Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.97 KB, 16 trang )

CHƯƠNG III:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG THANH
TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

1.Phương hướng và mục tiêu phát triển của Sở giao dịch I
trong thời gian tới:
Trong thời gian qua, những kết quả SGDI đạt được đã được các cấp lãnh đạo
ghi nhận và đánh giá cao. Năm 2005 được Tổng giám đốc công nhận là đơn vị dẫn
đầu hệ thống và đang đề nghị Chủ tịch nước tặng thưởng huân chương lao động
hạng 2. Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong hoạt động ngân
hàng, toàn thể cán bộ nhân viên SGDI quyết tâm thực hiện và phấn đấu những mục
tiêu đề ra:
- Đột phá, đi đầu và là mẫu hình của NHĐT&PTVN trong hội nhập. Là hạt
nhân, động lực quyết định trong tăng trưởng của tồn hệ thống NHĐT&PTVN. Đi
đầu trong ứng dụng cơng nghệ hiện đại, tiên tiến, giữ vai trò hỗ trợ và lan toả đến
toàn hệ thống. Thực hiện một số nhiệm vụ hoạt động kinh doanh của hệ thống với
chức năng là đơn vị đầu mối, trung tâm trong một số hoạt động như thanh toán,
kinh doanh tiền tề, điều hoà vốn.
- Đẩy mạnh tiến độ cải thiện cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ hoạt động,phấn đấu
hiệu quả kinh doanh cao hơn mức bình qn trên tồn hệ thống, tăng trưởng trên
cơ sở bền vững, đảm bảo an toàn trong hoạt động.
- Phát huy tốt vai trò đầu mối trong tổ chức triển khai thoả thuận hợp tác
toàn diện với các Tổng cơng ty lớn, các định chế tài chính của toàn ngành. Đột phá
về phát triển dịch vụ cả về quy mô ứng dụng cũng như hiệu quả sản phẩm, tạo
dựng vị thế của NHĐT&PTVN đặc biệt trên địa bàn thủ đô Hà nội.


- Tập trung mở rộng mạng lưới hoạt động trên địa bàn Hà nội, chuyển hướng
và đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng, tín dụng bán lẻ.
- Đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng tốt yêu
cầu hội nhập ngân hàng, đặc biệt giáo dục phẩm chất đạo đức cho cán bộ.


* Phương hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế:
- Mở rộng dịch vụ thanh toán quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu cho sử dụng
dịch vụ của khách hàng đặc biệt trên địa bàn thủ đơ Hà nội.
- Hồn chỉnh, nâng cao chất lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
- Củng cố và mở rộng quan hệ khách hàng, thu hút thêm các khách hàng
thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Áp dụng các hình thức thanh tốn mới, hiện đại, đồng thời kết hợp các
kênh thanh toán tạo nhiều sự lựa chọn cho các đối tượng khách hàng.
- Phấn đấu nâng cao doanh số giao dịch và lợi nhuận kinh doanh.
- Phối hợp các phòng ban trong việc đánh giá, phân loại khách hàng và ngân
hàng đại lý để tăng cường quản lý rủi ro trong cơng tác thanh tốn.
- Thường xun tổ chức nghiên cứu các tập quán về thanh toán xuất nhập
khẩu, nâng cao trình độ nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng
và đảm bảo an tồn trong thanh tốn.
- Tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng hiện có và mở rộng mối quan
hệ với các ngân hàng khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động thanh tốn
quốc tế.
- Hồn thành cơng việc tiếp nhận và thực hiện các khoản tín dụng nước
ngoài, các quỹ uỷ thác từ các tổ chức quốc tế, cung ứng các dịch vụ xuất- nhập
khẩu, bảo lãnh, uỷ thác do các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức quốc tế tài trợ.

