Tải bản đầy đủ (.pdf) (223 trang)

Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 223 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA
Phản biện độc lập:


1. PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch
2. PGS.TS. Nguyễn Xuân Tế
Phản biện 1: PGS.TS. Trương Văn Chung
Phản biện 2: PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch
Phản biện 3: TS. Nguyễn Sinh Kế

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2012


1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản trong thời đại ngày nay là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó cũng là xu thế khách quan
trong tiến trình phát triển của nhân loại mà C.Mác và Ph.Ănghen đã vạch ra.
Nhưng xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu như thế nào? Bước đi,
phương pháp, mơ hình xã hội mới chưa có khn mẫu sẵn, đặc biệt trong thời
đại ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, chủ nghĩa tư bản đã có những thích nghi, đang khốc một bộ áo mới
nhiều màu sắc, cịn chủ nghĩa xã hội sau cơn thoái trào, khủng hoảng ở Liên
Xô và Đông Âu (hệ quả của một mô hình chủ nghĩa xã hội xơ cứng, biến
dạng) cũng đang tự đổi mới, khởi sắc với nhiều hình thức phong phú. Sự phát
triển của thế giới đương đại không chỉ diễn ra theo một con đường, một mơ
hình… vì vậy mỗi nước, mỗi dân tộc đều phải thực hiện những cuộc “thử
nghiệm” lịch sử, tự mình tìm ra mơ hình, con đường và phương pháp đi lên
chủ nghĩa xã hội cho phù hợp.
Điều đó khơng làm cho giá trị học thuyết Mác- V.I.Lênin bị suy giảm.
Những hạn chế lịch sử của lý thuyết này là điều đương nhiên; hạt nhân hợp lý

của nó xây dựng một xã hội tốt đẹp khơng hề bị xóa bỏ, thế hệ hiện nay và
mai sau phải trân trọng, kế thừa, bổ sung, sáng tạo cho phù hợp với thực tiễn.
V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo lý thuyết phát triển (lịch sử - tự nhiên
của các hình thái kinh tế - xã hội) của C.Mác - Ph.Ăngghen, tìm ra con đường
quá độ gián tiếp từ thực tiễn nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười. Đó là
con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước , “là mắt xích trung gian”, là “chiếc
cầu nhỏ vững chắc”, là “sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất” để đi lên chủ nghĩa
xã hội từ một nước kinh tế kém phát triển. Đây không phải là bài học thuần
Nga hay một giải pháp tình thế mà là bài học có giá trị quốc tế, đặc biệt đối
với những nước tiểu nông đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản.
Trong Chính sách Kinh tế mới, mà cốt lõi là việc thực hiện chủ nghĩa tư
bản nhà nước V.I.Lênin đã thể hiện tư duy biện chứng vô cùng sắc sảo. Từ việc
hiểu thấu suốt biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa
kinh tế và chính trị, giữa cái phổ biến và cái đặc thù…, V.I.LêNin đã kế thừa các
nhân tố tiến bộ của cái cũ, tận dụng những yếu tố tích cực của mặt đối lập là chủ


2

nghĩa tư bản, và đã làm nên “điều kỳ diệu Xô-viết” trong những năm 1921 1923 ở nước Nga..
Ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, chính sách Kinh tế mới (NEP) được
coi là một trong những cơ sở lý luận quan trọng cho đường lối đổi mới toàn diện
đất nước. Trong khi quán triệt tinh thần khoa học và cách mạng của NEP, Đảng
ta đã nhấn mạnh cần phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của V.I.Lênin về
chính sách Kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức
quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử - cụ
thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc.
Quá trình vận dụng NEP trọng tâm là phát triển chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở Việt Nam, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua đã

đạt được những kết quả tích cực.
Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố đầy năng động sáng tạo, đã đi đầu “xé
rào”, thử nghiệm sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước với nhiều hình thức tổ chức
kinh tế đa dạng như những “mắt xích trung gian”, đã thu hút mạnh vốn đầu tư của
nước ngoài, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện và có sức hấp dẫn hơn,
các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước ngày càng phong phú hơn trên tất cả
các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tín dụng, ngân hàng…
trong đó hình thức có hiệu quả là các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công
nghệ cao; các công ty cổ phần; trong nông nghiệp xuất hiện nhiều hình thức hợp
tác kiểu mới, trang trại hóa từng bước kết hợp với hợp tác hóa.
Sự thành cơng của các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao
các công ty cổ phần, hợp tác xã kiểu mới khơng chỉ ở hiệu quả kinh tế, mà cịn ở
hiệu quả xã hội. Từ đó, hàng trăm khu chế xuất, khu công nghiệp, các công ty cổ
phần, các trang trại, các tổ hợp tác, hợp tác xã đua nhau mọc lên như nấm trên
khắp các tỉnh thành ở nước ta thời đổi mới (đặc biệt được đẩy mạnh từ khi gia
nhập WTO). Sự lan tỏa đó chứng minh cho tính hợp quy luật, cho sức sống
mãnh liệt của học thuyết V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu mới trong
bối cảnh đương đại của lịch sử loài người. Nó chứng minh cho tính đúng đắn
của việc kết hợp hai mặt đối lập: sức mạnh kinh tế, kỹ thuật và tổ chức của tư
bản với sức mạnh chính trị của nhà nước kiểu mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và thành tựu thì phát triển chủ nghĩa
tư bản nhà nước ở nước ta nói chung cũng như ở thành phố Hồ Chí Minh nói


3

riêng vẫn cịn phải đối mặt với khơng ít những khó khăn, thách thức về lý luận
lẫn thực tiễn. Trong bối cảnh này, nghiên cứu sự phát triển chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở thành phố Hồ Chí Minh thơng qua một số mơ hình cụ thể để rút ra những
bài học kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp thiết thực, góp phần làm cho “sự

chuẩn bị vật chất” đầy đủ hơn cho chủ nghĩa xã hội là việc làm cần thiết và cấp
bách. Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Phát triển chủ
nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở thành phố Hồ
Chí Minh” làm luận án tiến sĩ triết học.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Luận điểm về chủ nghĩa tư bản nhà nước được V.I.Lênin đề xướng từ
đêm trước cách mạng Tháng Mười, được phát triển như một học thuyết và được
vận dụng ở nước Nga sau chính sách Cộng sản thời chiến. Chính sách Kinh tế
mới, mà chủ nghĩa tư bản nhà nước là bộ phận cấu thành chủ yếu đã trở thành yếu
tố quan trọng thu hút đầu tư nước ngồi, kích thích các thành phần kinh tế trong
nước, có tác dụng giải phóng và phát triển vượt bậc lực lượng sản xuất.
Ở Việt Nam, dưới mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp nhiều thập niên, chủ nghĩa tư bản nhà nước đã bị phê phán trong nhận thức
và bị loại trừ trong thực tiễn. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, chủ nghĩa tư bản
nhà nước đã trở thành vấn đề thời sự cả trên bình diện lý luận và cả trong thực tiễn
đổi mới kinh tế. Đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu, luận án, luận văn và các
bài viết về chủ nghĩa tư bản nhà nước đăng trên tạp chí và các phương tiện thơng
tin đại chúng, có thể khái qt theo những xu hướng sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chủ nghĩa tư bản nhà nước,
tính tất yếu và thực chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước, vai trò lịch sử của chủ
nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội… ở phương
diện này có các cơng trình khá tiêu biểu như: “Kinh tế tư bản nhà nước và công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Trương Thị Minh Sâm chủ
biên [130]; “Quan niệm của V.I.Lênin về phát triển kinh tế tư bản nhà nước” của
Đặng Hữu Toàn [172]; “NEP – Một cách tiếp cận mới mang tính nguyên tắc của
V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội” của Nguyễn Thế Nghĩa [110]; “Chính sách Kinh
tế mới của V.I.Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam” của Lê Thanh Sinh [
134]; “Về thành phần kinh tế tư bản nhà nước” của Trần Ngọc Hiên [54]; “Quan
điểm của V.I.Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước – Bước phát triển mới của lý
luận về chủ nghĩa xã hội” của Phan Xuân Sơn [138]; “Chủ nghĩa tư bản nhà



