Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỈ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BÃI CHÁY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.95 KB, 12 trang )

Chương 3
TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHCT BÃI CHÁY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHCT BÃI CHÁY TRONG THỜI GIAN TỚI
Năm 2009 được dự báo là một năm khó khắn lớn đối với nền kinh tế và ngành
ngân hàng . Những tác động của nền kinh tế thế giới và kinh tế trong nước sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình kinh doanh của NHCT Việt nam nói chung và chi
nhánh Bãi Cháy nói riêng. Trong điều kiện đó, mục tiêu chi nhánh đặt ra là: Đẩy
mạnh công tác huy động vốn và hoạt động dịch vụ, nâng cao sức cạnh tranh trong
hoạt động ngân hàng nói chung và từng sản phẩm dịch vụ nói riêng. Đối với công
tác sử dụng vốn cần bám sát chỉ đạo của NHCT Việt Nam về công tác tín dụng
trong từng thời kỳ, việc tăng trưởng tín dụng cần đi đôi với mở rộng số lượng
khách hàng… Phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các phòng, tổ nghiệp vụ, tạo sự
đồng thuận cao và nhất quán trong chỉ đạo điều hành vì sự phát triển của chi nhánh
nói riêng và VietinBank nói chung.
3.1.1. Định hướng phát triển
Mặc dù không thuận lợi về thị trường các sản phẩm dịch vụ ngân hàng như
phía Đông Thành phố hoặc Cẩm Phả, Uông Bí... nhưng Bãi Cháy với thế mạnh về
du lịch, dịch vụ, công nghiệp chế biến, Cảng Biển, sản xuất vật liệu xây dựng và
các vùng phụ cận như Quảng Yên, Hoành Bồ… là một thị trường đầy tiềm năng để
phát triển các dịch vụ ngân hàng. Trong 10 năm tới, Thành phố Hạ Long đang tập
trung khai thác các lợi thế về vị trí, tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực khác
để xây dựng Hạ Long thành một thành phố phát triển vững mạnh cả về chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường sinh thái theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Phát huy thế mạnh, truyền thống của một ngân hàng đầu tiên trên địa bàn
phía Tây thành phố, xây dựng chi nhánh NHCT Bãi Cháy trở thành ngân hàng
hàng đầu trên điạ bàn. Tích cực, chủ động đưa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
hiện đại vào đời sống kinh tế xã hội, góp phần xây dựng kinh tế địa phương và sự
lớn mạnh của NHCT Việt Nam.
Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, mở rộng về các vùng phụ cận
như Hoành Bồ, Quảng Yên... Giữ vững thị phần đầu tư tín dụng đối với các khách


hàng truyền thống đi đôi với mở rộng địa bàn và thị trường tín dụng đối với khu
vực kinh tế tư nhân, cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng để để tăng
sức cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Phấn đấu đa dạng hoá và tăng nhanh tốc độ
phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân
viên.
3.1.2. Mục tiêu hoạt động
3.1.2.1. Mục tiêu chiến lược
Xây dựng chi nhánh NHCT Bãi Cháy với hình ảnh đẹp, cơ sở vật chất hiện
đại, có lợi thế cạnh tranh cao so với các ngân hàng khác. Cung cấp cho khách hàng
những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, nhiều tiện ích với chất lượng cao và
phong cách phục vụ chuyên nghiệp, nhiệt tình với phương châm: "Tin Cậy, Hiệu
Quả, Hiện Đại”
Đảm bảo sẵn có các nguồn lực cần thiết ( Nhân lực, cơ sở hạ tầng, máy móc,
thiết bị...) cho việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
3.1.2.2. Mục tiêu ngắn hạn
1. Nguồn vốn tăng trưởng hàng năm 20% trở lên. Phấn đấu đến cuối năm
2009 nguồn vốn đạt 720 tỷ đồng. Đến năm 2014 phấn đấu đạt 1.700 tỷ đồng.
2. Dư nợ tăng trưởng hàng năm đạt từ 15 - 20%. Phấn đấu đến cuối năm 2009
dư nợ đạt 550 tỷ đồng. Đến năm 2014 phấn đấu đạt 1.200 tỷ đồng
3. Tỷ lệ nợ xấu ( Nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5) dưới 2%/Tổng dư nợ
4. Dự phòng rủi ro: trích đủ theo quy định
5. Thu dịch vụ tăng 10% trở lên. Phấn đấu đến cuối năm 2009 đạt 3 tỷ đồng.
Đến năm 2014 phấn đấu đạt 6 tỷ đồng.
6. Lợi nhuận hạch toán: đạt và vượt kế hoạch NHCT Việt Nam giao
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHCT BÃI CHÁY
3.2.1. Thống nhất quan điểm nhận thức phát triển khách hàng DNV&N
Thống nhất quan điểm, nhận thức về phát triển khách hàng DNV&N từ Trụ
sở chính tới các Chi nhánh, từ cấp lãnh đạo tới cán bộ nhân viên. Trên cơ sở đó cụ

