Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tác động về xã hội sau khi việt nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.94 KB, 24 trang )

TÁC ĐỘNG VỀ XÃ HỘI
SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
MỤC LỤC

I- NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI – NHÌN LẠI HƠN MỘT NĂM TỪ KHI VIỆT
NAM GIA NHẬP WTO

1- Các quy tắc của WTO và cách thực hành trong WTO tác động về xã
hội
2- Thực tế diễn biến một số vấn đề xã hội sau khi Việt Nam gia nhập
WTO
2.1. Việc làm và thu nhập
2.2. Nông nghiệp và nông thôn
2.3. Xố đói giảm nghèo và cơng bằng xã hội
3- Đánh giá chung
II- TRANH THỦ PHÁT HUY THỜI CƠ VÀ THUẬN LỢI VỀ MẶT XÃ HỘI
KHI GIA NHẬP WTO – MỘT SỐ VIỆC CẦN LÀM

1- Thể chế và chỉ đạo, điều hành của Chính phủ
2- Xây dựng xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh
3- Phát triển thị trường lao động cạnh tranh và chất lượng cao
4. Cơng nghiệp hóa nơng nghiệp, nông thôn
5. Hệ thống an sinh xã hội
III- THAY LỜI KẾT

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

1


I- NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI – NHÌN LẠI HƠN MỘT NĂM TỪ KHI VIỆT


NAM GIA NHẬP WTO

Năm 2007, nhờ quá trình đổi mới đã hơn 20 năm tạo thế và lực, trong đó có
phần đóng góp của năm đầu tiên gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), kinh tế Việt Nam đạt được thành tựu trên nhiều lĩnh vực, tăng trưởng
kinh tế đạt 8,5%. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt mức cao nhờ cải thiện
trong chính sách đầu tư, mơi trường kinh doanh, mở cửa thị trường theo cam
kết WTO. Tính đến tháng 12/2007, vốn FDI đăng ký đạt 15 tỉ USD, tăng gần
40% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường xuất khẩu mở rộng với kim ngạch
xuất khẩu đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006 và vượt 3,1% so với kế
hoạch. Dự trữ ngoại tệ được bổ sung thêm 9 tỷ USD. Hội nghị lần thứ 15 các
nhà tài trợ tổ chức đầu tháng 12/2007 tại Hà Nội đã mang lại cho Việt Nam
5,426 tỷ USD ODA cam kết trong năm 2008, tăng 20% so với năm 2007.
Việc thực hiện các cam kết WTO khi Việt Nam gia nhập tổ chức kinh tế quốc tế
lớn nhất hành tinh này đưa đến những thời cơ lớn và thách thức lớn đan xen vào
nhau về kinh tế và xã hội. Vấn đề kinh tế nào cũng có chiều cạnh xã hội và tác
động về mặt xã hội, đồng thời có những vấn đề trực tiếp có tính chất xã hội, tạo
ra những hệ quả xã hội đặc trưng. Về kinh tế cũng như về xã hội, nếu biết vượt
thách thức có hiệu quả thì thách thức sẽ biến thành thời cơ, cịn nếu khơng biết
tranh thủ thời cơ kịp thời thì thời cơ cũng có thể biến thành thách thức. Mặt
khác, từ cuối năm 2007, do những vấn đề đã tích tụ trong nhiều năm trước,
cộng với những diễn biến không thuận của kinh tế thế giới, đặc biệt là những
khó khăn, thậm chí suy thối của kinh tế Mỹ, lại thêm những hậu quả ngày càng
rõ của sự biến đổi khí hậu tồn cầu, nên tình hình kinh tế vĩ mơ của nước ta đã
bộc lộ những nhân tố bất ổn, như hiệu quả thấp của đầu tư, nhập siêu tăng cao,
thâm hụt ngân sách lớn, thị trường chứng khoán chao đảo, thị trường bất động
sản hình thành bong bóng nguy hiểm, và nhất là lạm phát hai con số tác động
xấu đến đời sống của nhân dân, nhất là những người nghèo.
Hơn một năm nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều hội thảo, cả trong
nước và quốc tế, về tác động của việc gia nhập WTO đối với sự phát triển kinh

tế của Việt Nam. Chuyên đề này tập trung vào những hệ quả trực tiếp có tính

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

2


chất xã hội. Để có thể đưa ra những kết luận đủ độ tin cậy, cần phân tích, tính
tốn bằng các chỉ số định lượng và trên cơ sở một khoảng thời gian đủ dài, bao
gồm tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nghèo đói, tuổi thọ, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, hệ số
Gini (hay mức độ bất bình đẳng), tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ đi học, bình đẳng giới…đó
là chưa kể sự phân tích rất cần thiết về lối sống, về văn hố. Chun đề này
khơng có điều kiện tiến hành những nghiên cứu định lượng đó, mà chỉ lựa chọn
phân tích một số vấn đề xã hội khi Việt Nam gia nhập WTO, từ đó có một số
nhận xét đánh giá làm cơ sở để đưa ra một số gợi ý chính sách.
1- Các quy tắc của WTO và cách thực hành trong WTO tác động về xã hội
WTO là tổ chức kinh tế thế giới thúc đẩy sự lưu chuyển trên quy mơ tồn cầu
của hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất như vốn, công nghệ, tri thức quản
lý kinh doanh. Tham gia vào WTO là tham gia vào q trình tồn cầu hoá kinh
tế hiện đã trở thành một xu thế tất yếu của thời đại, khi đó thị trường trong nước
của mỗi quốc gia ngày càng liên kết sâu rộng với thị trường thế giới.
Để thực hiện mục tiêu đó, WTO đề ra những nguyên tắc bắt buộc các thành
viên tham gia phải thực hiện
Các nguyên tắc cơ bản của WTO là:
(i)