4

nước kiểu mới – địa vị lịch sử, các cơ hội lịch sử và công cuộc đổi mới” của Lưu
Hà Vỹ [202]; …
Thứ hai, nghiên cứu ứng dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước vào công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ở phương diện nghiên cứu này có các
cơng trình rất đáng chú ý: “Chính sách Kinh tế mới của V.I.Lênin và vận dụng
vào điều kiện ở nước ta” của Trần Ngọc Hiên [53]; “Mấy vấn đề về chủ nghĩa tư
bản nhà nước” của Vũ Hữu Ngoạn - Khổng Doãn Hợi [113]; “Chủ nghĩa tư bản
nhà nước ở nước ta hiện nay và xu hướng phát triển” của Trần Đăng Thịnh
[163]; “Vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của Nguyễn Xuân Quang [123]; “Tư
tưởng của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước và sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay” của Phạm Như Cương trong “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận một
đòi hỏi bức xúc hiện nay của đất nước và thời đại” [28]; “Chủ nghĩa tư bản nhà
nước – Từ quan niệm của V.I.Lênin đến sự vận dụng của Đảng ta trong công
cuộc đổi mới” của Nguyễn Văn Thức [164]; “Từ chính sách “cộng sản thời
chiến” đến chính sách Kinh tế mới” của Vũ Văn Phúc [120]; “Vận dụng tư
tưởng của V.I.Lênin về sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước theo tinh thần Đại
hội X của Đảng” của Ts. Nguyễn Văn Hậu [51]; và những cơng trình khác.
Các cơng trình nói trên đã phản ánh sự vận dụng những nguyên tắc của
NEP, đặc biệt là các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam (nền kinh tế tiểu nông quá độ lên chủ nghĩa xã hội) được thể
hiện bằng các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt
Nam nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng . Kết quả của các nghiên
cứu này được thể hiện trong các cơng trình tiêu biểu sau: “Nghiên cứu vận dụng
các hình thức kinh tế tư bản nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” của

Ban kinh tế thành ủy thành phố Hồ Chí Minh [2]; “Vấn đề vận dụng học thuyết
của V.I.Lê nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội ở
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của Nguyễn Chơn Trung [176] “Viện sĩ – tiến
sĩ Nguyễn Chơn Trung – Kinh nghiệm bước đầu của sự vận dụng mơ hình kinh
tế tư bản nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh” của Trương Giang Long [84];
“Mười lăm năm xây dựng và phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp ở
Việt Nam” [101] và các công trình khác.


5

Thứ tư, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phát triển chủ nghĩa tư bản
nhà nước: có một số hội thảo khoa học và các bài đăng trên tạp chí: “Thực trạng
đầu tư và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các khu chế xuất, khu công
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh” [166]; “Về lý luận, chính sách, giải pháp đối
với thành phần kinh tế tư bản nhà nước” v.v…
Ngồi ra, cịn có một số cơng trình của các học giả đề cập đến xu hướng
vận động của chủ nghĩa tư bản ngày nay: “Nhận thức về thời đại ngày nay” của
Vũ Văn Hiền [55]; “C.Mác, V.I.Lênin với chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày
nay” của Nguyễn Thanh Tuấn [181]; “Thế giới phẳng” của Thomas Friedman
[44]; “Thế giới cong” của David M.Smick [132], “Chủ nghĩa tư bản chống chủ
nghĩa tư bản” của Michel Albert [1], “Nhìn về tồn cầu hóa” của George
Soros[137], “Triết học mở và xã hội mở” của Maurice Cornforth.
Như vậy, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản nhà
nước và sự vận dụng nó ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Các cơng trình đó đã
phản ánh các phương diện khác nhau (chủ yếu dưới góc độ kinh tế - chính trị học)
về chủ nghĩa tư bản nhà nước và sự phát triển nó ở thành phố Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống
dưới cách tiếp cận triết học - kinh tế về sự phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước
ở thành phố Hồ Chí Minh.

Cơng trình này góp phần làm sáng tỏ sự phát triển chủ nghĩa tư bản nhà
nước ở thành phố Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan, dưới góc nhìn biện
chứng (biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và
chính trị, biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù…) đặc biệt chỉ ra những mâu
thuẫn, những nghịch lý nảy sinh trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản nhà
nước trong đó có vai trị đặc biệt quan trọng nhân tố chủ quan (Đảng và Nhà nước )
trong việc kết hợp hai mặt đối lập - sức mạnh kinh tế, kỹ thuật của tư bản và sức
mạnh chính trị của nhà nước kiểu mới một cách có nguyên tắc để đảm bảo vừa rút
ngắn, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình quá độ gián tiếp ở
nước ta, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; giải phóng các nguồn lực và thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển trong điều kiện tồn cầu hóa hiện nay.
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận án
+ Mục đích của luận án
Trên cơ sở làm sáng tỏ lý luận chung về chủ nghĩa tư bản nhà nước, luận án
phân tích thực trạng vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh


6

với những hình thức tổ chức kinh tế mới đa dạng, phong phú, qua đó đề xuất những
giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả loại hình kinh tế tư bản nhà nước, góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh.
+ Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích nói trên, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ
nghĩa tư bản của C Mác - Ph.Ăngghen, lý luận phát triển chủ nghĩa tư bản nhà
nước của V.I.Lênin và sự vận dụng sáng tạo lý luận đó của Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản Việt Nam vào thực tiễn nước ta.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước
(thành tựu, yếu kém và nguyên nhân của chúng); chỉ ra những nghịch lý, mâu thuẫn

trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng để góp phần thúc
đẩy kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước ở thành
phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án trình bày một số vấn đề chung về chủ nghĩa tư bản nhà nước
dưới góc độ triết học - kinh tế.
Tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản nhà nước
kiểu mới của V.I.Lênin với tư cách là “khâu trung gian” tất yếu, là phương
thức phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua
chế độ tư bản ở những nước xuất phát điểm thấp.
Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ thời kỳ đổi mới(1986) đến nay và
phạm vi nghiên cứu chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh.
Những giải pháp đề xuất nhằm phát triển kinh tế-xã hội ở thành phố
Hồ Chí Minh chỉ mang tính định hướng.
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
+Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin
(chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử) và tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhất là học thuyết của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
về “Chính sách Kinh tế mới” và quan điểm của Đảng ta về phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.


7

+ Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận án, nghiên cứu sinh sử dụng
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành kết hợp phương pháp nghiên cứu liên

ngành. Đồng thời, luận án còn sử dụng các phương pháp: phân tích - tổng hợp,
logic - lịch sử, diễn dịch - quy nạp, phương pháp khảo sát, thống kê, phương
pháp hệ thống hóa và khái quát hóa v.v…
6.Những đóng góp mới của luận án
- Luận án làm sáng rõ lý luận chủ nghĩa tư bản nhà nước của V.I.Lênin là
sự nối tiếp logic dự báo của C.Mác, Ph.Ăngghen về con đường quá độ gián tiếp
lên chủ nghĩa xã hội.
- Luận giải học thuyết chủ nghĩa tư bản nhà nước là “khâu trung gian” tất
yếu trong tiến trình quá độ gián tiếp dưới góc nhìn biện chúng.
- Chỉ ra sự vận dụng sáng tạo học thuyết chủ nghĩa tư bản nhà nước với
những hình thức phong phú ở một địa phương điển hình - thành phố Hồ Chí
Minh.
7.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận: luận án làm sáng tỏ lý luận chủ nghĩa tư bản nhà nước của
V.I.Lênin trong tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển sáng tạo
lý luận này ở Việt Nam, ở thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh đổi mới đất
nước nói riêng và của thế giới nói chung.
Về thực tiễn: nội dung nghiên cứu và những kết quả đạt được của luận án có
thể được làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách về phát triển kinh tế
tư bản nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài v.v… chúng cũng là những tài liệu có ích
cho việc giảng dạy mơn triết học và kinh tế học, đồng thời làm tài liệu tham khảo cho
những cơng trình nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu gồm: phần mở đầu; ba chương với chín tiết; phần
kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.


8

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1.QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ VẤN ĐỀ “XĨA
BỎ CHẾ ĐỘ TƯ HỮU”, THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ CƠNG HỮU VÀ VẤN ĐỀ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN

1.1.1.Xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ cơng hữu là q trình có
tính quy luật trên cơ sở phát triển chín muồi của lực lượng sản xuất
Bằng quan niệm duy vật về lịch sử, cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu đời sống xã hội, đặc biệt C.Mác
mổ xẻ phương thức sản xuất đương thời - phương thức sản xuất tư bản và đã
vạch trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản, chỉ ra những
mâu thuẫn cơ bản trong lịng nó. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày
càng mang tính chất xã hội hóa cao trong khi quan hệ sản xuất lại mang tính
chất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn cơ bản này của chủ nghĩa tư bản là
nguồn gốc đẻ ra hàng loạt mâu thuẫn khác, trong đó có mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản.
Từ đó, C.Mác và Ph.Ăngghen kết luận rằng, xu thế phát triển khách quan
của xã hội loài người là xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi một xã
hội mới mà C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Vào lúc giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản còn chiếm địa vị thống trị
tuyệt đối ở châu Âu và ra sức mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó sang các châu
lục khác trên thế giới để tìm kiếm thị trường, để bóc lột sức lao động, đặt ách nơ
dịch đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động các dân tộc, thì C.Mác,
Ph.Ăngghen đã nhận thấy sự kết thúc vai trị cách mạng, tính chất tiến bộ của
nó, đã thấy một xu hướng cách mạng mới, một lực lượng cách mạng mới cao
hơn sẽ phủ định nó, đã thấy tương lai, triển vọng thuộc về chủ nghĩa cộng sản và
con đường đi tới tất yếu là cách mạng vô sản. Quả thật, đó là một dự báo khoa
học vĩ đại, một tư tưởng cách mạng vạch thời đại. Hơn hẳn những bậc tiền bối
của chủ nghĩa xã hội không tưởng, dù là những nhà không tưởng vĩ đại, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã sớm nhận thấy chủ nghĩa xã hội không phải là một lý tưởng

đạo đức tốt đẹp mà cuộc sống phải khn theo, mà nó là kết quả tất yếu của sự
vận động hiện thực. Giai cấp vô sản là một giai cấp cách mạng mà sứ mệnh lịch


9

sử thế giới của nó là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848 - Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của phong trào vơ sản thế giới do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo đã luận
chứng khoa học đầy sức thuyết phục làm cơ sở hình thành kết luận chính trị và
dự báo tương lai đó. Tuyên ngôn là tác phẩm đánh dấu giai đoạn trưởng thành
của chủ nghĩa Mác. Dưới hình thức lý luận, Tuyên ngơn là sự tổng kết và nâng
cao những tìm tịi khoa học mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiến hành trong giai
đoạn đầu xây dựng học thuyết của mình. Từ Phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen (1843), Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh (1844), Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 đến Gia đình thần thánh (1845) và Những nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản (1847), …, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển một cách
nhất quán tư tưởng về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản, về tính tất
yếu của sự sinh thành chủ nghĩa xã hội thông qua cách mạng xã hội. Khơng có
sự chuẩn bị tất yếu từ những tác phẩm này thì khơng thể có sự nhảy vọt về lý
luận khoa học trong Tun ngơn. Mặt khác, khơng có sự phát triển thực tiễn của
phong trào cách mạng vô sản ở phương Tây từ năm 1830 đến năm 1848 thì cũng
khơng thể có được những phân tích và tổng kết chính trị sắc bén của C.Mác và
Ph.Ăngghen thể hiện trong “Tun ngơn của Đảng Cộng sản”. Sau này, ở trình
độ thành thục và chín muồi của chủ nghĩa Mác, với những tác phẩm tiếp theo
như Đấu tranh giai cấp ở Pháp, Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị,; Tư
bản; đặc biệt là những tác phẩm viết sau sự kiện Công xã Paris như Phê phán
Cương lĩnh Gôta (1875); Chống Đuyrinh (1878) cho đến những tác phẩm cuối
đời, C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn không ngừng làm sáng tỏ và đạt tới sự phân tích
sâu sắc, triệt để hơn luận thuyết về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội và chủ

nghĩa cộng sản. Còn chủ nghĩa cộng sản ấy sẽ như thế nào, mọi chi tiết và mọi
mối liên hệ của nó ... trong tương lai sẽ ra sao thì, theo Ph.Ăngghen, đó là cơng
việc sẽ cịn phải tiếp tục nghiên cứu.
Trong các tác phẩm của mình, sau khi đã khẳng định xu hướng phát triển
của xã hội loài người là chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi chủ nghĩa
cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên các đặc trưng cơ bản của xã hội ấy.
Trong khi nêu lên các đặc trưng của xã hội tương lai, C.Mác và Ph.Ăngghen đặc
biệt nhấn mạnh đến việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản vì tất cả những đặc trưng


10

khác của chủ nghĩa cộng sản đều là những hệ quả bắt nguồn từ sự xóa bỏ đó,
đều là những đặc trưng phát sinh từ việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản ấy.
Vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu được C.Mác và Ph.Ăngghen đặt ra một cách
toàn diện, và được luận chứng rất khoa học, có sức thuyết phục hơn hẳn cách đặt
vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu của những nhà chủ nghĩa xã hội khơng tưởng,
thơng qua trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và đòi hỏi quan
hệ sản xuất thích ứng. Quy luật chung nhất này (quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất) quy định sự vận động phát
triển tự nhiên, của lịch sử nhân loại từ thấp đến cao. Nội dung cơ bản, tính khoa
học, cách mạng của “Tuyên ngôn” được công bố vào năm 1848 là dựa trên sự
nhận thức và phân tích sâu sắc thấu đáo nội dung, yêu cầu của quy luật trên
trong xã hội tư bản vào khoảng giữa thế kỷ XIX.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra rằng: sự cách mạng hóa cơng cụ
sản xuất làm giai cấp tư sản hồn tồn chiến thắng chế độ phong kiến. Nhưng,
chính sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng khoét sâu mâu thuẫn giữa
q trình sản xuất mang tính xã hội với chế độ sở hữu mang tính tư nhân. Quan
hệ sản xuất này trở nên cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi sự đối
phó, điều chỉnh trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được