2. Một số biện pháp nhằm phịng ngừa và hạn chế rủi ro trong
thanh tốn theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịchI :


Trong thời gian qua, để hạn chế rủi ro có thể xảy ra trong thanh tốn theo
phương thức tín dụng chứng từ, các cấp lãnh đạo của ngân hàng đã thực hiện nhiều
hoạt động nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra tại các chi nhánh của ngân
hàng, trong đó đặc biệt quan tâm tới SGDI- là cánh chim đầu đàn của hệ thống.
Một số biện pháp ngân hàng đã thực hiện trong thời gian qua, được áp dụng tại các

chi nhánh có nhiệm vụ thanh tốn trực tiếp, trong đó có SGDI bao gồm:
2.1. Thẩm định và đánh giá khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng:
Biện pháp quan trọng mang lại hiệu quả cao để phòng ngừa rủi ro trong
nghiệp vụ thanh toán L/C là SGDI chú trọng nâng cao công tác thẩm định đánh giá
khách hàng. Trong công tác thẩm định đánh giá khách hàng, SGDI tiến hành phân
tích kỹ lưỡng năng lực tài chính cũng như kết quả kinh doanh của khách hàng đến
giao dịch với ngân hàng. Tuy nhiên, công tác này không chỉ dừng lại ở lần đầu tiên
khách hàng tới đặt quan hệ với ngân hàng mà còn cần được tiến hành một cách
thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình ngân hàng có quan hệ với khách
hàng.
Ngồi việc kiểm tra, phân tích, đánh giá năng lực tài chính của khách hàng,
phương án kinh doanh của khách hàng mở L/C cũng như đối tác kinh doanh nước
ngoài của khách hàng, SGDI cũng cần quan tâm đến tư cách của khách hàng mở
L/C và đối tác của khách hàng nhằm đảm bảo an tồn trong thanh tốn cũng như
chính sách khách hàng của SGDI đề ra.
Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi các phòng trong bộ máy tổ chức của
SGDI phải có quan hệ chặt chẽ với nhau trong các khâu thực hiện. Cụ thể: Khi
SGDI tiến hành mở L/C cho khách hang- người nhập khẩu cũng đồng nghĩa với
việc SGDI đã cấp tín dụng cho khách hàng (đây là tín dụng ngắn hạn vì L/C nhập
khẩu mở tại SGDI chủ yếu là L/C thanh toán ngay hoặc trả chậm dưới 1
năm).Trước khi chấp nhận đơn xin mở L/C của khách hàng thì phịng TTQT cần có
thơng tin về khách hàng thơng qua phịng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp và


phịng tín dụng. Mục đích của việc làm này là nhằm kiểm tra năng lực tài chính của
khách hàng, đối tượng khách hàng( có quan hệ thường xuyên hay lần đầu); năng
lực pháp lý của khách hàng; đánh giá phẩm chất đạo đức của khách hàng thơng qua
đánh giá tính đảm bảo nguyên tắc trong quan hệ vay trả, tính trung thực trong quan
hệ quốc tế, tính nghiêm túc trong việc chấp hành luật lệ của nhà nước…Thơng qua
đó sẽ quyết định mức độ ký quỹ cho từng đối tượng khách hàng.

Tuy nhiên, muốn làm tốt công tác trên, yêu cầu đặt ra là cần có sự phối hợp
đồng bộ với việc xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chun mơn cao, có tư cách
đạo đức và nghề nghiệp, nhiệt tình trong cơng tác và phải xây dựng hệ thống cơ sở
hạ tầng thuận lợi, hiện đại phục vụ cho hoạt động.
2.2. Xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ.
Cán bộ ngân hàng là người trực tiếp làm việc với khách hàng, do vậy đòi hỏi
cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công tác thanh tốn L/C khơng chỉ
có trình độ ngoại ngữ, năng lực chun mơn mà cịn có phẩm chất đạo đức, tinh
thần trách nhiệm cao, có kinh nghiệm trong TTQT, có kỹ năng phân tích, am hiểu
tường tận UCP 500. Đồng thời họ cũng phải am hiểu luật pháp và tập quán cũng
như thực tiễn hoạt động ngân hàng của từng khu vực, từng vùng, từng nước để có
thể tư vấn cho khách hàng, đồng thời tránh được rủi ro cho SGDI. Chính vì vậy,
trong thời gian qua, SGDI đã :
- Xây dựng khối đại đoàn kết từ cán bộ lãnh đạo đến nhân viên. Mọi người
cùng làm việc, cùng tin tưởng lẫn nhau, giúp đỡ nhau. Điều này đã tạo thêm niềm
tin cho khách hàng.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, áp dụng công nghệ thông tin
cho các thanh toán viên; sử dụng và vận dụng tốt cơng nghệ ngân hàng hiện đại.
Chính vì vậy, hàng năm SGDI đã gửi nhân viên của mình theo học các khoá đào
tạo nâng cao nghiệp vụ mà NHĐT&PTVN tổ chức, xây dựng chương trình đào tạo
phù hợp với từng thời kỳ và giai đoạn phát triển của ngân hàng; cử cán bộ và nhân