Không phân biệt đối xử, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc
(MFN) và đối xử quốc gia (NT). Theo đó, thương mại quốc tế đối với
hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện trên cơ sở không phân biệt
đối xử giữa các nước thành viên. Nguyên tắc này nằm trong điều

khoản “tối huệ quốc” (MFN) được nêu trong tất cả các Hiệp định
WTO. Điều khoản MFN được bổ sung bằng điều khoản đãi ngộ quốc
gia trong thương mại hàng hóa cũng như thương mại trong các lĩnh
vực dịch vụ mà các thành viên cam kết. Điều khoản đãi ngộ quốc gia
nghiêm cấm phân biệt đối xử giữa hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu với
hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước.

(ii)

(ii) Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hố và dịch vụ thơng
qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia, cắt giảm các loại thuế
hải quan. Những biện pháp phi thuế quan như hạn chế nhập khẩu hay
hạn ngạch không được sử dụng. Những biện pháp thương mại không
lành mạnh như trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá bị hạn chế tối đa.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

3


(iii) Minh bạch hố: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận
thị trường. Việt nam là nước đang phát triển và đang chuyển đổi, nên qua đàm
phán đã đạt được kết quả có thời hạn một số năm để chuẩn bị thực hiện cam kết
về thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp nông nghiệp và phi nơng nghiệp, quyền kinh
doanh...
Dẫu sao, tham gia WTO có nghĩa là nền kinh tế chấp nhận một sự cạnh tranh
quyết liệt hơn cả ở trong nước và trên thị trường thế giới.
Đương nhiên, Việt nam vẫn hồn tồn có quyền lựa chọn nhà đầu tư này hay
nhà đầu tư khác, thứ hàng hoá dịch vụ của nước này, hãng này hay nước khác,
hãng khác, chứ không phải bất kỳ nhà đầu tư nào, hàng hoá nào, dịch vụ nào

cũng có thể tự do vào nước ta. Do vậy, có chính sách và biện pháp đúng để
tham gia WTO có hiệu quả, thì nguồn lực của nền kinh tế sẽ được phân bổ hiệu
quả hơn trên cơ sở những lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và sự phân công lao
động quốc tế. Kết cục là sức mạnh của quốc gia sẽ được tăng lên nhờ tham gia
vào quá trình đó.
Một kết quả dễ thấy về mặt xã hội khi hội nhập kinh tế quốc tế là người dân
được hưởng nhiều loại hàng hóa và dịch vụ với chủng loại đa dạng hơn, chất
lượng cao hơn và giá cả thấp hơn so với trường hợp không hội nhập. Điều đó có
nghĩa là phúc lợi của mỗi người được nâng lên.
Tuy nhiên, khơng nên chỉ nhìn vào lợi ích tồn cục đó mà bỏ qua những vấn đề
xã hội. Lợi ích của sự phát triển không được phân chia đồng đều cho tất cả mọi
người của mỗi quốc gia nhờ tham gia WTO. Việc làm có thể mất đi ở nhóm
người này hay ở nhóm ngành, nghề nào đó do chuyển dịch cơ cấu hay thay đổi
lợi thế so sánh. Bất bình đẳng có thể tăng lên do thu nhập sẽ tăng lên với tốc độ
khác nhau giữa những nhóm người khác nhau, giữa các vùng miền có điều kiện
tự nhiên và xã hội khác nhau. Và còn nhiều vấn đề khác nữa như môi trường,
công bằng, đạo đức xã hội… Những vấn đề xã hội này nếu không được nhìn
nhận, đánh giá đúng mức và có giải pháp phù hợp sẽ dẫn đến những hệ quả tiêu
cực và thậm chí kìm hãm sự phát triển. Mỗi quốc gia đều phải giải quyết tốt
những vấn đề đó, tận dụng thời cơ đồng thời hạn chế những thách thức của quá
trình tồn cầu hóa để đảm bảo sự phát triển bền vững.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

4


2-Thực tế diễn biến một số vấn đề xã hội sau khi Việt Nam gia nhập WTO
2.1. Việc làm và thu nhập
Thị trường lao động là một trong những kênh chính chịu tác động xã hội khi gia