thể hoá mục tiêu phát triển DNV&N vào chương trình hành động của từng đơn vị
trong toàn hệ thống NHCTVN.
3.2.2. Tăng cường quảng bá hình ảnh của NHCT đối với DNV&N
Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2009 và những năm sắp tới. Cụ thể là
xây dựng triển khai một chương trình tuyên truyền, quảng bá bài bản, thống nhất
trong toàn hệ thống. Trước mắt thực hiện một số hoạt động cụ thể sau:
Thứ nhất, tổ chức Hội nghị tài trợ cho DNV&N. Đây là cơ hội để quảng bá
hình ảnh NHCT cũng như để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm
Thứ hai, tổ chức và tham gia tài trợ hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm của
các DNV&N trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy quá trình mua bán chuyển giao
công nghệ giữa các DNV&N; tổ chức, tham gia các hội thảo, diễn đàn về các chủ
đề liên quan tới phát triển DNV&N.
Thứ ba, xây dựng trang báo hay trên tạp chí, tạo thêm một kênh trao đổi, thảo
luận nhằm thu hút trí tuệ trong hệ thống vì mục tiêu phát triển khách hàng
DNV&N. Lựa chọn các tin, bài tốt để đăng tải trên một số tờ tạp chí/báo chuyên
ngành có uy tín như Thời báo Kinh tế, Đầu tư, Thời báo Ngân hàng, Thời báo tài
chính, Diễn đàn doanh nghiệp...cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng
khác.
Thứ tư, nghiên cứu để thiết kế các tờ rơi giới thiệu sản phẩm và phát triển các
hình thức tuyên truyền, quảng bá khác một cách thiết thực, hiệu quả.
3.2.3. Hoàn thiện bổ sung các sản phẩm phù hợp với DNV&N
Bên cạnh các hình thức cho vay truyền thống đối với các DNV&N như cho
vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay hợp vốn, cho vay theo dự án đầu tư…
Ngân hàng cần đẩy mạnh đổi mới các hình thức với các ưu đãi cho các doanh
nghiệp.
Thứ nhất, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt. Một trong những vấn đề
đầu tiên khi doanh nghiệp vay vốn là lãi suất. Lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Bởi vậy, mức lãi suất thích hợp, hình thành trên cơ sở
thỏa thuận của khách hàng, hài hòa giữa lợi ích của ngân hàng và khách hàng. Do
vậy, lãi suất thích hợp dựa trên độ tín nhiệm của khách hàng, xu thế sản xuất kinh

doanh trên thị trường.
Thứ hai, góp vốn đầu tư liên doanh liên kết các DNV&N. Để mở rộng tín
dụng, ngân hàng không chỉ cho doanh nghiệp vay vốn mà có thể lựa chọn xem
doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả, triển vọng thì ngân hàng có thể thực hiện
liên doanh liên kết. Ngân hàng có thể trực tiếp giám sát quản lý vốn cho vay, vừa
tạo thu nhập cao do là trực tiếp là người đầu tư vốn. Về phía doanh nghiệp, với sự
tư vấn của ngân hàng, doanh nghiệp sẽ làm ăn hiệu quả hơn, hạn chế rủi ro giữa
ngân hàng và doanh nghiệp.
Thứ ba, chiết khấu giấy tờ có giá. Đối với các DNV&N giữ nhiều thương
phiếu, tín phiếu, trái phiếu chưa đến hạn thanh toán. Doanh nghiệp có thể đem các
giấy tờ có giá này đến ngân hàng để xin vay vốn.
Thứ tư, cho vay có bảo đảm bằng các khoản sẽ thu của doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp bán hàng nhưng người mua chưa kịp thanh toán, làm cho doanh
nghiệp thiếu vốn lưu động. Theo cách này, ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay
theo một tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp tùy thuộc vào chất
lượng các khoản nợ mà ngân hàng thẩm định được.
Thứ năm, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt
tại máy rút tiền tự động. Nghiệp vụ này còn mới và chưa được thực hiện rộng rãi.
Trong tương lai cùng với việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, cần tăng cường
hình thức cho vay nhằm mở rộng đầu tư tín dụng và nâng cao năng lực sử dụng
công nghệ của NHTM đối với khách hàng.
Thứ sáu, linh hoạt hình thức cho vay có bảo đảm. Năng lực của các DNV&N
thường lớn hơn so với tài sản thực có của họ. Do đó, muốn mở rộng tín dụng đồng
thời tạo hướng cho các doanh nghiệp, ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng hình thức
cho vay đảm bảo bằng hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn
cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh trang của
sản phẩm đó trên thị trường. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ là phương tiện cuối
cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp dụng

hình thức thế chấp, tín chấp, bão lãnh… sao cho phù hợp.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng khi cho vay DNV&N. Chất
lượng và hiệu quả tín dụng phụ thuộc phần lớn vào trình độ cán bộ tín dụng của
ngân hàng. Vì vậy, trình độ cán bộ tín dụng phải được chuẩn hoá, không ngừng
nâng cao. Ngân hàng phải có nhiều chương trình đào tạo dưới nhiều hình thức: bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức tập huấn, thi tình huống, đặc biệt là trình độ
thẩm định dự án, phương án vay vốn, lựa chọn khách hàng, vận dụng các chế độ
thể lệ tín dụng đã ban hành. Đội ngũ cán bộ thẩm định phải gồm những người am
hiểu chuyên ngành, có kinh nghiệm tư vấn dự án, phương án sản xuất kinh doanh
cho DNV&N. Mặt khác, ngân hàng phải có các chương trình phối, kết hợp chặt

×