viên của SGDI tham gia vào các cuộc nói chuyện của các chuyên gia nước ngoài
được NHĐT&PTVN mời sang; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ và
những nhân viên có nhu cầu đi học để nâng cao trình độ nghiệp vụ, chun mơn.
Theo phân tích đã trình bày ở phần trên, một trong những nguyên nhân có
khả năng gây ra rủi ro đối với hoạt động của ngân hàng là từ phía con người- tức là
xảy ra khi thanh toán viên khi thực hiện nghiệp vụ. Do vậy trong công tác đào tạo
cán bộ và nhân viên, SGDI không chỉ tập trung mở các lớp học, các khố đào tạo

nghiệp vụ cho nhân viên của mình mà còn phải mở thêm các lớp học hướng dẫn
cho nhân viên tiếp cận nhiều hơn với công nghệ hiện đại, có khả năng tự xử lý
được những trường hợp trục trặc về máy móc trong khi tiến hành nghiệp vụ
Cũng căn cứ vào tình hình thực tế tại SGDI trong những năm vừa qua, việc
tách và thành lập các chi nhánh đã chuyển một phần cán bộ và nhân viên của
SGDI sang các chi nhánh mới, vì vậy yêu cầu hiện nay của SGDI là phải tuyển
dụng thêm cán bộ và nhân viên mới, đáp ứng nhu cầu của SGDI. Để có thể hạn chế
rủi ro, ngay từ khâu đầu tiên SGDI cần phải tuyển dụng được đội ngũ nhân viên có
chất lượng tốt. Điều này địi hỏi SGDI nên tuyển dụng có trọng tâm, trọng điểm,
tuyển dụng một cách dân chủ công khai, tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp tại các
trường đại học , chuyên ngành đạt loại khá giỏi, thơng thạo ngoại ngữ, tin học…Có
như vậy mới có thể đáp ứng yêu cầu của SGDI trong thời gian tới.
2.3. Tiếp tục thực hiện tốt công tác hiện đại hố cơng nghệ ngân hàng:
Trong những năm qua, các ngân hàng thương mại Việt nam nói chung và
ngân hàng đầu tư và phát triển nói riêng đã áp dụng nhiều công nghệ cao trong
kinh doanh đối ngoại, phục vụ đắc lực cho mục tiêu hoà nhập vào cộng đồng khu
vực và trên thế giới. Tại Việt nam các ngân hàng đã áp dụng phần mềm SWIFT
tiên tiến phù hợp với công nghệ của các ngân hàng đại lý ở nước ngoài.
Với mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và năng lực cạnh tranh của
các ngân hàng, vì vậy trong thời gian qua, NHĐT&PTVN đã đầu tư vốn cho việc


nâng cấp trang thiết bị máy móc, cải tiến và nâng cấp các chương trình tin học,
phần mềm ứng dụng, thiết bị phục vụ các giao dịch cho các dịch vụ mới. Những kỹ
thuật tiên tiến này đã phần nào giúp cho hoạt động thanh toán của ngân hàng ngày
càng an tồn và có hiệu quả hơn.
Ngân hàng cũng đã triển khai nhiều dự án và chương trình phục vụ cho hoạt
động thanh tốn như thực hiện tốt chương trình TF-SIBS là phần mềm do nhà thầu
Sliverlake cung cấp, phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế đảm bảo an toàn
trong toàn hệ thống và tự động thực hiện các giao dịch khi nó thoả mãn các điều