mâu thuẫn này và tất yếu sẽ dẫn đến sự diệt vong của quan hệ sở hữu tư sản, sự
diệt vong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như sự diệt vong đã
xảy ra với các phương thức sản xuất trước đó. Nếu như xã hội tư sản hiện đại
đã từng sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, sự thay thế
của đại công nghiệp cho chế độ ruộng đất, phường hội phong kiến và ngay
cả với công trường thủ cơng là một tất yếu khơng tránh khỏi, thì sự phát
triển của lực lượng sản xuất hiện đại trong lòng xã hội tư bản cũng tất yếu
đẩy chủ nghĩa tư bản đến chỗ diệt vong, nhường chỗ cho một hình thái mới
cao hơn là chủ nghĩa cộng sản. Đó là lôgic tất yếu của lịch sử.
Song song với việc vạch ra tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài
người dưới tác động của quy luật khách quan, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xác
định rõ lực lượng cơ bản tiến hành cuộc cách mạng xã hội ấy là giai cấp vô sản,
đội ngũ những người công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, là sản
phẩm của nền đại công nghiệp, là giai cấp triệt để cách mạng, phong trào đấu
tranh của họ mưu cầu lợi ích cho khối đại đa số. Từ những tư tưởng cơ bản trên,
“Tuyên ngôn” khẳng định rằng “giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ


11

khí giết mình; nó cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy; những cơng nhân
hiện đại, những người vô sản.” [87,549]. Giai cấp tư sản sinh ra những người
đào huyệt chơn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai
cấp vô sản đều là tất yếu như nhau.
Ngoài việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, C.Mác Ph.Ăngghen cịn chỉ ra phương thức xóa bỏ chế độ tư hữu một cách tích cực qua
một số tác phẩm của mình. Các ơng cho rằng cần phải phê phán cái cũ, cái phi
nhân tính, cái trật tự xã hội hiện hành nhưng không phải bằng ảo tưởng mà dựa
trên cơ sở hiện thực.
Trong “Lời nói đầu” nổi tiếng của tác phẩm “Phê phán Triết học pháp
quyền của Hégel” (1843 - 1844), đánh dấu bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm

sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng
sản, C.Mác đã nhận định rằng: phê phán tôn giáo “ở thượng giới”, giỏi lắm chỉ
cởi được sự tha hóa trong lĩnh vực tinh thần - tâm linh. Trái lại, sự tha hóa của
quần chúng lao động “ở cõi trần” trong sự “nghèo nàn hiện thực” gắn liền với
chế độ tư hữu thì phải “phê phán pháp quyền”, “phê phán chính trị” - một sự phê
phán kiểu mới không dừng lại ở “phẫn nộ” mà là “vạch trần”, một sự “phê phán
giáp lá cà” mà theo C.Mác điều quan trọng là phải “đánh trúng nó” tức là đánh
trúng vào cái trật tự tư sản - trật tự dựa trên sở hữu tư nhân cùng với đối kháng
giai cấp cuối cùng trong lịch sử.
Trong “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, C.Mác cũng đã nhấn
mạnh: muốn xóa bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu thì tư tưởng về chủ nghĩa cộng
sản là hồn tồn đủ rồi. Cịn muốn xóa bỏ chế độ tư hữu trong thực tế thì phải có
hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực. Lịch sử sẽ đem đến theo mình hành
động cộng sản chủ nghĩa ấy. Đồng thời trong tác phẩm này, C.Mác đã lột tả
những cội rễ của lao động bị tha hóa trong tác động qua lại có tính nhân quả với
hàng loạt các nhân tố gắn liền với chế độ tư hữu tư sản như : tư bản, tiền công,
lợi nhuận, cạnh tranh,... Biểu hiện đầu tiên của lao động bị tha hóa nằm ngay ở
quá trình lao động, và đụng chạm đến bản chất của sở hữu và phân phối. Người
công nhân sản xuất ra các vật phẩm, nhưng chúng không thuộc về họ, mà của
người khác. Toàn bộ sức lực và cuộc sống của họ dành cho lao động, cịn thành
quả lao động thì biến thành cái xa lạ với họ, tức thành cái bị tha hóa, tách khỏi
người sản xuất.


12

Tha hóa trong q trình lao động đã dẫn đến tha hóa ở bình diện rộng hơn
– tha hóa bản thân con người, tha hóa lồi, hay đời sống có tính lồi của con
người. Cuối cùng, sự tha hóa trong lao động, trong đời sống có tính lồi được
hiểu như tha hóa lẫn nhau (absonderung) giữa người với người, xét theo tổng

thể các quan hệ xã hội.
Vậy đâu là cơ sở xã hội của tha hóa? C.Mác trở về phân tích nguồn gốc
của tư hữu, C.Mác nhận thấy rằng nội dung của khái niệm lao động bị tha hóa
được xem xét như kết quả vận động của sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, sự phân tích
tiếp theo cho thấy mặc dầu sở hữu tư nhân vừa là cơ sở, vừa là nguyên nhân của
lao động bị tha hóa, song trong thực tế thì ngược lại; nó hóa ra là kết quả của lao
động bị tha hóa.
C.Mác cũng nêu lên tư tưởng xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu, sự
phủ định nó nhằm mục tiêu tiến bộ xã hội. Như vậy để khắc phục tha hóa lao
động, theo C.Mác, cần thủ tiêu một cách tích cực cơ sở xã hội làm nảy sinh và
gia tăng sự tha hóa đó. Xã hội hiện tại, với những mâu thuẫn nảy sinh trong
lịng nó và với những điều kiện hiện thực do nó sinh ra, đã tạo tiền đề cho q
trình này, q trình giải phóng cơng nhân dưới hình thức chính trị.
Trong vai trị của nhà giải phẫu xã hội, C.Mác nhận thấy cơ sở của những
nghịch lý vừa nêu nằm ở chế độ tư hữu. Ông khảo sát quá trình này trong những
biểu hiện đơn giản dễ thấy của nó, trong quan hệ giữa người với người – quan
hệ sở hữu, phân phối sản phẩm lao động, rút ra từ đây tính tất yếu của xung đột
xã hội dưới chủ nghĩa tư bản, cũng như tính tất yếu của đổi mới xã hội một cách
tích cực. C.Mác tiên đốn về sự xóa bỏ chế độ tư hữu bằng chính sự vận động tự
thân của nó.
C.Mác chưa gọi học thuyết của mình là chủ nghĩa cộng sản, hay chủ nghĩa
xã hội, nhưng ơng xem nó là mục tiêu mà con người hướng tới , cùng với q
trình xóa bỏ chế độ tư hữu một cách tích cực. “Xóa bỏ tích cực” được ngầm
hiểu là xóa bỏ về căn bản quan hệ “tha hóa” giữa người với người trong q
trình hoạt động sản xuất, hoạt động sống nói chung, nhưng vẫn lưu giữ các yếu
tố phù hợp trong điều kiện lịch sử mới, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển,
nghĩa là khơng xóa bỏ sạch trơn, xóa bỏ theo kiểu thủ tiêu của chủ nghĩa hư vơ.
Xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu tức là xóa bỏ sự tha hóa con người, là
sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người và vì con
người. Sự “quay trở lại” bản chất con người chính là giải quyết tình trạng tha