nhập WTO, bởi sự gia tăng nhập khẩu, xuất khẩu, cạnh tranh, áp dụng cơng
nghệ mới, đầu tư trực tiếp nước ngồi... đều có thể tác động đến việc làm và thu
nhập của người lao động.
Gia nhập WTO giúp thay đổi các cách thức sản xuất sản phẩm xã hội, thay đổi
các cách thức tổ chức các nhân tố sản xuất theo nguyên tắc hiệu quả. Gia nhập
WTO cũng đồng nghĩa là các bước đi của cải cách thị trường sẽ nhanh hơn.
Một điều quan trọng nữa là với việc gia nhập WTO, những quy tắc được chấp
nhận mang tính tồn cầu sẽ làm thay đổi một cách hiệu quả suy nghĩ, hành vi và
thúc đẩy người lao động tăng khả năng của bản thân họ.
Tất cả những quá trình này dẫn đến nhiều điều chỉnh trong cơ cấu của cả 3 lĩnh
vực chủ yếu của nền kinh tế là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Điều này
tạo ra cơ hội đáng kể để phát triển thị trường lao động.
Khu vực công nghiệp chứng kiến việc làm được tạo ra ở nhiều ngành nhưng
đồng thời cũng có nhiều lĩnh vực bị mất đi việc làm. Trong trước mắt, rất nhiều
việc làm mới được tạo ra ở những ngành sử dụng nhiều lao động và khơng địi
hỏi tay nghề cao mà những nước đang phát triển như Việt Nam có lợi thế do sự
phân cơng lao động quốc tế. Đó là những ngành công nghiệp nhẹ như dệt may,
da giầy, chế biến thực phẩm, xây dựng, hoặc những ngành xuất khẩu nguyên
liệu thô, khai khống... Nhưng đồng thời những ngành khơng cịn nhận được trợ
cấp của Chính phủ sau khi thực hiện cam kết WTO hay những doanh nghiệp
nhà nước sau cổ phần hoá sẽ là những ngành bị mất nhiều việc làm. Nhưng nhìn
chung, việc làm tổng cộng ở khu vực cơng nghiệp tăng lên.
Theo số liệu khảo sát mới đây của trang web việc làm lớn nhất Việt Nam là
vietnamworks.com, chỉ số cầu nhân lực năm 2007 tăng 67% so với năm 2006,
đặc biệt cao nhất là những ngành sản xuất, trong khi đó chỉ số cung nhân lực
mới chỉ tăng 22%. Điều đó cho thấy rất nhiều việc làm mới đã được tạo ra trong
năm qua nhưng nguồn nhân lực hiện tại không đáp ứng đủ và xu hướng này còn
tiếp tục trong những năm tới. Báo cáo cũng chỉ ra rằng nhu cầu về lao động có
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


5


tay nghề đang tăng rất mạnh và sẽ xảy ra thiếu hụt trầm trọng đối với nhóm lao
động có tay nghề.
Khu vực nơng nghiệp có khả năng mất nhiều việc làm nhất do cơ cấu ngành
đang có chiều hướng thu hẹp lại, diện tích trồng trọt giảm đi để chuyển sang
nhiều mục đích sử dụng khác, đồng thời năng suất nông nghiệp tăng lên nhờ áp
dụng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến hơn. Theo số liệu của Bộ Nơng nghiệp
và Phát triển nơng thơn, trong q trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô
thị, kết cấu hạ tầng, mỗi năm cả nước có gần 200.000 ha đất nơng nghiệp bị
chuyển đổi mục đích sử dụng, tương ứng mỗi hộ gia đình nơng thơn có khoảng
1,5 lao động bị mất việc làm. Với 54% lực lượng lao động hiện nay là lao động
nông thôn, phần lớn trong số đó là chưa qua đào tạo, thì cơ hội tìm việc làm
mới của họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, lực lượng lao động vẫn cịn
làm trong ngành nơng nghiệp cần phải có kỹ năng làm việc cao hơn để có năng
suất cao hơn. Điều này cho thấy vấn đề đào tạo và đào tạo nghề ở khu vực nơng
thơn có vị trí hết sức quan trọng.
Khu vực thứ ba - dịch vụ - là ngành có nhiều cơ hội tạo ra một số lượng lớn
việc làm. Nói cụ thể hơn, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh kích thích sự ln
chuyển của hàng hố và đem lại sự đa dạng phong phú các loại sản phẩm thị
trường, kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ cũng như nhu cầu việc làm
ở khu vực này tăng lên. Đồng thời, những cam kết về mở cửa thị trường dịch
vụ, đặc biệt là về bán lẻ và bán buôn tạo ra một số lượng lớn việc làm mới.
Nhiều lĩnh vực dịch vụ cao cấp được mở ra như ngân hàng, bảo hiểm, viễn
thông cũng tạo ra nhiều việc làm mới. Cũng theo báo cáo của Vietnamworks,
nhu cầu lao động ở những ngành dịch vụ như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm là
cao nhất trong năm 2007.
Một điểm cần lưu ý là khi vào WTO, cạnh tranh thị trường mạnh hơn, tức là
người tìm việc chứ khơng phải việc tìm người. Vì vậy cần nhận thức rõ địa vị

chủ động của người lao động, họ không chỉ là người nhận việc. Điều này tất yếu
dẫn đến sự di chuyển lao động tăng lên giữa thành thị và nông thôn, giữa các
khu vực và giữa các doanh nghiệp. Do đó, những hạn chế mang tính hành chính
ngăn cản di chuyển lao động cần được bãi bỏ. Và điều quan trọng nhất là ảnh
hưởng chủ yếu của gia nhập WTO đến việc làm về dài hạn là chất lượng chứ
không phải là số lượng, địi hỏi có thêm nhiều lao động tay nghề cao.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

6


Việc làm vừa được tạo ra vừa bị mất đi khi thị trường được tự do hoá và những
lợi thế so sánh di chuyển giữa các ngành nghề để đáp lại những thay đổi của thị
trường. Việc làm chuyển từ ngành này sang ngành khác. Thách thức cho các
nhà hoạch định chính sách là làm thế nào để tối đa hố lợi ích và giảm thiểu sự
mất đi việc làm, đồng thời quản lý tốt nhất sự di chuyển của việc làm và người
lao động giữa các khu vực.
Về thu nhập của người lao động, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong năm qua
có một kết quả rõ ràng là làm tăng thu nhập thực tế của người dân. Theo số liệu
mới đây của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, thu nhập trung bình của
người lao động trong khu vực doanh nghiệp năm 2007 tăng lên 10% so với năm
2006. Năm 2007 cũng là năm sản lượng và giá của nhiều loại nông sản chủ yếu
đều tăng như gạo, cá, tôm, cà phê, cao su, hạt tiêu v.v. giúp thu nhập của người
nông dân được cải thiện một bước.
Tuy nhiên điểm cần lưu ý là trong bối cảnh cạnh tranh, tiền lương thực tế của
những lao động có trình độ tăng cao hơn so với người lao động khơng có tay
nghề. Như vậy, bất bình đẳng thu nhập gia tăng do có sự khác biệt về mức
lương giữa nhóm lao động có kỹ năng và khả năng thích ứng cao so với các
nhóm lao động khác.

Hội nhập kinh tế tạo ra những cơ hội khác nhau về thu nhập của người lao
động. Chẳng hạn, lao động trong các ngành xuất khẩu, dịch vụ có mức tăng
trưởng thu nhập cao hơn do được hưởng lợi nhiều nhất khi hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Trong khi đó, nơng dân là những người chưa được
hưởng lợi nhiều bởi họ không tham gia xuất khẩu trực tiếp hàng hóa, điều đó
đồng nghĩa với việc họ chưa thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Những nghiên cứu về kinh nghiệm một số nước trong khu vực như Thái Lan,
Malaysia, Indonesia, Philippines là những nước tham gia hội nhập kinh tế quốc
tế trước Việt Nam cho thấy nước nào thị trường càng mở cửa hơn cho bên
ngồi, thì tiền lương thực tế càng tăng cao.

2.2. Nơng nghiệp và nông thôn

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

7


Theo nhận định của nhiều chuyên gia, khu vực nông nghiệp và nông thôn, đặc
biệt là ở những nước đang phát triển, là khu vực chịu nhiều tác động nhất khi
gia nhập WTO. Người nông dân vốn đã không chuẩn bị cho mình đầy đủ kiến
thức và điều kiện để thích ứng với một mơi trường cạnh tranh khắc nghiệt khi
mở cửa thị trường chắc chắn sẽ gặp phải nhiều khó khăn, nhất là khi khơng cịn
được nhà nước bảo trợ về giá nông sản nữa. Mặt khác, công nghệ mới thâm
nhập vào nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp hướng theo quy mô lớn và thâm
canh tăng năng suất. Điều này dẫn đến kết quả là thiếu việc làm cho nông dân
và một phần trong số họ sẽ lâm vào tình trạng thất nghiệp hoặc phải đi tìm các
việc làm thay thế khác. Trong khi đó, đa số người nghèo lại là nông dân nên khi
chịu những tác động kinh tế lớn, khu vực này tiềm ẩn nhiều vấn đề xã hội.
Hiện nay dân số sống ở nông thôn vẫn chiếm tới hơn 70% dân số cả nước và

thu nhập của họ chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa. 2/3 dân
số Việt Nam ở nông thơn đang ở tình trạng kém phát triển với năng suất thấp so
với 1/3 dân số thành thị. Những khó khăn hiện tại của người nông dân Việt
Nam là rất rõ ràng khi họ phải chịu nhiều rủi ro của thiên tai cộng với chi phí
sản xuất đầu vào lớn và phải trang trải nhiều chi phí đời sống khác như học
hành, chữa bệnh... trong phạm vi thu nhập khiêm tốn hơn nhiều so với người
dân ở đô thị. Nông nghiệp và đời sống của người nông dân Việt Nam được lo
ngại hơn cả bởi những tác động khi gia nhập WTO.
Mặc dù vậy, thực tế trong năm qua chưa cho thấy có những tác động tiêu cực
lên khu vực này như nhiều người đã dự đốn. Thay vào đó cơ hội cải thiện đời
sống của người nông dân đã diễn ra nhờ cơ hội xuất khẩu nông sản nhiều hơn.
Hầu hết hàng nông sản năm 2007 đều được giá nên giá trị xuất khẩu tăng mạnh.
Tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản đạt trên 10 tỷ
USD. Nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD trở lên. Kim ngạch
xuất khẩu cà phê đạt khoảng 1,7 tỷ USD (năm 2006 xuất khẩu gần 1 tỷ USD);
thuỷ sản đạt 3,6 - 3,7 tỷ USD (năm 2006 đạt hơn 3 tỷ USD). Mặt hàng gỗ chế
biến dự kiến đạt khoảng 2,5 tỷ USD; cao su khoảng 1,4 tỷ USD; xuất khẩu gạo
trên 4,53 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,4 tỷ USD... Nhiều hộ nông dân đã có thu
nhập cao trong năm qua do được mùa và giá cao. Như vậy, có thể nói việc gia
nhập WTO bước đầu đã đem lại những tác động tích cực cho người nông dân ở
Việt Nam.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

8


Theo những cam kết của Việt Nam khi vào WTO, các sản phẩm nông nghiệp
dành cho tiêu dùng trong nước vẫn nhận được khoảng 10% trợ cấp của Nhà
nước trên tổng mức tiêu dùng chung mặc dù trợ cấp dành cho nông sản xuất

khẩu phải loại bỏ. Mức thuế quan trung bình đánh vào hàng nơng sản giảm từ
23,5% xuống cịn 20,9% vẫn là mức khá cao và mang tính bảo hộ cho nông
nghiệp trong nước. Đồng thời, Việt Nam vẫn có thể duy trì một hệ thống hạn
ngạch nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước cho nhiều loại nơng sản như
mía, trứng, thuốc lá và muối. Đây là những thuận lợi chúng ta cần tận dụng để
bảo vệ nền nông nghiệp và hỗ trợ nông dân trong bối cảnh Việt Nam gia nhập
WTO.
Tác động tích cực nhất đối với nông nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO là mở
ra những cơ hội để có thể hợp tác tồn diện trên lĩnh vực khoa học nơng nghiệp
với các nước phát triển, đẩy mạnh thu hút kỹ thuật nông nghiệp mới, nâng cao
hàm lượng kỹ thuật của nông sản, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh... có
lợi cho điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp và chuyển đổi sản phẩm của vùng nông
thôn. Đồng thời, việc mở cửa thị trường bán lẻ sẽ kích thích lưu thơng, phân
phối và xuất khẩu nông sản.
Tuy nhiên, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam cũng đang đứng trước một
thách thức lớn là tình trạng thiếu việc làm. Điều này là xu thế tất yếu trong bối
cảnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tích cực với diện tích canh tác
thu hẹp lại để chuyển mục đích sang cơng nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ sở. Việc
áp dụng máy móc và khoa học kỹ thuật nông nghiệp làm cho năng suất tăng cao
hơn nhưng cũng sử dụng ít lao động hơn. Lực lượng lao động nông nghiệp dư
ra là nguồn cung ứng lao động cho những ngành khác.
Thực tế cho thấy luồng lao động di cư từ nông thôn ra thành thị đang ngày càng
tăng lên. Gia nhập WTO cũng có nghĩa là nhiều cơ hội việc làm được mở ra ở
những ngành khác, nhất là ở thành thị và các khu công nghiệp. Vấn đề đáng chú
ý ở đây là lực lượng lao động di cư từ nông thôn ra thành thị hầu hết phải làm
những cơng việc khơng địi hỏi tay nghề cao và có mức thu nhập thấp. Hơn thế
nữa, việc di cư từ nông thôn ra thành thị dẫn đến tình trạng quá tải về cơ sở hạ
tầng và các dịch vụ cơ bản ở những đô thị lớn, địi hỏi phải có những giải pháp
tồn diện.


CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

9


Kinh nghiệm Trung Quốc về nông nghiệp và nông thôn là rất đáng để nghiên
cứu. Kể từ khi bắt đầu gia nhập WTO, Trung Quốc đã hết sức chú trọng đến
vấn đề giải quyết việc làm cho lực lượng lao động nông thôn. Trung Quốc thực
hiện khẩu hiệu “Ai ai cũng có kiến thức”. Người lao động chưa qua đào tạo và
trình độ thấp thì được đào tạo thơng qua “chương trình ánh sáng tham gia đào
tạo và hướng nghiệp” cho người lao động nơng thơn. Chính phủ Trung Quốc
cịn áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích tạo việc làm trong chiến dịch nông
thôn mới, kể cả việc tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng cho nơng thơn, xóa bỏ
học phí cho vùng nơng thơn. Ngồi Bộ Lao động và An sinh xã hội thì Bộ Dân
chính cũng tham gia đào tạo nghề cho lao động nơng thơn. Bình quân hàng năm
phải đào tạo khoảng 1 triệu người lao động cho vùng khó khăn. Với miền núi
khó khăn, tập trung đào tạo nghề, đưa đến các khu vực phát triển để tìm việc
làm, tạo ra nguồn thu nhập lớn cho vùng khó khăn.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã có các chính sách đẩy mạnh phát triển đơ thị, tăng
cơ hội việc làm và điều chỉnh cơ cấu sản phẩm của xí nghiệp hương trấn, đẩy
mạnh mậu dịch gia cơng bên ngoài, đưa lao động đi xuất khẩu; tăng cường xây
dựng kết cấu hạ tầng; phát triển nhiều ngành nghề mới và dịch vụ ở nông thôn...
để tạo việc làm và tăng thu nhập giảm nghèo.
Trung Quốc có chính sách trợ giúp nơng nghiệp, đó là điều chỉnh cơ cấu vùng
miền. Vùng ven biển giảm diện tích trồng cây lương thực, phát triển nông
nghiệp thu ngoại tệ, miền trung và miền tây phát triển nông nghiệp trồng trọt
nhằm đảm bảo phát triển cân đối giữa các vùng miền, đặc biệt chú trọng đến
vùng phía tây kém lợi thế so sánh. Trung Quốc thực hiện các cam kết WTO
nhưng đồng thời hướng đến một nền nông nghiệp chất lượng cao thông qua
việc hoàn thiện pháp luật về kiểm dịch động thực vật, hoàn thiện hệ thống tiêu

chuẩn chất lượng đối với sản phẩm trong nước. Người nông dân cũng được bảo
vệ với nhiều biện pháp cụ thể như đẩy mạnh trợ giúp nơng nghiệp, thực hiện
chính sách 4 miễn đối với nông dân (miễn thuế nông nghiệp, thuế chăn nuôi,
thuế đặc sản nơng lâm, thuế giết mổ), giảm đóng góp cho nông dân; đẩy mạnh
trợ giúp nông nghiệp, trợ cấp các hạng mục cho nông dân (giống, mua công cụ
lớn, sản xuất nông nghiệp tổng hợp...); đẩy mạnh trợ giúp sản xuất nông nghiệp
thông qua ứng dụng khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề cho nông dân, tăng cường
đầu tư kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới; thúc đẩy cải cách hệ thống lưu
thông sản phẩm.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

10


Bài học cho Việt Nam ở đây là cần tạo điều kiện để lao động nông thôn di
chuyển sang khu vực phi nông nghiệp. Năng suất lao động trong ngành công
nghiệp và dịch vụ cao hơn gấp 6 lần lao động ở nông nghiệp và như vậy mỗi
lao động nông nghiệp được chuyển sang khu vực khác sẽ tạo động lực đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế đất nước.
Chiến lược công nghiệp hoá ưu tiên phát triển các ngành sử dụng nhiều lao
động song song với việc đẩy mạnh giáo dục cơ bản ở nông thôn là tiền đề để
thực hiện sự phát triển trong công bằng. Đồng thời đầu tư vào kết cấu hạ tầng ở
nông thôn tạo điều kiện cho nơng dân đa dạng hố nơng phẩm và tiếp cận với
thị trường, thực hiện được chính sách phát triển nhanh nhưng không mở rộng
độ chênh lệch giàu nghèo trong q trình phát triển.
2.3. Xố đói giảm nghèo và cơng bằng xã hội
Thành tích xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã được thế giới đánh giá rất cao.
15 năm qua, Việt Nam là một trong những nước đạt được tốc độ giảm nghèo
nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ nghèo đói - tính bằng số người sống dưới mức

1USD/ngày – đã giảm từ khoảng 58% năm 1993 xuống còn 16% năm 2006.
Năm 2007, sau một năm gia nhập WTO tỷ lệ nghèo lại tiếp tục giảm 6,28% so
với cuối năm 2006.
Tỷ lệ nghèo đói ngày càng giảm của Việt Nam là nhờ những chính sách đem lại
tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục, với tốc độ 7- 8% năm trong hơn một thập
kỷ qua. Thành tích đó cịn do Việt Nam có chính sách hạn chế gia tăng bất bình
đẳng. Hệ số Gini, một chỉ số về bất bình đẳng thu nhập, chỉ tăng từ 0,34 năm
1993 lên 0,36 năm 2006 - thấp hơn các nền kinh tế mới nổi khác. Tỷ lệ người
gần ngưỡng nghèo đói cũng giảm xuống và nếu theo xu hướng này có thể hy
vọng nhiều người nữa thốt địi nghèo trong tương lai gần.
Trong bối cảnh Việt Nam chính thức gia nhập WTO, tăng trưởng và giảm
nghèo đã diễn ra đồng đều ở cả thành thị và nông thôn. Tỷ lệ nghèo chỉ khoảng
4% dân số đô thị năm 2006 là mức tương đối thấp so với nhiều nước khác trong
khi đó tỷ lệ này ở nơng thơn cũng đang giảm nhanh chóng. Năm 1993, khoảng
2/3 dân số nông thôn được coi là nghèo, nay con số này giảm xuống cịn 1/5.
Xóa đói giảm nghèo được tiến hành khắp các vùng, miền của Việt Nam. Tỷ lệ
nghèo ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên mặc dù còn cao hơn hẳn so với các
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

11


vùng khác chẳng hạn như Đồng bằng sông Cửu Long và Sông Hồng, nhưng
cũng giảm khá nhanh. Tỷ lệ nghèo của người thiểu số giảm xuống rõ rệt. Như
vậy không có vùng nào ở Việt Nam bị bỏ rơi trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Nhiều chuyên gia đã chỉ ra ba yếu tố dẫn đến tăng trưởng tương đối đồng đều
cho mọi người ở Việt Nam, đó là giáo dục, thương mại và kết cấu hạ tầng.
Ngày nay Việt Nam đã có tỷ lệ người biết đọc biết viết lên đến 95%, cao hơn
Trung Quốc và Ấn Độ, và đó là yếu tố quan trọng dẫn đến tăng trưởng cho mọi

người.
Thành tích của Việt nam xuất khẩu nhiều loại sản phẩm và thu hút đầu tư nước
ngoài nhờ những hiệp định thương mại song phương và với WTO đã làm tăng
thu nhập cho nhiều người.
Kết cấu hạ tầng nơng thơn, nhờ chương trình điện khí hố và giao thông nông
thôn giúp cho những khu vực xa xôi nhất của đất nước cũng không bị bỏ rơi.
Ngày nay, khoảng 95% hộ gia đình có điện lưới, so với 50% đầu những năm
1990. Khoảng 90% dân số sống trong khoảng cách khơng q 2 km tới đường
có thể đi được trong mọi điều kiện thời tiết. Người dân nông thôn hiện nay đã
có điều kiện tiếp cận dễ dàng với các phương tiện thông tin như radio và tivi, kể
cả ở vùng sâu, vùng xa. Các phương tiện liên lạc như điện thoại hay internet
ngày càng phổ biến ở nông thôn.
Mức độ giảm nghèo tiến bộ liên tục trong nhiều năm là nhờ Việt Nam đã có
những bước đi đúng đắn và cụ thể, thể hiện rõ nhất trong việc thực hiện Chiến
lược tồn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo với nhiều chương trình
quốc gia được sự hỗ trợ lớn của ngân sách và các nguồn viện trợ quốc tế.
Những chương trình quốc gia về các lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo hiểm, xóa đói
giảm nghèo, an sinh xã hội đã cải thiện nhiều chỉ tiêu phát triển con người của
Việt Nam như tuổi thọ, sử dụng nước sạch, tiến bộ về giới...
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là xố đói giảm nghèo đạt kết quả tốt nhưng lại
đang có xu hướng gia tăng bất bình đẳng tuyệt đối. Theo số liệu thống kê, nhóm
20% người giàu nhất có mức chênh lệch về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ gấp
6 lần so với nhóm 20% nghèo nhất. Xu hướng phân hóa giàu nghèo đang tăng
trong nội bộ khu vực nông thôn, và đặc biệt là giữa nông thôn với đô thị. Mặc
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

12


dù sự gia tăng chênh lệch giữa các vùng và giữa các nhóm người là tất yếu do

phát triển kinh tế và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nếu để chênh
lệch quá mức dẫn tới bất ổn xã hội sẽ thật sự là vấn đề đáng lo ngại và điều này
cần được hết sức lưu ý.
3-Đánh giá chung
Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đến nay mới
được hơn một năm. Việc đánh giá tác động về mặt xã hội cần phải có nhiều thời
gian hơn nữa và cần dựa trên những phân tích kỹ lưỡng hơn để đưa ra những
kết luận rõ ràng. Tuy nhiên qua những diễn biến thực tế được phân tích ở trên,
những ảnh hưởng về mặt xã hội khi Việt Nam gia nhập WTO có chiều hướng
tích cực nhưng cũng có khơng ít vấn đề phải đối mặt. Có thể rút ra một số nhận
xét sau đây.
Chỉ trong một thời gian ngắn trước khi vào WTO, đã có khoảng 30 bộ luật và
pháp lệnh được sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc và qui định của WTO,
điều đó chứng tỏ Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết WTO và sẵn sàng
đón nhận những thời cơ mới mà WTO mang lại.
Bên cạnh những con số ấn tượng đạt được về mặt kinh tế trong năm 2007,
những vấn đề xã hội cũng được cải thiện một bước.
Việc làm tăng lên nhiều qua các năm, đặc biệt là ở khu vực đầu tư nước ngoài
và khu vực dân doanh, chứng tỏ môi trường kinh doanh và đầu tư của Việt nam
đã ngày càng được cải thiện, trong đó có phần nhờ thực hiện các cam kết WTO.
Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước được tiến hành trong những năm
qua được dự kiến là làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, với sự chuẩn bị tốt,
Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ kịp thời đối với số lao động dư ra, do
đó hầu như khơng có tình trạng thất nghiệp. Đây là một kết quả đáng khích lệ
và cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Năm 2007,
kế hoạch được đề ra là cổ phần hóa 500 doanh nghiệp nhà nước nhưng đến hết
năm mới chỉ cổ phần hóa 116 doanh nghiệp, đạt 21%, là con số quá thấp so với
chỉ tiêu đề ra.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


13


Một số việc làm dự kiến sẽ bị mất đi trong thời gian sắp tới, đặc biệt là ở khu
vực các doanh nghiệp nhà nước sẽ cổ phần hóa, ở những doanh nghiệp khơng
cịn nhận được sự bảo hộ của nhà nước theo cam kết của WTO, hay thậm chí ở
một số ngành sử dụng nhiều lao động hiện nay có thể mất đi lợi thế cạnh tranh
khi Việt Nam hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, dự kiến tác
động này là có tính cục bộ, khơng q lớn và chỉ mang tính ngắn hạn. Mặc dù
vậy, cũng cần có những nghiên cứu đánh giá kỹ tác động tới việc làm theo từng
ngành cụ thể để có những giải pháp kịp thời.
Về tổng thể, hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn, phần lớn người lao
động sẽ có cơ hội làm việc tốt hơn, đặc biệt là người lao động có trình độ, có kỹ
năng, nhưng cũng có một bộ phận bị mất việc làm, nhất là những người khơng
có tay nghề.
Thu nhập của người lao động được tăng lên, đặc biệt là ở khu vực doanh
nghiệp. Có thể nói điều đó có được là do trong mơi trường cạnh tranh hơn, các
doanh nghiệp đã có những biện pháp đổi mới kinh doanh theo hướng hiệu quả
hơn, năng suất cao hơn và nhờ đó thu nhập của người lao động cũng tăng lên.
Tuy nhiên, thực tế lạm phát tăng nhanh trong năm qua cần có biện pháp xử lý
hiệu quả. Lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ làm cho thu nhập thực tế của người
dân giảm xuống. Theo một nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới, GDP
đầu người tính theo sức mua tương đương (PPP) của Việt Nam giảm 30% năm
2007. Hơn nữa, lạm phát cao nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ kìm hãm tăng
trưởng và thậm chí có thể dẫn đến những bất ổn xã hội.
Việc tiền lương tăng lên phản ánh một thực tế là nhu cầu về lao động tăng lên,
đặc biệt là đối với lực lượng lao động có kỹ năng, cho thấy có khả năng thiếu
hụt ở nhóm lao động này.
Vấn đề cơng bằng và bất bình đẳng của Việt Nam đã được giải quyết khá tốt và

được thế giới đánh giá cao. Cơng tác xóa đói giảm nghèo đạt được tiến bộ lớn
nhờ những chính sách phát triển lấy trọng tâm là con người và vì người nghèo
của Việt Nam được thực hiện trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, cần quan tâm đến sự chênh lệch giàu nghèo đang có xu hướng nới
rộng ra giữa người có tay nghề và người khơng có tay nghề, giữa thành thị và

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

14


nông thôn, giữa các vùng miền. Giải quyết tốt vấn đề chênh lệch giàu nghèo là
tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền vững.
Vấn đề cần quan tâm nhất là việc làm cho người nơng dân. Đây khơng phải
hồn toàn là vấn đề của riêng việc Việt Nam gia nhập WTO mà là vấn đề mang
tính cơ bản, chiến lược và lâu dài. Tình trạng thiếu việc làm của người nơng dân
là kết quả tất yếu của q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam đã và đang có nhiều chính sách hỗ trợ khá
hiệu quả cho q trình này, đặc biệt là những chương trình xóa đói giảm nghèo,
chương trình cơng nghiệp hóa hiện đại hố nơng nghiệp và nông thôn. Thực tế
cho thấy đời sống của người nông dân nhìn chung đã được cải thiện. Tuy nhiên,
nhiều vấn đề cần được giải quyết, đó là việc di dân theo chiều hướng khó kiểm
sốt về thành thị, tình trạng tái nghèo, tình trạng bỏ học tăng lên ở lứa trẻ, đời
sống khó khăn của người dân tộc thiểu số, vùng xa, vùng sâu.
Cuối cùng, để phát huy những thuận lợi về mặt kinh tế và xã hội do việc gia
nhập WTO mang lại cho Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập sâu hơn và
cạnh tranh được với các quốc gia khác, một điều không thể thiếu là xây dựng
một mạng lưới an sinh xã hội, đảm bảo cho mọi người có một cuộc sống an
tồn. Thực tế cho thấy hệ thống an sinh của Việt Nam hiện nay còn thiếu và
yếu.

Chắc chắn, việc Việt Nam gia nhập WTO cịn có những ảnh hưởng khác về mặt
xã hội như môi trường, quan hệ xã hội và đạo đức xã hội rất cần được nghiên
cứu đánh giá. Những vấn đề ấy nằm ngoài phạm vi đề cập của chuyên đề này.
II- TRANH THỦ PHÁT HUY THỜI CƠ VÀ THUẬN LỢI VỀ MẶT XÃ HỘI
KHI GIA NHẬP WTO – MỘT SỐ VIỆC CẦN LÀM

1- Thể chế và chỉ đạo, điều hành của Chính phủ
Muốn phát huy được những thời cơ và thuận lợi, hạn chế những khó khăn thách
thức cả về mặt kinh tế lẫn xã hội khi chúng ta vào WTO, điều đầu tiên và quan
trọng nhất là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phù hợp với những
cam kết của WTO.
Vào WTO, chúng ta tham gia vào một “sân chơi” toàn cầu với sự cạnh tranh
quyết liệt hơn nhưng cũng bình đẳng hơn. Thể chế Nhà nước đóng một vị trí rất
CIEM – Trung tâm Thơng tin – Tư liệu

15


quan trọng trong việc gia nhập sâu rộng vào sân chơi tồn cầu đó và thúc đẩy sự
phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam. Xây dựng một khung khổ thể chế
ở Việt Nam, tạo ra được một hành lang an toàn cho nền kinh tế, một trật tự ổn
định cho cuộc sống của người dân, các lợi ích, quyền và nghĩa vụ của từng cá
nhân, của các cộng đồng đều được điều chỉnh trong một môi trường đồng thuận
hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc của WTO.
Thể chế thể hiện thành pháp luật cần phải có vị trí tối thượng và mọi hoạt động
của cơ quan nhà nước phải công khai, dựa trên pháp luật. Nhà nước tạo điều
kiện nâng cao vai trò phản biện xã hội, giám sát xã hội của xã hội dân sự, tăng
cường sự tham gia của cộng đồng để người dân chủ động bàn định các chính
sách quốc gia và thực hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước
từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp.

Nhà nước cần tập trung nỗ lực hồn thiện một mơi trường pháp lý và chính sách
thuận lợi để phát huy mọi nguồn lực của xã hội. Mơi trường pháp lý đó phải lấy
công khai, minh bạch làm nguyên tắc hàng đầu, lấy cạnh tranh bình đẳng và
lành mạnh giữa các chủ thể hoạt động kinh doanh làm cơ sở nền tảng, việc trao
quyền cho người dân phải được lấy làm mục tiêu và người thực thi công vụ phải
luôn ý thức được trách nhiệm giải trình trước dân. Nhà nước kiểm tra, giám sát
để bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội.
Sự điều hành của Chính phủ chỉ tập trung làm tốt những gì thực sự cần thiết
thuộc về chức năng của Nhà nước, trả lại cho xã hội những công việc mà xã hội
có thể làm tốt hơn.
Phương thức can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế phải thật sự chuyển từ
những công cụ quản lý trực tiếp sang công cụ quản lý gián tiếp, dựa trên cơ sở
vận dụng đúng đắn thế mạnh của cơ chế thị trường.
Chính phủ phải nâng cao chất lượng xây dựng và giám sát việc tuân thủ các qui
tắc, chuẩn mực kinh tế - xã hội; trong đó có cơ sở pháp luật – thể chế đảm bảo
các điều kiện cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của thị trường. Nhà nước
đóng vai trị hỗ trợ phát triển thơng qua xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

16


Kiêt quyết chống tham nhũng, đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng phục
vụ thật tốt cho người dân và doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả các dự án đầu tư
của nhà nước, từ nguồn vốn ODA, nhất là về phát triển kết cấu hạ tầng.
2- Xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Một xã hội công bằng là xã hội trong đó mọi người đều có cơ hội học tập và lao
động, được hưởng đúng phần đáng được hưởng từ thành quả của mình, được tự

do làm những gì mà luật pháp khơng cấm.
Nhưng cơng bằng khơng có nghĩa là cào bằng, bình qn chủ nghĩa, người làm
nhiều lại được hưởng thụ và đánh giá như người làm ít. Cơng bằng trước hết là
sự bình đẳng trong cơ hội, cơ hội học tập, cơ hội làm việc, cơ hội kinh doanh.
Cùng với công bằng cơ hội là công bằng trong phân phối thu nhập (nhưng
không phải đồng đều).
Công bằng, dân chủ là điều kiện để đảm bảo trình độ văn minh của xã hội, là
yếu tố cần thiết để phát triển bền vững kinh tế quốc gia. Xã hội văn minh là xã
hội trong đó mọi cơng dân ý thức được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình và tự
giác thực hiện nghĩa vụ đó đối với xã hội. Xã hội văn minh là xã hội có kỷ
cương, nề nếp, con người lao động có năng suất cao, có đời sống vật chất đầy
đủ và đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, con người được tôn trọng, được
tự do phát triển về tài năng và nhân cách.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để đảm bảo sự phát triển bền vững thì
một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Đó cũng là mục tiêu của toàn Đảng, Nhà
nước và toàn dân ta.
Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì chