lao động nữ, Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng
giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Lai Châu. Từ đó, đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường giải quyết việc làm cho lao động nữ ở Lai Châu, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Tỉnh.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về giải quyết việc làm, pháp
luật về giải quyết việc làm đối với lao động nữ.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết việc làm cho lao
động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện các quy định pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động
nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
4. Tính mới và ý nghĩa của luận văn
Luận văn nghiên cứu, đánh giá tồn diện về tình hình thực hiện pháp luật
về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Cách tiếp
cận và hướng nghiên cứu của Luận văn theo định hướng ứng dụng có những
đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về giải
quyết việc làm cho lao động nữ, nhất là lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Về mặt lý luận: Làm rõ hơn cơ sở lý luận và rút ra những bài học kinh
nghiệm thực tiễn về giải quyết việc làm cho lao động nữ.
Về mặt thực tiễn: Qua phân tích thực trạng của vấn đề pháp lý và thực tiễn
trong việc giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu, Luận
văn đưa ra các đề xuất kiến nghị để hoàn thiện cơ sở chính sách pháp luật, góp
6


phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu quả trong
tổ chức triển khai hoạt động giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn
tỉnh Lai Châu hiện nay. Hơn nữa kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu
phục vụ và nghiên cứu cho sinh viên, học sinh. Kết quả nghiên cứu cũng có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, những nhà hoạch định
chính sách và những ai quan tâm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động về

giải quyết việc làm cho lao động nữ trong các văn bản quy phạm pháp luật của
nhà nước Việt Nam và việc áp dụng các quy định này trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong giới hạn phạm vi như sau:
- Về không gian: Nghiên cứu các quy định pháp luật về giải quyết việc
làm cho lao động nữ và việc áp dụng các quy định này trên địa bàn tỉnh Lai
Châu
- Về thời gian: Thời gian nghiên cứu chủ yếu tại thời điểm sau khi ban
hành Bộ Luật lao động năm 2012.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Thu thập tài liệu để nghiên cứu, phân tích và tham khảo thơng tin, trên
cơ sở kế thừa các thành quả nghiên cứu trước đây;
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu để làm
sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu;
- Bên cạnh đó, đề tài cũng được nghiên cứu thơng qua phương pháp bình
luận, tổng hợp và so sánh khi
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
7


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết việc làm cho lao
động nữ.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về giải quyết việc làm cho lao
động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Lai Châu


8


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ
1.1.

Một số khái niệm có liên quan tới pháp luật giải quyết việc làm cho
lao động nữ

1.1.1. Việc làm, giải quyết việc làm
1.1.1.2. Việc làm
*Khái niệm:
Có thể nói, việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh
tế, xã hội và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời
sống xã hội. Quan niệm về việc làm khơng cố định mà nó được xét trên nền tảng
của một chế độ chính trị, gắn với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã
hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại [7, tr.7]. Ví dụ: Việc làm là sự tham gia của
người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong cơng việc nội
trợ, hay trong kinh tế phụ của các nông trang viên (theo Tiến sỹ Sơnhin và phó
tiến sỹ Grin- xốp); hay việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong
đó có sự trả cơng bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực có tính
chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất (Giăng - Mu - Li, Phó cố vấn kinh
tế của văn phịng lao động quốc tế).
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) tuy chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về việc làm nhưng đã đưa ra
quan niệm về người có việc làm như sau: "Người có việc làm là những người
làm một việc gì đó, có được trả tiền cơng, lợi nhuận hoặc được thanh toán
bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất
tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, khơng nhận được tiền cơng

hay hiện vật" [7, tr.47]. Gần đây nhất, năm 2005, Tổ chức Lao động quốc tế đã
đưa vào Từ điển chuyên ngành khái niệm “việc làm”. Theo đó, “việc làm là
một cơng việc được trả công. Việc làm cũng đề cập đến số người tự tạo việc
làm và tham gia làm việc để được trả công” [2]. Đây là khái niệm ngắn gọn,
chỉ chung chung đến những công việc do cá nhân thực hiện cho chính bản thân
9