13

hóa, mà trước hết là tha hóa lao động. Con người khơng chỉ có thể, mà cần phải
thực hiện sự xoay chiều ấy như một mệnh lệnh lịch sử, như nhiệm vụ đặt ra cho
bản thân trong cuộc hành trình giải phóng.
Sự “quay trở lại” tích cực mà C.Mác nhấn mạnh khơng phải là quay trở
lại một cách máy móc, theo hình ảnh vịng trịn khép kín, mà theo hình ảnh vòng
xoắn ốc, hàm chứa yếu tố lọc bỏ, kế thừa, phát triển. Chính cách tiếp cận như
thế đã làm sáng tỏ tư tưởng biện chứng về phát triển xã hội ở C.Mác. Chủ nghĩa
cộng sản, theo C.Mác, với tính cách là việc con người hồn tồn quay trở lại
chính mình với tính cách là con người xã hội, nghĩa là có tính chất người – sự
quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của
sự phát triển trước đó.
Chủ nghĩa cộng sản đó có được phải bằng cuộc đấu tranh giai cấp, cuộc
đấu tranh cuối cùng sẽ nổ ra thành một cuộc cách mạng mà trong đó giai cấp vô
sản sẽ lật đổ giai cấp tư sản bằng bạo lực và thiết lập sự thống trị của mình, để
xây dựng một xã hội mới - xã hội cộng sản, đồng thời vạch ra cương lĩnh sách
lược cho cách mạng vô sản.
Giai đoạn thứ nhất trong cách mạng vô sản là giai đoạn giành lấy dân
chủ [87, 567]. Mục đích trước mắt của các Đảng cộng sản và giai cấp vô sản
là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản giành lấy chính
quyền [106, 558]. Cuộc cách mạng chính trị giành chính quyền chỉ là tiền đề
để giai cấp vô sản thực hiện cuộc cách mạng về kinh tế. Đó là xóa bỏ chế độ
tư hữu tư sản, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển.
“Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước
một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả
những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong giai cấp vô sản

đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng lực
lượng sản xuất lên [87, 567]. Và “Tuyên ngôn” cũng đã phác họa ra xã hội
cộng sản trong tương lai - đó là xã hội khơng cịn giai cấp, khơng cịn nhà
nước, một liên hợp của người lao động phát triển toàn diện xuất hiện. Trong
liên hợp ấy, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người.
Như vậy, C.Mác dạy chúng ta rằng: Trong tiến trình của cách mạng vơ
sản, trước hết giai cấp vơ sản giành lấy chính quyền, sau đó sử dụng sự thống trị


14

của mình để từng bước một đoạt lấy tồn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản vào
trong tay nhà nước vơ sản.
Giai cấp vơ sản khơng xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, chỉ xóa bỏ sở hữu
tư sản nhưng từng bước một. Từng bước một chính là tư tưởng về thời kỳ quá
độ, thời kỳ này có rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nó là cơ sở, nguồn gốc
của sản xuất hàng hóa, của nền kinh tế thị trường mà bây giờ chúng ta thực hiện.
Như vậy, vấn đề xóa bỏ tích cực chế độ tư hữu tư sản, thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất với vấn đề xóa bỏ giai cấp, xây dựng một xã hội
khơng có giai cấp , khơng có áp bức bóc lột, với việc giải phóng con người , xóa
bỏ mọi sự tha hóa của con người do chế độ tư hữu đem lại và qua đó giải phóng
cho tồn nhân loại là tư tưởng gắn liền với C.Mác - Ph.Ăngghen hầu như suốt cả
cuộc đời.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ sở hữu tư sản có thể tiến hành lập tức hay phải có
điều kiện nào? C.Mác, Ph.Ăngghen đã nêu ra điều kiện ở hàng loạt các tác phẩm
trước và sau “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.
Trong khi nhấn mạnh đến việc xóa bỏ chế độ tư hữu, C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đặc biệt lưu ý rằng khơng phải khi nào cũng xóa bỏ được
chế độ tư hữu, rằng khơng thể xóa bỏ ngay lập tức chế độ tư hữu, cũng y như

không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức
cần thiết để xây dựng một nền kinh tế cơng hữu. Đó là vì “khơng một hình
thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình
thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những
quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những
điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng
bản thân xã hội cũ” [89, 15-16].
Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã lưu ý việc xóa bỏ sự đối kháng giai
cấp, xóa bỏ chế độ tư hữu là một quá trình lâu dài chứ khơng phải là hành động
nhất thời, chốc lát của những người cộng sản sau khi giành chính quyền và việc
xóa bỏ nó cũng khơng thể chủ quan, nóng vội. Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế
- triết học năm 1844” C.Mác đã cảnh báo như một “tiên tri” về cái gọi là chủ nghĩa
cộng sản “thô thiển” kiểu “bình qn”, “trại lính” nếu người ta tiến hành thủ tiêu
chế độ tư hữu một cách duy ý chí.
Tiếp theo, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” do C.Mác và Ph.Ăngghen
viết chung (1845 – 1846) lần đầu tiên quy luật cơ bản chi phối đời sống xã hội –


15

quy luật về tương quan biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
được phát hiện, các ông lại một lần nữa cảnh báo về nguy cơ vội vã xóa bỏ chế
độ tư hữu đối với những người cộng sản tương lai bất chấp quy luật khách quan.
Các ơng đã sáng suốt dự đốn rằng nếu chưa có “tiền đề tuyệt đối cần thiết” là
sự phát triển chín muồi của lực lượng sản xuất, thì hậu quả thật ghê gớm khó
lường khi áp dụng chế độ cơng hữu. Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng … “tất cả sẽ
chỉ là một sự nghèo nàn đã trở thành phổ biến, mà với sự thiếu thốn thì cũng bắt
đầu trở lại cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết, thế là người ta lại không
tránh khỏi rơi vào cũng sự ti tiện trước đây”.
Đến tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” do Ph.Ăngghen

viết ngay vào đêm trước của “Tuyên ngôn” với tư cách một bản dự thảo cương
lĩnh của Liên đoàn những người cộng sản (vào cuối 10/1847), Ph.Ăngghen cũng
đã nhấn mạnh : thủ tiêu chế độ tư hữu là một cách nói vắn tắt và tổng quát nhất
về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội, việc cải tạo này là kết quả phát triển tất
yếu của sự phát triển công nghiệp. Cho nên những người cộng sản hoàn toàn
đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế độ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu của mình.
Như vậy Ph.Ăngghen đã nhắc lại ngay lập tức ở đây cái “tiền đề tuyệt đối
cần thiết” để xã hội hóa sở hữu các tư liệu sản xuất mà ông và C.Mác đã từng
nêu trong “Hệ tư tưởng Đức” rằng “thủ tiêu chế độ tư hữu” phải là kết quả tất
yếu của sự phát triển công nghiệp.
Điều kiện xóa bỏ chế độ tư hữu hồn tồn nằm trong quan hệ biện chứng
sinh động giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất mà Ph.Ăngghen đã tổng kết
đầy sức thuyết phục: “Bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ chiếm hữu cũng
đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới” [87, 504].
Chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào tạo nên được
một khối lượng tư liệu sản xuất cho việc cải tạo đó thì khi ấy thủ tiêu được chế
độ tư hữu.
Việc thủ tiêu chế độ tư hữu không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan thuần
túy của những người cộng sản, mà điều kiện cơ bản để thực hiện nhiệm vụ đó là
trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, chừng nào “cho phép sản
xuất với một quy mơ có thể khơng những đủ cung cấp cho mọi người mà còn
thừa sản phẩm để tăng thêm tư bản xã hội và tiếp tục phát triển lực lượng sản
xuất hơn nữa … đến mức khiến cho có thể sản xuất đủ sản phẩm cho mọi người,