kiện.
SGDI là nơi thực hiện và triển khai đề án tái cơ cấu hoạt động ngân hàng
của NHĐT&PTVN, sau 5 năm triển khai các mục tiêu cơ bản đề ra đã được hồn
thành. Với những thành cơng đạt được, SGDI vinh dự là đầu mối phục vụ thanh
toán và phối hợp quản lý trên 700 triệu USD từ nguồn trái phiếu quốc tế của Tổng
công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam.
Trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra đối với SGDI là phải biết tận dụng những
thành công đã đạt được và cố gắng thực hiện tốt hơn nữa những công nghệ mới,
giúp SGDI trở thành đầu mối phục vụ thanh toán nhiều hơn nữa.
2.4. Thành lập ban quản lý và phịng ngừa rủi ro.
Trong khn khổ đề án tái cơ cấu các Ngân hàng thương mại Nhà nước,
NHĐT&PTVN được tiếp nhận dự án hỗ trợ kỹ thuật từ nguồn viện trợ của quỹ
ASEM thông qua WB. Theo nội dung của hợp đồng được ký kết với Ngân hàng
Nhà nước Việt nam, công ty tư vấn IFG(Anh quốc) đã thực hiện dự án hỗ trợ kỹ
thuật tái cơ cấu NHĐT&PTVN trên bốn cấu phần lớn trong đó quản lý rủi ro là
một phần quan trọng.
Theo khuyến cáo của tư vấn, Ban Quản lý rủi ro được thành lập độc lập khỏi
các đơn vị hoạt động kinh doanh của NHĐT&PTVN, không tham gia vào các hoạt


động tạo ra rủi ro mà thực hiện vai trò giám sát quan trọng là giám sát rủi ro toàn
hệ thống. Vì thế, nhiệm vụ chủ yếu của ban quản lý rủi ro:
- Tham mưu cho hội đồng quản trị, tổng giám đốc trong việc hình thành các
chính sách quản lý rủi ro hiệu quả để đảm bảo an toàn cho tồn hệ thống
- Xây dựng các quy trình để đảm bảo nhận diện và phát hiện các rủi ro tiềm
ẩn, đánh giá đo lường mức độ rủi ro tiềm ẩn trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp
phịng ngừa, ngăn chặn để hạn chế tối đa rủi ro xảy ra.
- Hình thành một cơ chế hạn mức rủi ro cho toàn hệ thống trong từng thời kỳ
Tuy nhiên,để có thể hạn chế được rủi ro đối với hoạt động thanh tốn quốc
tế tại SGDI thì u cầu cần phải thành lập tại SGDI một ban quản lý rủi ro riêng để

có thể nhận biết và phát hiện những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh trực
tiếp tại SGDI. Ban quản lý có nhiệm vụ liên hệ với ban quản lý rủi ro của
NHĐT&PTVN để yêu cầu được cung cấp thông tin về những vụ lừa đảo, tranh
chấp trên thế giới cũng như ở Việt nam liên quan tơí TTQT nhằm trước hết là phục
vụ cho hoạt động của SGDI, sau là giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu. Đồng thời cung cấp tình hình thực tế tại SGDI cho ban
quản lý rủi ro của NHĐT&PTVN để ban quản lý rủi ro của NHĐT&PTVN đưa ra
biện pháp, phương án phòng ngừa.
Quản trị rủi ro vốn là những cơng việc phân tích, đánh giá, nhận định, đề
xuất, tham mưu…liên quan đến nhiều lĩnh vực chun mơn, nghiệp vụ, địi hỏi
phải có một đội ngũ chuyên gia giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như am hiểu
nhiều lĩnh vực khác mới có khả năng đáp ứng u cầu của cơng việc. Và để có thể
làm tốt nhiệm vụ của mình, bên cạnh nguồn lực con người thì cơng tác quản lý rủi
ro cũng địi hỏi phải có một hệ thống cơng cụ hỗ trợ đắc lực mà trước hết là một hạ
tầng công nghệ thông tin tiên tiến, đủ sức cung cấp kịp thời, chính xác các thơng
tin theo u cầu cũng như những phần mềm hỗ trợ cho việc tính tốn, đo lường,
phân tích.