hoặc cho chủ thể khác để được trả công.
Như vậy, người có việc làm bao gồm những người lao động ở tất cả các
khu vực (cơng và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân, gia đình và
xã hội. Đây là một khái niệm mềm dẻo phù hợp với nền kinh tế thị trường, phù
hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Do đó, khái niệm này đã được áp dụng ở
nhiều nước trên thế giới.
Ở nước ta, thời kỳ trước đổi mới, khái niệm "việc làm" chưa được hiểu
đúng. Khái niệm việc làm chỉ bó hẹp trong phạm vi những gì mà pháp luật cho
phép. Trong giai đoạn này, chỉ những người trong biên chế Nhà nước hoặc là
xã viên hợp tác xã mới được coi là có việc làm nghiêm chỉnh. Do đó, tạo ra sự
phát triển không đồng đều giữa kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, tác động tiêu
cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm mai một khá nhiều
nguồn công việc làm trong xã hội, đưa vấn đề giải quyết việc làm đến chỗ khó
khăn, bế tắc.
Kể từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, theo đó quan
niệm về việc làm và vấn đề liên quan như thất nghiệp, chính sách giải quyết
việc làm đã có những thay đổi cơ bản. Điều 55 Hiến Pháp năm 1992 quy định:
“Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế
hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động” [27]. Từ quan niệm
này đã mở ra bước chuyển căn bản trong nhận thức về việc làm. Điều 33 Hiến
pháp năm 2013 quy định kế thừa và làm rõ hơn nội dung: "1.Cơng dân có
quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc" đồng thời

"Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho
người lao động" (khoản 1 Điều 57 Hiến pháp năm 2013) [31].
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các Bộ Luật chuyên ngành đã đưa ra
những quy định nhằm cụ thể hóa trong từng lĩnh vực. Bộ luật Lao động Việt
Nam năm 1994 lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm việc làm “Mọi hoạt động lao
động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
10


việc làm" (Điều 13) [30]. Cùng nội dung như vậy nhưng Bộ luật Lao động năm
2012 đã có cách quy định rõ ràng hơn thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập
pháp: "Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật
cấm" (khoản 1 Điều 9).
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, việc làm trước hết phải là “hoạt động lao
động”, thể hiện sự tác động của sức lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản
phẩm hoặc dịch vụ. Yếu tố lao động trong việc làm phải có tính hệ thống, tính
thường xuyên và tính nghề nghiệp.
Đồng thời, một hoạt động được coi là "việc làm" phải đáp ứng hai điều
kiện sau:
- Tạo ra thu nhập: Hoạt động phải có ích và tạo ra thu nhập trực tiếp cho
người lao động.
- Hoạt động này phải hợp pháp: Đây là dấu hiệu thể hiện đặc trưng tính
pháp lí của việc làm. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí
chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm, hoặc tạo ra việc làm cho người
khác trong khuôn khổ pháp luật, không bị phân biệt đối xử trong các thành
phần kinh tế.
Tuy nhiên, khái niệm "việc làm" còn tùy thuộc vào quy định của luật
pháp và, từng thời kỳ. Có hoạt động được thừa nhận là việc làm ở quốc gia này
nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở quốc gia khác (Ví dụ: Hoạt
động mại dâm được coi là việc làm hợp pháp ở Thái Lan, Philippines nhưng ở

Việt Nam lại không được thừa nhận, bị xử phạt vi phạm hành chính và có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự).
*Vai trị của việc làm:
Việc làm có vai trị quan trọng trong đời sống xã hội, nó khơng thể thiếu
đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt
trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó
chi phối tồn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Đối với cá nhân, có việc
11


làm đồng nghĩa với việc có thu nhập để ni sống bản thân, ảnh hưởng trực
tiếp và chi phối toàn bộ đời sống cá nhân. Đối với kinh tế thì việc đảm bảo cho
người lao động có việc làm tạo ra động lực thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển
bền vững, mối quan hệ song trùng lợi ích được đảm bảo giữa việc làm của cá
nhân với sự phát triển của kinh tế xã hội. Vai trò của việc làm đối với từng cá
nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc
làm của tồn xã hội địi hỏi Nhà nước phải có những chiến lược, kế hoạch cụ
thể đáp ứng được nhu cầu này.
*Phân loại việc làm:
Tùy theo các mục đích nghiên cứu khác nhau mà người ta phân chia
việc làm ra thành nhiều loại.
Theo mức độ sử dụng thời gian làm việc, có việc làm chính và việc làm
phụ. Việc làm chính là cơng việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian
nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác. Việc làm phụ là công
việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian nhất sau cơng việc chính.
Ngồi ra, việc làm cịn có thể chia thành việc làm toàn thời gian, bán
thời gian, việc làm thêm [24].
- Việc làm tồn thời gian: Chỉ một cơng việc làm 8 tiếng mỗi ngày, hoặc
theo giờ hành chính 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày trong tuần.
- Việc làm bán thời gian: Mô tả công việc làm không đủ thời gian giờ

hành chính quy định của Nhà nước 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày mỗi tuần. Thời
gian làm việc có thể dao động từ 0.5 đến 5 tiếng mỗi ngày và không liên tục.
- Việc làm thêm: Mơ tả một cơng việc khơng chính thức, khơng thường
xun bên cạnh một cơng việc chính thức và ổn định.
Trong thời kỳ hội nhập và tồn cầu hóa hiện nay, Tổ chức lao động quốc
tế (ILO) còn khuyến cáo và đề cập tới việc làm nhân văn hay việc làm bền
vững.
12


1.1.1.2. Giải quyết việc làm
*Khái niệm:
Cùng với việc làm, giải quyết việc làm là vấn đề quan trọng, liên quan
tới nhiều bình diện chính trị - pháp lý, kinh tế - xã hội và là nhiệm vụ chiến
lược lâu dài của mỗi quốc gia. Ở phạm vi khái quát nhất, giải quyết việc làm
cho người lao động có thể hiểu là: Giải quyết việc làm cho người lao động là
tổng thể những chính sách, biện pháp nhằm tạo ra việc làm phù hợp và nâng
cao hiệu quả lao động cho người lao động. Từ đó, có thể thấy khái niệm giải
quyết việc làm bao gồm những nội hàm sau:
- Giải quyết việc làm được thực hiện bằng tổng thể các chính sách, biện
pháp kinh tế - văn hóa - xã hội được đề ra phù hợp với tình hình phát triển của
đất nước trong từng thời kỳ. Hay nói cách khác, tại mỗi thời kỳ, Nhà nước căn
cứ vào các điều kiện khách quan và chủ quan để đề ra chính sách việc làm đảm
bảo cho mọi người có khả năng lao động có việc làm. Đó là sự tác động giữa
chủ thể xã hội và người lao động nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng lao
động, đem lại việc làm đầy đủ và hợp lý nhằm nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người lao động.
Quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của công tác giải quyết việc làm,
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định "Giải quyết việc làm là một trong những
chính sách cơ bản của quôc gia" [. tr.201]. Vấn đề giải quyết việc làm luôn

được Đảng và Nhà nước xác định là nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất nước
trong các giai đoạn. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng đã quy định: "Tập
trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân" [14]; Báo cáo đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 tiếp tục quy
định: “Tập trung làm tốt công tác nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, giải
13


quyết việc làm, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh, trật tự
và bảo vệ môi trường” [15]. Trên cơ sở đó, Bộ luật Lao động năm 2012 đã thể
chế hóa chủ trương đó của Đảng trong quy định: "Nhà nước, người sử dụng
lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội việc làm" (Điều 9 Bộ luật Lao
động năm 2012) [29]; Hơn nữa, để chính sách việc làm đi vào thực tiễn cần sự
giúp sức và vào cuộc của tổ chức xã hội và quan trọng hơn hết là nhận thức và
quyết tâm của người lao động.
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách kinh
tế và các chính sách xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ với các
chính sách như: Chính sách dân số; chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách
cơ cấu kinh tế, chính sách cơng nghệ. Có thể đưa ra một số ví dụ như sau: Giáo
dục đào tạo tốt thì cơ hội việc làm tăng; giảm tốc độ tăng dân số sẽ khắc phục
được tình trạng thất nghiệp về lâu dài. Việc phát triển các ngành nghề sản xuất,
các lĩnh vực, các doanh nghiệp quy mô nhỏ sử dụng nhiều lao động ở cả nông
thôn lẫn thành thị là một vấn đề được tính tốn đến khi xây dựng chính sách cơ
cấu kinh tế (theo ngành, theo vùng lãnh thổ hoặc theo thành phần kinh tế).
Việc lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiều lao động đơi khi
có hiệu quả kinh tế - xã hội hơn là nhập những cơng nghệ q hiện đại (sử

dụng ít lao động và sử dụng lao động trình độ cao).
- Đối tượng của chính sách việc làm hướng tới những người lao động
thất nghiệp, chưa có việc làm;
- Giải quyết việc làm cho người lao động có hai mục đích chính: Một là
tạo ra việc làm cho người lao động, có thu nhập nhằm đảm bảo cho cuộc sống
của bản thân, gia đình và góp phần đảm bảo an sinh xã hội; phát huy mọi tiềm
năng lao động dồi dào trong mỗi người lao động để đạt được mức việc làm
hợp lý và có hiệu quả, tạo cơ hội cho người lao động thực hiện được quyền và
nghĩa vụ của mình, đồng thời duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất; Hai là,
nâng cao hiệu quả làm việc, tăng thu nhập, đảm bảo giải quyết việc làm bền
14


vững cho người lao động. Như vậy, giải quyết việc làm không chỉ là việc thực
hiện các biện pháp tạo cơ hội việc làm cho người lao động, mà còn là việc cải
thiện và duy trì mơi trường làm việc, các điều kiện cần thiết để người lao động
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình làm việc.
Việc làm và giải quyết việc làm có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự
phát triển của một nền kinh tế, bởi sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào vấn đề
sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và nguồn
vốn. Trong đó, việc sử dụng nguồn nhân lực có vai trị quan trọng và quyết
định sự phát triển đó.
*Nhân tố tác động tới giải quyết việc làm
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chính sách việc làm của quốc gia, có
thể kể tới một số yếu tố sau:
Thứ nhất, yếu tố chủ quan xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước đối với việc làm và việc thể chế hóa các nội dung vào quy định
của luật chuyên ngành. Như đã phân tích ở nội dung trên, Đảng và Nhà nước
ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của việc làm, coi giải quyết việc
làm là một trong những nhiệm vụ chủ yếu để phát triển kinh tế, xã hội của đất

nước. Việc ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý phù
hợp với các điều kiện của đất nước đã thúc đẩy các yếu tố của thị trường, trong
đó, thị trường lao động được hình thành, mở ra tiềm năng mới giải phóng các
tiềm năng lao động và tạo việc làm.
Thứ hai, nhóm yếu tố khách quan ảnh hưởng tới chính sách việc làm
của quốc gia bao gồm:
- Tài nguyên đất đai: Tài nguyên đất đai và tốc độ đô thị hóa tăng nhanh
dẫn đến sự phân hóa trong cơ cấu lao động nông thôn và thành thị. Một thực
trạng hiện nay là diện tích đất nơng nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp, việc mở
rộng đơ thị hóa nơng thơn nhưng chính sách tạo việc làm chưa tương xứng
khiến số lượng lao động nông thôn dư thừa và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
15


- Sự phát triển cơng nghiệp hóa: Việt Nam đang hướng tới cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, bên cạnh nhiều thời cơ cũng phải đối mặt với nhiều
thách thức, trong đó có vấn đề về nhân lực. Sự phát triển của cơng nghiệp tự
động sẽ dần thay thế vị trí của người lao động trong nhà máy, do đó nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là giải pháp cơ bản để hạn chế thất nghiệp
- Cơ cấu dân số và tỷ lệ gia tăng dân số: Tính tới tháng 06 năm 2018, dân
số Việt Nam hiện tại là 96.418.385 người, đứng thứ 3 Đông Nam Á, thứ 8 châu
Á và thứ 14 trên thế giới [13]. Độ tuổi trung bình của dân số nước ta là 31. Hiện
nay được đánh giá là thời điểm cơ cấu "dân số vàng" là cơ hội nhưng đồng thời
cũng đặt ra nhiều thách thức đối với công tác giải quyết việc làm. Cơ cấu "dân
số vàng" là cơ hội để tích lũy nguồn lực để tăng đầu tư cho an sinh xã hội, y tế,
giáo dục, việc làm trong tương lai. Đồng thời, dân số trong độ tuổi lao động lớn,
cùng với sự phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ tạo nhu cầu lớn về
đào tạo nghề. Lực lượng lao động trẻ, dồi dào và tiếp tục tăng sẽ là nguồn lực
quan trọng cho việc phát triển kinh tế trong điều kiện đảm bảo việc làm và cải
thiện được năng suất lao động. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ sẽ trở thành gánh

nặng nếu quốc gia đó có tỷ lệ thất nghiệp cao và năng suất lao động thấp, địi hỏi
chính sách lao động về việc làm phải có sự điều chỉnh phù hợp để tận dụng lợi
thế và giảm thiểu rủi ro, thách thức.
- Thị trường lao động: Sự chênh lệch trong quan hệ cung - cầu tiếp tục
tác động tiêu cực, địi hỏi chính sách việc làm phải có sự điều chỉnh phù hợp.
1.1.2.

Lao động nữ, giải quyết việc làm cho lao động nữ và pháp luật

về giải quyết việc làm cho lao động nữ
1.1.2.1. Lao động nữ
Theo quy định tại Điều 3 Bộ luật lao động năm 2012 "1. Người lao động
là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng
lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao
động". Có rất nhiều tiêu chí để phân loại người lao động, trong đó “giới” là
16


tiêu chí để phân biệt giữa lao động nam và lao động nữ.
Giới là cách để xã hội chia con người thành các phạm trù, các loại và chỉ
định cho mỗi loại một kiểu hành vi riêng, những trách nhiệm và quyền lợi
riêng. Sự phân công lao động theo giới là sự phân chia công việc giữa nam và
nữ [40, tr.13]. Thơng thường giới tính được hiểu là các đặc điểm sinh học của
nam và nữ. Các đặc điểm giới tính chủ yếu gắn với q trình tái sản xuất ra
con người, nhất là các đặc điểm của hệ thống sinh sản của nam và nữ. Đặc
điểm sinh học của nam và nữ khó thay đổi do chúng là sản phẩm của q trình
di truyền, tiến hóa sinh học lâu dài.
Như vậy, lao động nữ được hiểu là người lao động đáp ứng đủ điều kiện
theo luật định và có những đặc điểm riêng biệt so với lao động nam về tâm
sinh lý và thể lực, mang những đặc trưng riêng về giới khi tham gia quan hệ

lao động
*Đặc điểm và vai trò của lao động nữ
Thứ nhất, sự khác biệt về đặc điểm sinh học, sức khỏe, tính cách, tâm lý
xã hội và chức năng sinh học của lao động nữ:
Lao động nữ là một trong những loại lao động đặc thù. Lao động đặc thù
là những lao động có những đặc điểm riêng biệt về thể chất, tinh thần, chức
năng sinh học...mà do những đặc điểm này họ có thể gặp những trở ngại nhất
định khi tham gia quan hệ lao động. Với đặc thù về chức năng sinh sản, phụ
nữ phải trải qua các giai đoạn sinh lý đặc biệt như thời kỳ kinh nguyệt, thai
nghén, cho con bú ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của phụ nữ. Mặc dù Bộ luật
lao động đã có những quy định đặc thù cho lao động nữ song khơng ít đơn vị,
doanh nghiệp chưa thực sự tuân thủ các quy định này. Tâm lý người sử dụng
lao động không muốn tuyển dụng lao động nữ do lao động nữ phải mất nhiều
thời gian nghỉ sinh con và nuôi con, đồng thời phải thực hiện các chế độ mà
lao động nữ được hưởng do pháp luật quy định ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Thậm chí, cịn có trường hợp doanh nghiệp đưa ra
17


yêu cầu đầu vào đối với lao động nữ khuyến khích khơng sinh con trong 2 năm
đầu làm việc. Điều này đã tạo rào cản không nhỏ đến thực hiện bình đẳng giới
và cơ hội việc làm cho lao động nữ.
Bên cạnh đó, với sức vóc thể hình nhỏ bé, sức bền kém, lao động nữ
thường có thể lực yếu hơn lao động nam nên họ thích nghi với những cơng
việc có tính chất nhẹ nhàng về thể lực, ít độc hại và nguy hiểm. Đồng thời, đặc
điểm này dẫn đện sự phân hóa nghề nghiệp giữa lao động nam và lao động nữ
thể hiện ở việc làm của lao động nữ tập trung ở các lĩnh vực hành chính sự
nghiệp, các ngành công nghiệp nhẹ, các lĩnh vực thương mại và dịch vụ,
khơng địi hỏi kỹ thuật cao, phức tạp.
Thứ hai, sự chênh lệch về trình độ học vấn, trình độ chun mơn và vị

trí việc làm cịn lớn
Đây là thực trạng chung tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
các nước đang phát triển. Nguyên nhân dẫn do định kiến xã hội, quan niệm
truyền thống đã khơng cịn phù hợp, ngăn cản phụ nữ khơng có nhiều cơ hội
để tiếp cận với giáo dục đào tạo, định hướng lựa chọn ngành nghề và nâng cao
trình độ chun mơn. Hơn nữa, với thiên chức làm vợ, làm mẹ và phải "gồng
gánh" giữa công việc nhà và xã hội, nên lao động nữ ít có cơ hội được tiếp cận
với công nghệ và giáo dục, do đó khơng có điều kiện để nâng nâng cao về đào
tạo chun mơn.
Có thể đưa ra một số ví dụ trong Báo cáo "Triển vọng việc làm và xã hội
thế giới - Xu hướng cho phụ nữ" (“Women, Employment and Wage: An
Overview on Female Workers in Vietnam”) của ILO công bố tháng 3 vừa qua
để làm rõ hơn nhận định này. Theo đó, lao động nữ tại Việt Nam chiếm 48,4%
tổng lực lượng lao động [52]. Tuy nhiên nữ giới tại Việt Nam có việc làm thấp
hơn 9% so với nam giới. Có tới 57,3% số lao động nữ thất nghiệp ở nhóm lao
động chưa qua đào tạo và 50,2% trong nhóm đã được đào tạo nghề. Tuy nhiên,
tỷ lệ lao động nữ trong nhóm thất nghiệp có trình độ đại học lên tới 55,4% 18


con số cho thấy tình trạng báo động về định hướng nghề nghiệp trong giới trẻ
cũng như thực trạng chất lượng đào tạo hệ đại học ở Việt Nam hiện nay.
Hiện có 7,8 triệu lao động nữ đang là việc trong khu vực phi chính thức
với điều kiện lao động không bảo đảm. Tỷ lệ lao động nữ trong khu vực phi
chính thức phải làm cơng việc dễ bị tổn thương lên tới 59,6% trong khi đó, ở
nam giới là 318%. Báo cáo cũng chỉ ra, lao động nữ đang ở vị thế thấp hơn
nam giới trong cơ cấu việc làm. Phụ nữ chỉ chiếm 26,1% các vị trí lãnh đạo
nhưng lại đóng góp tới 52,1% nhóm lao động giản đơn và 66,6% lao động gia
đình. Điều đó cho thấy vẫn còn rất nhiều rào cản đối với phụ nữ trong việc tiếp
cận các cơ hội phát triển nghề nghiệp so với nam giới [52].
1.1.2.2. Giải quyết việc làm cho lao động nữ

*Khái niệm
Cùng với giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, giải quyết
việc làm cho lao động nữ luôn được Đảng và Nhà nước ra rất quan tâm. Khoản
3 Điều 153 Bộ luật lao động năm 2012 đã quy định về chính sách của Nhà
nước đối với lao động nữ như sau: “Có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều
kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe, tăng cường
phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát
huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và
cuộc sống gia đình". Lao động nữ được xếp vào nhóm lao động yếu thế, do đó
cần được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội để tạo mọi điều kiện bảo đảm
việc làm để cải thiện tình trạng bất bình đẳng giới. Việc thực hiện tốt chính
sách việc làm cho lao động nữ góp phần rút ngắn sự bất bình đẳng giữa nam và
nữ trên phương diện lao động - việc làm (thu nhập, chế độ đãi ngộ, tính chất
cơng việc…); sử dụng hiệu quả tiềm năng to lớn về sức lao động của phụ nữ;
giải phóng phụ nữ cũng như khẳng định vai trò và vị thế của lao động nữ trong
gia đình và ngồi xã hội.
Từ khái niệm giải quyết việc làm và những đặc điểm của lao động nữ,
19


có thể hiểu giải quyết việc làm cho lao động nữ như sau: Giải quyết việc làm
cho lao động nữ là tổng thể những chính sách, biện pháp phù hợp để tạo ra
việc làm phù hợp và nâng cao hiệu quả lao động cho lao động nữ.
*Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho lao động nữ tại Việt Nam
Giải quyết việc làm cho lao động nữ luôn được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm. Một mặt, đáp ứng nhu cầu việc làm tỷ lệ thuận với tốc độ
gia tăng dân số, mặt khác, đạt được nhiều mục tiêu về kinh tế - văn hóa - xã
hội. Tuy nhiên hiện nay, bất bình đẳng giới trong thu nhập và việc làm ở Việt
Nam vẫn còn tồn tại khá nhức nhối. Cũng theo Báo cáo "Triển vọng việc làm
và xã hội thế giới - Xu hướng cho phụ nữ" của ILO cơng bố cho thấy Việt Nam

thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất thế
giới, đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước. Tính tới tháng
03/2018, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ Việt Nam là 72%, cao
hơn mức trung bình thế giới (49%), mức trung bình của châu Á và nhóm các
nước thu nhập trung bình thấp [52].
Các số liệu khác được đưa ra trong Báo cáo cũng cho thấy lao động nữ
bị đối xử bất bình đẳng, khơng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp trong việc
làm. Ví dụ: Lao động nữ phải làm việc trong điều kiện chất lượng thấp hơn lao
động nam. Chỉ có 49,8% lao động nữ trong nhóm lao động làm cơng ăn lương
có ký hợp đồng lao động với người sử dụng lao động, trong khi ở nam giới là
58,8%. Ngoài ra trong khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, lao động nam
có tỷ lệ ký hợp đồng lao động khơng xác định thời hạn lên tới 73,91% trong
khi với lao động nữ chỉ là 67,67% [52].
Bất bình đẳng về giới khơng chỉ gây tổn thương, thiệt hại về sức khỏe,
tinh thần và vật chất cho bản thân lao động nữ mà cịn có thể ảnh hưởng tới gia
đình họ và tồn xã hội. Ví dụ một khảo sát năm 2017 trong ngành lắp ráp điện
tử Bắc Ninh nơi lao động nữ chiếm 90% lực lượng lao động thì thu nhập từ
làm thêm giờ chiếm tới 32% tổng thu nhập và hơn 50% lương cơ bản trung
20


bình của lao động trong ngành điện tử. Hay nói cách khác, nếu khơng làm
thêm giờ thì lao động nữ không thể trang trải được các nhu cầu sinh hoạt thiết
yếu. Điều kiện kinh tế khó khăn, quỹ thời gian eo hẹp trực tiếp ảnh hưởng tới
con cái của họ. Theo một nghiên cứu năm 2015 của Oxfam Việt Nam - tổ chức
phi chính phủ quốc tế hàng đầu hoạt động trong các lĩnh vực phát triển nông
thôn, giảm thiểu rủi ro và ứng phó với biến đổi khí hậu và thảm họa, phát triển
xã hội dân sự và cộng đồng thiểu số, nâng cao vị thế phụ nữ, các lao động nữ
đang làm việc tại các khu công nghiệp và khu chế xuất chủ yếu là lao động di
cư. Không sinh sống cố định ở một nơi cùng với tâm lý "lười" thực hiện các

thủ tục cư trú (xin cấp giấy chứng nhận tạm vắng, tạm trú) đã khiến con cái họ
khó tiếp cận các dịch vụ an ninh xã hội cơ bản. Cụ thể có tới 21, 2% trẻ trong
độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi theo cha mẹ sinh sống tại nơi đến không đi học. Đây là
con số thực sự đáng báo động về tình trạng trẻ em không được tiếp cận hệ
thống giáo dục. Chỉ có 7.7% trẻ em di cư đi nhà trẻ cơng lập và 12% trẻ em di
cư đi học trường mẫu giáo cơng lập, cịn lại chủ yếu là giữ trẻ tại gia [52].
Chính vì những lý do trên, giải quyết việc làm cho lao động nữ tại thời
điểm hiện tại là vấn đề hết sức cấp thiết, không chỉ đối với bản thân lao động
nữ, mà cịn có tác động tích cực và ý nghĩa to lớn tới gia đình và xã hội.
1.1.2.3. Pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ
Khái niệm pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ được xây
dựng trên hai nền tảng: Khái niệm “pháp luật” và quyền có việc làm của lao
động nữ. Có rất nhiều định nghĩa về pháp luật, tuy nhiên, theo cách hiểu chung
nhất và được thừa nhận thì pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực
hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ
xã hội pháp triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình [22]. Trên cơ sở đó,
pháp luật nhìn chung có những đặc trưng cơ bản sau: Tính quy phạm phổ biến;
tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính đảm bảo bằng nhà nước.
21


Khác với các quy phạm xã hội khác pháp luật do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự bảo đảm bằng nhà
nước là thuộc tính của pháp luật. Pháp luật khơng chỉ do nhà nước ban hành
mà nhà nước còn bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, có nghĩa là nhà nước
trao cho các quy phạm pháp luật có tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ
quan, tổ chức và cá nhân. Pháp luật trở thành quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung nhờ vào sức mạnh quyền lực của nhà nước. Tuỳ theo mức độ khác nhau
mà nhà nước áp dụng các biện pháp về tư tưởng, tổ chức, khuyến khích...kể cả

biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện.
Như vậy, tính được bảo đảm bằng nhà nước của pháp luật được hiểu
dưới hai khía cạnh. Một mặt nhà nước tổ chức thực hiện pháp luật bằng cả hai
phương pháp thuyết phục và cưỡng chế, mặt khác nhà nước là người bảo đảm
tính hợp lý và uy tín của pháp luật, nhờ đó pháp luật được thực hiện thuận lợi
trong đời sống xã hội.
Trên bình diện quốc tế, Cơng ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of all forms of Discrimination
against Women - CEDAW) được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn vào
ngày 18/12/1979 là văn kiện quốc tế đầu tiên tổng hợp nhất về quyền con
người của phụ nữ. Tinh thần của Công ước được xây dựng trên cơ sở các mục
tiêu của Liên hợp quốc nhằm bảo đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền cơ
bản của con người, quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới, trong đó có
quyền bình đẳng trong lĩnh vực việc làm. Cụ thể, Điều 11 CEDAW quy định:
"1. Các quốc gia thành viên Công ước phải áp dụng tất cả
những biện pháp thích hợp để xố bỏ sự phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ trong lĩnh vực việc làm, nhằm đảm bảo những quyền
như nhau trên cơ sở bình đẳng nam nữ, cụ thể là:
a) Quyền được làm việc, một quyền không thể chuyển
nhượng của tất cả mọi người;
22


b) Quyền được hưởng các cơ hội có việc làm như nhau, kể
cả việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi tuyển dụng;
c) Quyền tự do lựa chọn ngành nghề và việc làm, quyền
thăng chức, an ninh việc làm, tất cả các phúc lợi và điều kiện
dịch vụ, quyền được đào tạo nghề và được đào tạo lại, kể cả thực
tập nghề, đào tạo nâng cao và đào tạo định kỳ;
d) Quyền được trả thù lao bình đẳng, kể cả trong việc

hưởng các phúc lợi, được trả lương như nhau khi làm những
Cơng việc có giá trị ngang nhau, cũng như được đối xử như nhau
trong việc đánh giá chất lượng công việc;
e) Quyền được hưởng an sinh xã hội, đặc biệt trong các
trường hợp về hưu, thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, tuổi già và các
tình trạng mất khả năng lao động khác, cũng như quyền được
nghỉ phép có hưởng lương;
f) Quyền được bảo vệ sức khỏe và an toàn lao động, kể cả
bảo vệ chức năng sinh đẻ.
2. Nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
với lý do hôn nhân hay sinh đẻ, để đảm bảo một cách hiệu quả
quyền về việc làm cho phụ nữ, các quốc gia thành viên Công ước
phải áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm:
a) Cấm những hành động kỷ luật, sa thải phụ nữ với lý do
có thai hay nghỉ đẻ, và có sự phân biệt đối xử trong việc sa thải
phụ nữ vỡ lý do hôn nhân;
b) Áp dụng chế độ nghỉ đẻ vẫn hưởng lương hoặc được
hưởng các phúc lợi xã hội tương đương mà không bị mất việc làm
cũ, mất thâm niên, hay các phụ cấp xã hội;
c) Khuyến khích việc cung cấp những dịch vụ xã hội cần
23


thiết hỗ trợ cho các bậc cha mẹ để giúp họ có thể kết hợp các
nghĩa vụ gia đình với trách nhiệm Công tác và tham gia các hoạt
động công cộng, cụ thể bằng cách thúc đẩy việc thiết lập và sự
phát triển của hệ thống các cơ sở chăm sóc trẻ em;
d) Đảm bảo sự bảo vệ đặc biệt đối với phụ nữ trong thời kỳ
mang thai trong những loại cơng việc đã được chứng minh là có
hại cho họ.

e) Các quy định pháp luật về bảo vệ phụ nữ liên quan đến
những vấn đề được đề cập trong điều này phải được định kỳ xem
xét lại, đối chiếu với những tiến bộ mới của khoa học và kỹ thuật,
để sửa đổi, hủy bỏ hoặc mở rộng nếu cần thiết." [20]
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia
Công ước vào 29/7/1980 phê chuẩn vào 27/11/1981. Tuân thủ quy định của
Công ước, trong suốt những năm qua, Việt Nam đã tích cực tổ chức thực hiện
và hoàn thành các báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện Cơng ước để trình
lên Tổng thư ký Liên hợp quốc. Năm 2001, Việt Na đã bảo vệ thành công các
báo cáo quốc gia lần thứ 2, 3 và 4 và được Uỷ ban CEDAW đánh giá là tiến
hành nội luật hoá CEDAW khá thành cơng vì mục tiêu nâng cao quyền của
phụ nữ trên thực tế.
Việc nội luật hóa được thực hiện xuyên suốt và thống nhất từ Hiến pháp
cho tới các quy định chuyên ngành trong lĩnh vực lao động, tạo cơ sở pháp lý
cho việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền lao động và việc làm cho lao
động nữ như: Bộ luật lao động năm 2012, Luật việc làm năm 2013, Luật bình
đẳng giới năm 2006, Luật bảo hiểm xã hội năm 2006…Pháp luật giải quyết
việc làm cho lao động nữ cần được hiểu là tất cả những quy định pháp luật
nằm đảm bảo cho lao động nữ về quyền có cơ hội cơng việc và việc làm.
Theo tác giả, pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động nữ là những
quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa
24


nhận và đảm bảo thực hiện nhằm giải quyết việc làm cho lao động nữ trên cơ
sở quyền có cơ hội việc làm.
Có thể khái quát về pháp luật giải quyết việc làm cho lao động nữ bao
gồm các quy định về khuyến khích cơ hội cơng việc và việc làm; bình đẳng về
việc làm cho lao động nữ; và các quy định về chế độ hỗ trợ lao động nữ trong
lĩnh vực việc làm để nâng cao hiệu quả lao động.

1.2. Điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề giải quyết việc làm cho

lao động nữ
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giải quyết việc làm cho
lao động nữ
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giải quyết việc làm cho lao động
nữ được nghiên cứu và phân tích dựa trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Luật
lao động. Các nguyên tắc cơ bản của Luật lao động là những nguyên lý, tư tưởng
chỉ đạo quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật lao
động trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về sử dụng lao động. Nội dung các
nguyên tắc cơ bản của Luật lao động thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực lao động nói chung và vấn đề giải quyết việc
nói riêng. Trong đó, nguyên tắc bảo vệ người lao động là nguyên tắc cơ bản nhất,
xuất phát từ quan điểm coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là "vì
con người, phát huy nhân tố con người, trước hết là người lao động" được đề ra
tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.
Nội dung của nguyên tắc bảo vệ người lao động rất rộng, đòi hỏi pháp luật
phải thể hiện quan điểm bảo vệ họ với tư cách bảo vệ con người, chủ thể của
quan hệ lao động. Vì vậy nó khơng chỉ bao hàm mục đích bảo vệ sức lao động,
bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của người lao động, mà phải bảo vệ họ trên mọi
phương diện.
Trên cơ sở đó, có thể khái quát một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật về
giải quyết việc làm cho lao động nữ như sau:
Thứ nhất, bảo đảm quyền lao động và quyền của lao động nữ
25


×