16

và khiến cho chế độ tư hữu trở thành xiềng xích ngăn cản sự phát triển của lực
lượng sản xuất” [87, 504 ].
Và các ông cũng lưu ý “trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy

(biện pháp xóa bỏ chế độ tư hữu - tác giả) dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều. Tức
là phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể khi thực hiện xóa bỏ chế độ tư hữu
chứ không nên giáo điều. Cùng với việc thủ tiêu chế độ tư hữu thay cho xã hội
tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên
hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển tự do
cho mọi người. Đó chính là mục tiêu cao cả của những người cộng sản. Chính
xuất phát và nhất quán với những quan điểm duy vật lịch sử ấy nên dù khẳng
định chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản, nhưng
C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn luôn nhấn mạnh rằng cuộc cách mạng cộng sản
chủ nghĩa chỉ có thể nổ ra và giành được thắng lợi ở nơi nào mà chủ nghĩa tư
bản đã đạt đến trình độ phát triển cao nhất của nó, cụ thể, vào thời ấy, theo
Ph.Ăngghen, là các nước văn minh như Anh, Mỹ, Pháp... Thậm chí “trong
mỗi một nước đó, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển nhanh hay
chậm, là tùy ở chỗ nước nào trong những nước đó có cơng nghiệp phát triển
hơn, tích lũy được nhiều của cải hơn và có nhiều lực lượng sản xuất hơn. Cho
nên ở Đức, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ thực hiện chậm hơn và khó khăn
hơn, cịn ở Anh thì nhanh hơn và dễ dàng hơn” [90, 472 ].
Như vậy C.Mác và Ph.Ăngghen đã vượt qua các bậc tiền bối chủ nghĩa xã
hội không tưởng, đã sớm nhận thấy chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là một lý
tưởng đạo đức tốt đẹp mà cuộc sống phải tn theo, mà nó cịn là kết quả tất
yếu của sự vận động hiện thực, của sản xuất. Giai cấp vô sản là giai cấp cách
mạng mà sứ mệnh lịch sử thế giới của nó là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Giá trị bền vững trong lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã
hội là ở chỗ, nó là khoa học chứ khơng phải là mộng tưởng, không tưởng, là
cách mạng chứ không phải cải lương. Lý luận khoa học này đã soi sáng con
đường giải phóng giai cấp vơ sản và tồn thể xã hội loài người, con đường đi tới
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như một tất yếu lịch sử. Con đường phủ
định biện chứng chủ nghĩa tư bản bằng cách mạng và phải là tiến trình lịch sử
lâu dài chứ không phải “một sớm một chiều”.



17

Qua nghiên cứu hàng loạt các tác phẩm kinh điển Mácxít, chúng ta càng
hiểu hơn cơng thức “xóa bỏ chế độ tư hữu” trong tác phẩm có tính chất cương
lĩnh của giai cấp vô sản-“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” không phải là “nông
nổi, ảo tưởng” của thời hai ông còn “trẻ người, non dạ”, mà tư tưởng này là sự
nối tiếp logic của các tư tưởng mà các ông đã trình bày trước đó. Hai mươi lăm
năm sau, rồi đến bốn mươi năm sau “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, trong hai
lời tựa viết cho tái bản (bằng tiếng Đức 1872 và bằng tiếng Pháp 1888), các tác
giả Tuyên ngôn vẫn một mực khẳng định rằng “… xét về đại thể, những nguyên
lý tổng quát trình bày trong Tuyên ngơn này vẫn cịn hồn tồn đúng dù rằng
những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”, nếu Tun ngơn được viết
lại “thì về nhiều mặt cũng sẽ viết khác đi”, vì đại cơng nghiệp đã có những bước
tiến hết sức lớn trong hai mươi năm qua.
Từ toàn bộ vấn đề đã nêu trên , có thể rút ra kết luận rằng các tác giả kinh
điển C.Mác và Ph.Ăngghen không hề đề ra một con đường cụ thể, bất di, bất
dịch để xây dựng chủ nghĩa xã hội mà mọi người nhất nhất phải tuân theo ở mọi
nơi mọi lúc. Các ông không bao giờ xem học thuyết của mình là hồn chỉnh và
đã xong xi hẳn. Học thuyết ấy càng khơng phải là những tín điều, khơng phải
là “cẩm nang thần kỳ”, mà nó chỉ như những gợi ý về mặt phương pháp, là kim
chỉ nam cho hành động sáng tạo cách mạng. Nó khơng có sẵn và đầy đủ cho
mọi câu trả lời đối với mọi tình huống trong cuộc sống.
Khi thực tiễn cách mạng phát triển vượt qua những kiến giải khoa học đã
có, làm cho một số luận điểm nào đó bị lạc hậu trước những địi hỏi mới của
phong trào cách mạng thì các ông đã kịp thời tự phê phán, đưa ra những giải
thích và bổ sung mới.
Chính các ơng đã nghiêm túc thực hiện việc bổ sung vào lý luận của mình
cho phù hợp với thực tiễn. Với sự biến động của thực tiễn từ sau Công xã Paris,

các ông đã 7 lần bổ sung cho các lời tựa của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
để tác phẩm này không mất đi sức sống và giá trị cách mạng của nó. Vào năm
cuối đời (1895), trước khi mất, Ph.Ăngghen đã tự đánh giá rằng, dự báo nêu ra
tên đây không tránh khỏi sự giản đơn, rằng bản thân ông và cả C.Mác đều không
thấy “trạng thái phát triển kinh tế trên lục địa lúc bấy giờ cịn rất lâu mới chín
muồi để xóa bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”[94, 761]. Sự điều chỉnh
trên khơng hề có tính chất từ bỏ những quan điểm, nguyên tắc cũng như lập
trường kiên định cách mạng của các ơng về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội và


18

thời kỳ quá độ, mà chỉ là sự điều chỉnh những vấn đề cụ thể về dự báo khả năng,
thời điểm và các vùng không gian bùng nổ cách mạng vơ sản nhằm đi tới xóa bỏ
chế độ tư bản chủ nghĩa.
C.Mác, Ph.Ăngghen cũng dự báo trung tâm cách mạng sẽ chuyển sang
nước Nga và tập trung nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội ở Nga, chỉ rõ khả
năng rút ngắn của bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa không phải là vấn đề riêng biệt, chỉ thuần túy đặc thù Nga vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX mà khả năng này bao quát một phạm vi lịch sử rộng lớn hơn
nhiều, nó được đặt ra đối với những nước có hồn cảnh tương tự như nước Nga,
những nước mà kết cấu kinh tế kiểu công xã nông thơn đã từng có một q trình
phát triển khá bền vững đang còn tồn tại những tàn dư nặng nề của chế độ phong
kiến gia trưởng (các nước phương Đông). Phương Đơng là khu vực có khả năng
thực hiện bước quá độ lịch sử này, nhưng không phải đơn độc, biệt lập mà phải
đặt trong mối liên hệ hỗ trợ, thúc đẩy không tách rời khỏi bước tiến của các
phong trào cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây (dưới sự giúp
đỡ của các nước này).
C.Mác, Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh tới hàng loạt những điều kiện chi
phối khả năng quá độ này. Những điều kiện ấy mang nội dung vật chất khách

quan và luôn vận động biến đổi. Do vậy, việc vận dụng nó khơng thể cứng nhắc
máy móc và giáo điều. Tuy có những điều chỉnh như trên, song điều cốt lõi mà
đến ngày “nhắm mắt xi tay” các ơng khơng hề thay đổi, đó là : lịch sử loài
người tất yếu đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Cuộc cách mạng vô
sản là con đường đi tới của tất cả các dân tộc, khơng có sự lựa chọn nào khác.
Dự báo ấy đã được hiện thực hóa bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga
và V.I.Lênin đã phát triển, đã thực hành sáng tạo luận thuyết khoa học về tính
tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa và vấn đề phát triển “rút ngắn”
* Dự báo của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản và vấn đề phát triển “rút ngắn”
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội là nền tảng lý luận cho sự luận
chứng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản và dự báo về khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Về khả năng phát triển “rút ngắn”, “bỏ qua”, C.Mác


19

đã từng khẳng định đây là khả năng có thể và cũng đã xảy ra trong lịch sử phát
triển xã hội khi luận chứng quá trình lịch sử - tự nhiên của các hình thái kinh tế xã hội . Quá trình lịch sử - tự nhiên được mổ xẻ bằng những qui luật nội tại
trong bản thân hình thái kinh tế - xã hội. Sự thay thế các hình thái kinh tế - xã
hội không phải do ý muốn của bất kỳ một lực lượng nào, mà do những qui luật
khách quan trong nền sản xuất tác động, đó là qui luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, qui luật về đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai
cấp… Chính sự vận động của những qui luật khách quan này đã dẫn đến sự
chuyển hóa từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác
một cách tuần tự.

Lịch sử nhân loại đã tuần tự trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp
đến cao như cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và đang
quá độ sang chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên
lịch sử cũng đã cho thấy ngoài sự phát triển tuần tự qua các hình thái kinh tế - xã
hội từ thấp đến cao: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ , phong kiến, tư bản
cộng sản chủ nghĩa, do những điều kiện địa lý, chính trị, lịch sử, văn hóa khác
nhau, do những điều kiện khách quan lẫn chủ quan, bên ngoài lẫn bên trong chi
phối nên không nhất thiết con đường phát triển của các quốc gia phải theo trình
tự giống nhau, mà vấn đề bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội vẫn là
quá trình lịch sử - tự nhiên. Lịch sử đã chứng thực điều này, ví dụ như do chịu
ảnh hưởng của đế quốc La mã, nơi mà cùng với sự tan rã của phương thức sản
xuất nô lệ đã hình thành những điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh chủ nghĩa
phong kiến. Nước Đức chuyển từ xã hội cộng sản nguyên thủy sang chế độ
phong kiến bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Ở các dân tộc Slavơ cũng có điểm
tương tự. Các dân tộc Kadắctăng, Mông cổ, Ápganistăng, đa số những người
dân châu Mỹ la tinh, các dân tộc du mục châu Phi đã bỏ qua giai đoạn phát triển
xã hội nô lệ. Với sự tham gia trực tiếp của các nước tư bản chủ nghĩa chiến
thắng, nhân dân Bắc Mỹ, Canada đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản bỏ qua giai
đoạn phát triển xã hội phong kiến. Ở Úc, dưới sự thống trị của thực dân Anh đã
bỏ qua chế độ nô lệ và phong kiến, chuyển từ xã hội cộng sản nguyên thủy sang
chủ nghĩa tư bản. Điều đó cho thấy việc bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội
đối với một số quốc gia dân tộc là một khả năng thực tế, được tạo nên do chính
những qui luật chung nhất của sự vận động của lịch sử và đã có tiền lệ.


20

Từ thực tế lịch sử đó, C.Mác đã đề ra tư tưởng về khả năng “phát triển rút
ngắn” và ông đã rút ra kết luận quan trọng: một xã hội ngay cả khi đã phát hiện
được quy luật tự nhiên của sự vận động của nó … cũng khơng thể nào nhảy qua

các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn
đó. Nhưng có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những “cơn đau đẻ”.
Ở đây C.Mác đã đồng thời nhấn mạnh tới quy luật khách quan chi phối sự
phát triển các hình thái kinh tế - xã hội theo logic lịch sử - tự nhiên, vừa đặt vấn
đề về một khả năng rút ngắn sự phát triển ấy. Tuy chỉ mới là mầm mống nhưng
tư tưởng này của C.Mác là gợi ý rất quan trọng trong việc nghiên cứu lý luận bỏ
qua chế độ tư bản, tiến lên chủ nghĩa xã hội mà V.I.Lênin nêu ra sau này…
Ngoài việc khẳng định quá trình lịch sử - tự nhiên của các hình thái kinh
tế - xã hội. C.Mác – Ph.Ăngghen còn cho rằng sự chuyển biến từ xã hội nọ sang
xã hội kia phải có một thời kỳ chuyển tiếp, mà các ông gọi là thời kỳ quá độ. Và
thời kỳ quá độ đó càng tất yếu đối với sự thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội tư
bản (dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất) lên hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa (dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất).
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Thời kỳ quá độ là thời kỳ chuyển
tiếp từ hình thái kinh tế - xã hội này chuyển sang một hình thái kinh tế – xã hội
khác. Đây là giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau tùy điều kiện
lịch sử cụ thể.
Sự chuyển hóa từ hình thái này lên hình thái khác của lịch sử là một q
trình thống nhất giữa tính liên tục và gián đoạn. Trong mỗi nấc thang của quá
trình phát triển tự nhiên của lịch sử có sự hình thành, phát triển đi lên và có sự
suy tàn, vận động đi xuống. Sự nối tiếp, liên tục giữa giai đoạn suy tàn của nấc
thang cũ và giai đoạn hình thành của nấc thang mới được thực hiện bằng mắt
khâu trung gian - đó là thời kỳ quá độ giữa các nấc thang phát triển. Dấu hiệu
đặc trưng của xã hội ở thời kỳ quá độ là một hệ thống chưa ổn định, sự cùng tồn
tại đan xen của các nhân tố tiêu biểu cho cả cái mới và cái cũ.
Các nhân tố xã hội cũ và mới vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo
thành những mâu thuẫn. Trong thời kỳ quá độ, sự phát triển của những nhân tố.
những trật tự cũ còn cản trở sự ra đời của cái mới, đơi khi cịn lấn át cái mới, đẩy
cái mới vào tình trạng thụt lùi tạm thời, thậm chí phải làm đi làm lại nhiều lần.
V.I.Lênin cho rằng, đó là tình trạng có những mảnh vụn của trật tự cũ đôi khi chất



21

đống lại một cách nhanh chóng, trong khi đó, những mầm mống của cái mới có
khi lại phát triển chậm chạp và không phải bao giờ cũng thấy rõ ngay được
Những thời kỳ quá độ trước hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa có nhiều hình thức, độ dài và tính chất phức tạp của chúng cũng khơng
giống nhau.
Cơng xã nơng thơn là hình thức q độ, là khâu trung gian chuyển tiếp từ
xã hội cộng sản nguyên thủy sang xã hội chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của cơng
xã nơng thơn là một hình thức tổ chức xã hội dựa trên nền tảng chế độ sở hữu
“hỗn hợp” về tư liệu sản xuất, vừa có yếu tố sở hữu cộng đồng (cơng xã), vừa có
yếu tố sở hữu tư nhân thuộc về cá nhân các thành viên công xã. Về bản chất đây
là hai kiểu sở hữu đối lập nhau, nhưng lại gắn bó với nhau một cách hữu cơ
trong một chế độ kinh tế, trong đó chúng vừa kết hợp với nhau, vừa đấu tranh
loại trừ nhau. Trong “hình thức châu Á” hay “phương thức sản xuất châu Á”,
chế độ xã hội công xã nguyên thủy đã phải trải qua khâu trung gian là công xã
nông thôn và kinh tế điền trang thái ấp để trút bỏ những hình thức cuối cùng của
nó, thực hiện việc “bỏ qua” chế độ chiếm hữu nô lệ, tiến lên chế độ phong kiến.
Những biến đổi của quan hệ kinh tế - xã hội diễn ra trong lòng chế độ
chiếm hữu nơ lệ đã được thực hiện trong hình thức xã hội gọi là “điền trang thái
ấp”. Đặc trưng của nó là vẫn duy trì chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất quy mô
lớn - kiểu chiếm hữu nô lệ; đồng thời, lại vừa thực hiện chế độ tư hữu tư liệu sản
xuất nhỏ, manh mún; vừa áp dụng hình thức bóc lột trực tiếp qua lao dịch nơng
nơ, lại vừa áp dụng hình thức bóc lột gián tiếp qua địa tơ và thuế khóa. Rõ ràng
ở đây hình thức điền trang thái ấp vừa chứa đựng những yếu tố của phương
thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, vừa có những yếu tố của phương thức sản xuất
phong kiến sẽ trở thành phương thức thống trị. Về mặt xã hội, hình thức điền
trang thái ấp cũng tạo ra một giai cấp “trung gian” là giai cấp nơng nơ.

Hình thức hiệp tác giản đơn ở buổi đầu của chủ nghĩa tư bản, được hình
thành do một số chủ xưởng mở rộng sản xuất, thuê nhân công, tổ chức lại sản
xuất và phân công lao động tập thể theo hướng chun mơn hóa sản xuất.
V.I.Lênin viết: Việc những người tiểu sản xuất hàng hóa lập ra những xưởng
tương đối lớn, đánh dấu bước quá độ sang một hình thức cao hơn của công
nghiệp. Nền sản xuất nhỏ phân tán đã sản sinh ra hiệp tác giản đơn tư bản chủ
nghĩa [68, 443]. Trong hình thức kinh tế hiệp tác giản đơn, tính chất trung gian
quá độ được biểu hiện ở những đặc điểm: vừa có những yếu tố của nền sản xuất


22

nhỏ phân tán, vừa có những yếu tố của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
C.Mác cho rằng: đó chỉ là cái xưởng của những người thợ cả phường hội được
mở rộng ra mà thôi.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội được C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày trong nhiều tác phẩm, đặc biệt trong tác phẩm “Phê phán
cương lĩnh Gô ta”. Trên cơ sở tiếp tục và phát triển học thuyết Mácxít về nhà
nước trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Ngày 18 tháng sương
mù của Louis Bonapaste”, “Nội chiến ở Pháp” và tổng kết kinh nghiệm của các
cuộc cách mạng trước kia của tồn bộ phong trào cơng nhân quốc tế, đặc biệt từ
sự phê phán tính chất vơ căn cứ, tiểu tư sản và hết sức phản động trong “Cương
lĩnh Gô-ta”, C.Mác đã đưa ra luận điểm hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hình thức nhà nước trong thời kỳ đó.
C.Mác cho rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa
là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời
kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản”. [92, 47]. C.Mác nói
đến một xã hội quá độ, xã hội này vừa có những yếu tố của xã hội tư bản, vừa có
những yếu tố của xã hội cộng sản. Xã hội này cũng có thể gọi là xã hội cộng sản

được, nhưng “không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên
những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát
thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh
tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng
ra” [92, 33]. Như vậy theo C.Mác, xã hội quá độ bắt đầu từ khi giành chính
quyền đến khi kết thúc giai đoạn đầu, bước vào giai đoạn cao của xã hội cộng
sản, có nghĩa là giai đoạn đầu tức chủ nghĩa xã hội chính là thời kỳ quá độ (thời
kỳ quá độ theo nghĩa rộng).
Sau khi đọc đoạn văn trong Phê phán cương lĩnh Gơta của C. Mác: “Đó
là những thiếu sót khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản
chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lịng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn
đau đẻ kéo dài” [92, 35-36] V.I.Lênin đã ghi chú ở lề: “vậy là: I “những cơn đau
đẻ kéo dài”; II “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, III “giai đoạn cao
của xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Nhiều người cho rằng, theo cách ghi chú của
V.I.Lênin thì I, II, III là ba giai đoạn của xã hội mới sau khi giai cấp vơ sản
giành được chính quyền, trong đó “những cơn đau đẻ kéo dài” là “thời kỳ quá


23

độ” (lên giai đoạn đầu của xã hội cộng sản). Cách phân kỳ ba giai đoạn của xã
hội mới không phải là của C.Mác, vì theo C.Mác xã hội mới chỉ có hai giai
đoạn, cịn “những cơn đau đẻ kéo dài” nằm ngay trong xã hội tư bản. Cách mạng
thành cơng có nghĩa là “đứa trẻ” đã ra đời, và “cơn đau đẻ” đã kết thúc.
V.I.Lênin khơng chỉ nói đến “thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản lên xã hội cộng sản
giai đoạn cao”, mà cịn nói đến “thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản lên xã hội cộng
sản giai đoạn đầu” tức “thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản lên chủ nghĩa xã hội”
(thời kỳ quá độ theo nghĩa hẹp).
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin: xã hội cộng sản giai đoạn cao được
biểu thị bằng các từ ngữ: xã hội cộng sản đã phát triển, chủ nghĩa xã hội hoàn

chỉnh, chủ nghĩa xã hội dưới hình thức phát triển. Xã hội cộng sản giai đoạn đầu
được biểu thị bằng các từ: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội chưa hoàn chỉnh,
xã hội cộng sản vừa thoát thai từ xã hội tư bản.
Thực hiện bước quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
là rất khó khăn, phức tạp. Quá độ gián tiếp từ các nước chậm phát triển, xuất
phát điểm thấp lại càng khó khăn, phức tạp gấp vạn lần. Chủ nghĩa xã hội phải là
nấc thang cao hơn, ở trình độ phát triển tiên tiến hơn, đủ sức phủ định chủ nghĩa
tư bản, do đó khơng trải qua chủ nghĩa tư bản, bước quá độ lịch sử lên chủ nghĩa
xã hội sẽ kéo dài hơn, diễn ra quanh co phức tạp hơn nhiều, phải đi qua những
nấc khâu trung gian, áp dụng nhiều hình thức quá độ nhỏ, những giải pháp
trung gian quá độ, từng bước để chủ nghĩa xã hội trưởng thành dần dần cho đến
khi đạt được trình độ phát triển điển hình cho phép chiến thắng chủ nghĩa tư bản
trên tất cả mọi lĩnh vực.
Khái niệm thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội sẽ
được hiểu đầy đủ hơn khi đi sâu phân tích những đặc điểm mang tính chất trung
gian của giai đoạn này. Chủ nghĩa Mác cho rằng, thời kỳ quá độ là trạng thái của
xã hội đang “thoát thai” từ xã hội cũ, đang trong quá trình sinh nở một xã hội
mới tiến bộ hơn xã hội cũ. Đây cũng là thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã bị đánh
bại, song chưa bị tiêu diệt hẳn, chủ nghĩa xã hội đang hình thành, nhưng cịn non
yếu. Cho nên trong kết cấu kinh tế - xã hội của thời kỳ q độ cịn có sự đan
xen, thâm nhập vào nhau giữa những yếu tố, những đặc điểm của cả chủ nghĩa
tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (nền kinh tế nhiều
thành phần với đa dạng hình thức sở hữu, với nhiều hình thức phân phối), chính
trị (sự tồn tại của nhiều lực lượng, giai tầng trong xã hội có lợi ích khác nhau,


×