2.5. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng:
Để có thể đảm bảo an tồn cho ngân hàng và cho doanh nghiệp thì hoạt động
tư vấn của ngân hàng cho khách hàng cũng đóng vai trị quan trọng trong việc hạn
chế rủi ro xảy ra. Cụ thể:
- Ngân hàng thơng qua việc hướng dẫn các quy trình, thủ tục, hồ sơ cho
khách hàng sẽ giúp khách hàng nắm bắt nhanh và hiệu quả về mặt yêu cầu và thủ
tục pháp lý trong việc thực hiện thanh toán bằng L/C, tiết kiệm được thời gian và
cơng sức.
- Ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng trong việc xem xét tính hiệu quả
của dự án, so sánh các chỉ tiêu kinh tế của dự án với các dự án cùng loại có tính
đến các yếu tố của thị trường trong và ngoài nước. Điều này giúp cho doanh

nghiệp làm ăn có hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh tốn đến hạn cho ngân
hàng.
Ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng của mình một số vấn đề như sau:
* Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu:
- Tư vấn cho nhà nhập khẩu nên mở L/C nào thì có lợi hơn cho doanh
nghiệp, có thể là L/C dự phịng, khơng nhất thiết lúc nào cũng là thư tín dụng
khơng hủy ngang như các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang sử dụng
- Tư vấn cho doanh nghiệp nên đưa các điều khoản nào vào L/C, đảm bảo
cho doanh nghiệp có thể nhận được hàng hóa theo đúng yêu cầu .
- Tư vấn giúp khách hàng tránh được sự lừa đảo của bên bán như không giao
hàng nhưng vẫn lập bộ chứng từ đòi tiền, hoặc trường hợp đối tác thuê tàu khơng
đảm bảo an tồn trong q trình vận chuyển hàng hóa, đồng thời giúp khách hàng
lựa chọn hãng bảo hiểm có uy tín để tránh thiệt hại khi xảy ra tổn thất.
- Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn ngân hàng thông báo ở nước
người xuất khẩu, thường là các ngân hàng có quan hệ đại lý với SGDI và có tài
khoản Nostro của SGDI.


- Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi
mở L/C, sửa đổi L/C sao cho khơng làm tổn hại tới lợi ích của doanh nghiệp…
* Đối với doanh nghiệp xuất khẩu:
- Tư vấn cho doanh nghiệp xuất khẩu nên yêu cầu bên mua mở cho mình
một L/C đảm bảo nhất.
- Tư vấn cho doanh nghiệp trong việc chọn ngân hàng mở L/C và ngân hàng
thanh toán nhằm đảm bảo cho người xuất khẩu khi giao hàng thì sẽ nhận được tiền
thanh tốn từ ngân hàng có uy tín và kinh doanh có hiệu quả.
- Tư vấn cho doanh nghiệp các điều kiện bất lợi của L/C, cách giải quyết khi
bộ chứng từ có sai sót.
Để có thể góp phần phịng ngừa rủi ro, ngay từ ban đầu ngân hàng không chỉ
làm tốt cơng tác thẩm định mà cịn tư vấn cho khách hàng những nội dung nằm

trong khả năng của ngân hàng ngay từ khi khách hàng ký kết các hợp đồng ngoại
thương. Với vốn kiến thức và kinh nghiệm có liên quan tới các phương thức thanh
toán, điều kiện ràng buộc…ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng để có những
điều khoản hợp đồng chặt chẽ giảm thiểu những bất lợi cho khách hàng và bản
thân ngân hàng. Hoạt động này cũng tạo ra mối quan hệ tốt giữa ngân hàng và
khách hàng. Đây có thể là biện pháp phịng ngừa rủi ro có hữu hiệu và uy tín của
ngân hàng ngày càng được nâng cao trong mắt của khách hàng.

3. Một số kiến nghị
3.1. Kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đem lại một cơ hội cho mỗi
quốc gia nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với khả năng tồn tại của
quốc gia đó. Các chính sách kinh tế của nhà nước có tác động đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu,
từ đó tác động đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Xuất phát từ yêu
cầu đó, thanh tốn xuất nhập khẩu nói chung và thanh tốn quốc tế nói riêng cần


phải có những chính sách phù hợp với từng thời kỳ để hoạt động ngày càng mở
rộng và phát triển, đồng thời tránh được rủi ro có thể xảy ra đối với các đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu và ngân hàng.
* Thứ nhất: Đối với Ngân hàng Nhà nước:
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp về TTQT trước hết là phương thức tín dụng
chứng từ: Cần có các văn bản luật hoặc dưới luật quy định rõ ràng, cụ thể trách
nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các bên tham gia cũng như xử lý pháp lý trong
trường hợp có xung đột pháp luật giữa các quy tắc quốc tế và luật pháp quốc gia
trong TTQT nói chung và phương thức tín dụng nói riêng vì L/C vẫn đang là
phương thức thanh toán chủ yếu ở nước ta hiện nay.Do đó, những quy định pháp lý
cần thiết phải có:
+ Trách nhiệm của các bên liên quan trong nước trong việc thực hiện các

quy ước, quy tắc TTQT: trường hợp phải trả tiền cho nước ngồi thì người mở L/C
phải có trách nhiệm nghĩa vụ phải trả nợ; nếu không đủ tiền phải nhận nợ bắt buộc
và chịu toàn bộ trách nhiệm pháp lý.
+ Phương pháp xử lý khi có xung đột giữa UCP500 và luật pháp Việt nam:
khi tiến hành hội nhập và nhất là khi Việt nam sắp gia nhập WTO thì Việt nam cần
nên tuân thủ theo UCP500, khi có xung đột xảy ra thì UCP sẽ chiếm ưu thế.
+ Xử lý trách nhiệm khi có tranh chấp hoặc thiệt hại: Chẳng hạn ngân hàng
mở L/C khẳng định bộ chứng từ hồn hảo phải thanh tốn cho người mở L/C hoặc
cơ quan nào đó cho rằng bộ chứng từ có lỗi có thể từ chối và khơng chấp nhận trả
tiền, không chịu nhận nợ nên ngân hàng mở l/C khơng có tiền trả nước ngồi.
Trong trường hợp phía nước ngoài khởi kiện và phần thắng thuộc về họ thì người
mở L/C hoặc cơ quan có ý kiến trên phải chịu trách nhiệm cả về vật chất và pháp
lý…
- Tăng cường đào tạo, tập huấn, phổ biến kiến thức về TTQT, đặc biệt
phương thức tín dụng chứng từ: Bên cạnh các kiến thức cơ bản như UCP500,


URR525, ISP..các luật và nghị định liên quan của Viêt nam thì ngồi ra cần có các
kiến thức sau: Luật pháp về TTQT của các nước có liên quan; kiến thức về thị
trường hàng hố và thị trường tài chính trên thế giới.
- Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách để các ngân hàng thương mại có
thể tạo lập nguồn tài chính từ tích luỹ nội bộ và các nguồn tài trợ quốc tế để đẩy
mạnh hiện đại hoá cơng nghệ thanh tốn quốc tế của các ngân hàng thương mại
Việt nam.
- Hoàn thiện và vận dụng vào thực tiễn cơng cụ khung sổ tay tín dụng theo
tiêu chuẩn quốc tế để quản trị thống nhất hệ thống chỉ tiêu báo cáo đồng bộ- Theo
đó cần thay QĐ493 danh nghĩa bằng cơ chế giám sát và quản trị rủi ro theo khung
sổ tay tín dụng ở tất cả các tổ chức tín dụng và nâng cao chất lượng thơng tin. Tiếp
tục tiến hành sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh q trình cổ phần hố các
Ngân hàng thương mại Nhà nước đồng thời gắn liền với việc niêm yết cổ phiếu

trên thị trường chứng khoán để phân tán rủi ro và đối mới cơ cấu sản phẩm dịch
vụ..
- Tăng cường hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng Nhà
nước( CIC) trong việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thơng tin
về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân
của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Muốn trung tâm hoạt động có chất
lượng tốt cần trang bị phương tiện thơng tin hiện đại cho trung tâm…
* Thứ hai: Bộ thương mại cần hồn thiện chính sách khuyến khích và kiểm
sốt hoạt động xuất nhập khẩu. Muốn vậy, cần tăng cường hiệu lực các văn bản và
thủ tục xuất nhập khẩu. Đồng thời Bộ thương mại cũng đưa ra nhiều biện pháp để
giúp hoạt động xuất khẩu được tiến hành thuận lợi như: giảm bớt các thủ tục hành
chính; tăng cường các hoạt động ngoại giao để đẩy mạnh thươngmại. Qua đó sẽ
góp phần giúp cho hoạt động thanh tốn của các ngân hàng phát triển theo.


3.2. Kiến nghị đối với NHĐT&PTVN:
- Cần tổ chức nhiều hơn nữa các lớp đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ, nhân
viên ngân hàng nói chung và với nhân viên phịng thanh tốn quốc tế nói chung.
- Cần phải có những chính sách đãi ngộ thích hợp với những thanh tốn viên
có trình độ chun mơn, có tâm huyết với nghề để khuyến khích và phát huy tài
năng của họ.
- Áp dụng cơng nghệ hiện đại hố ngân hàng, nhằm phục vụ tốt hơn cho
cơng tác có liên quan tới nghiệp vụ thanh tốn quốc tế. Bên cạnh đó cũng phải mở
những lớp bồi dưỡng cho cán bộ nhân viên trong việc hiểu và vận dụng các công
nghệ mới để tiến hành nghiệp vụ một cách thành thạo tránh xảy ra sai sót trong khi
thực hiện nghiệp vụ.
- Thường xuyên mời các chuyên gia cấp chiến lược của ngành để tranh thủ ý
kiến, bài nói hoặc lời khuyên cho các cán bộ chủ chốt của SGD theo từng chuyên
đề, từng thời kỳ và bối cảnh của nền kinh tế thị trường.
3.3. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh

doanh xuất nhập khẩu:
Rủi ro trong TTQT một phần cũng là do nguyên nhân chủ quan từ phía các
đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. Chính những yếu kém về nghiệp vụ đã khiến họ
là người phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề nhất. Vì thế, để có thể hạn chế và
ngăn ngừa rủi ro thì khơng thể khơng xuất phát từ phía khách hàng. Theo số liệu
của Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt nam có tới 70% giám đốc doanh
nghiệp vừa và nhỏ chưa được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương và thanh tốn
quốc tế trong khi 80-85% số doanh nghiệp có tham gia kinh doanh XNK hoặc uỷ
thác XNK. Chính vì kiến thức và trình độ kinh nghiệm của doanh nghiệp cịn yếu,
bên cạnh đó chưa nhận thức được rõ tính chất quan trọng, phức tạp của nghiệp vụ
nên còn chủ quan, tuỳ tiện, tắc trách và hậu quả là sai một ly đi một dặm. Do đó,


việc nâng cao trình độ ngoại thương và nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong các đơn
vị kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay là cấp thiết. Cụ thể:
- Các đơn vị tham gia XNK phải có cán bộ chuyên trách về XNK. Các cán
bộ này phải được đào tạo nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật pháp trong thương
mại quốc tế, có năng lực trong cơng tác và đặc biệt phải có đạo đức trong kinh
doanh.
- Trong quan hệ thanh toán với ngân hàng, các doanh nghiệp cần giữ vững
chữ tín, thực hiện cam kết với ngân hàng, thực hiện đúng các chỉ dẫn về các điều
khoản của L/C mà ngân hàng tư vấn. Khi xảy ra tranh chấp, doanh nghiệp cần phải
thông báo ngay cho ngân hàng và phối hợp với ngân hàng để tìm ra phương hướng
giải quyết, khơng nên quy trách nhiệm cho mình ngân hàng.
- Đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu khi lập bộ chứng từ cần phải
chú ý đến những đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị sai
sót và phải xuất trình bộ chứng từ theo đúng thời gian đã thoả thuận. Còn đối với
doanh nghiệp nhập khẩu, khi mở L/C cần phải thoả thuận cụ thể với người bán về
các khoản thanh toán, thời gian giao hàng và các chứng từ cần xuất trình; Các điều
kiện của L/C phải đảm bảo ngắn gọn, dễ hiểu, không nên đưa vào L/C những chi

tiết và quy cách kỹ thuật phức tạp; Khi chấp nhận bộ chứng từ để thanh toán cần
kiểm tra hàng và bộ chứng từ cẩn thận để tránh xảy ra tranh chấp về hàng hoá sau
này.
- Các doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế phải lường trước
được những bất lợi khi có tranh chấp xảy ra và bị khởi kiện. Do vậy trong hợp
đồng ngoại thương cần phải chọn luật áp dụng và khi được quyền chọn toà xử án
khi có tranh chấp nên chọn trọng tài trong nước xét xử để tránh rủi ro khi bị khởi
kiện ở nước ngoài các doanh nghiệp Việt nam bị hạn chế bởi vấn đề tài chính và
nghiệp vụ.


Khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, nếu các doanh nghiệp thực
hiện đúng các điều kiện trên thì giúp cho cơng tác của ngân hàng diễn ra nhanh
chóng và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng mới có hiệu quả.

KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, Việt Nam đã mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác kinh tế
với nhiều quốc gia trên thế giới, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu đáng


khích lệ trong đó phải kể đến hoạt động thanh toán quốc tế. Kim ngạch thanh toán
quốc tế liên tục tăng mạnh, xuất khẩu đạt được nhiều kết quả đáng kinh ngạc, hạn
chế được tình trạng nhập siêu. Điều này đã phần nào giúp cho nền kinh tế được
phục hồi, có bước để phát triển. Có được kết quả như vậy phải kể đến sự đóng góp
khơng nhỏ của các ngân hàng thương mại với tư cách là trung gian thanh toán quốc
tế, mà trong đấy chủ yếu là phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ.
Sở giao dịch I của NHĐT&PTVN trong thời gian vừa qua đã thực hiện
những hoạt động đổi mới các nghiệp vụ thanh toán cho phù hợp với yêu cầu của
khách hàng. Bằng uy tín, nguồn vốn, kinh nghiệm của mình trong hoạt động thanh
tốn quốc tế, đặc biệt trong phương thức TDCT, SGDI đã trở thành người bạn tin

cậy của các doanh nghiệp, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp,các tổng công ty. Song, trước sự đổi mới, sự biến đổi liên tục không ngừng
của hệ thống luật pháp, kinh tế thì các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung
và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng đang phải đối mặt với khơng ít trở
ngại, khó khăn trong việc thanh tốn tín dụng chứng từ. Mặc dù các ngân hàng đã
có nhiều biện pháp nhằm nâng cao cơng tác thanh tốn tín dụng nhưng rủi ro trong
thanh tốn tín dụng chứng từ vẫn là mối đe doạ tới hoạt động của ngân hàng và của
khách hàng. Vì vậy, địi hỏi ngân hàng phải cố gắng hơn nữa trong việc phòng
ngừa và hạn chế rủi ro; giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng nhằm phát huy
thế mạnh trong hoạt động kinh doanh đối ngoại, đồng thời nâng cao hình ảnh, uy
tín của ngân hàng khơng chỉ trong nước mà còn trên trường quốc tế. Hy vọng rằng,
những ý kiến của em được nêu ra trong bản luận văn tốt nghiệp này sẽ góp một
phần nhỏ bé trong việc hạn chế rủi ro trong thanh toán của Sở giao dịchI nói riêng
và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung..
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo Nguyễn Thị Liên
Hương, các anh chị phòng TTQT của SGDI- NHĐT&PTVN đã giúp em hoàn
thành luận bài luận văn này.


Em xin chân thành cảm ơn!.
Hà nội, tháng 6 năm 2006
Sinh viên
Lê Thị Thuỳ Nương.



×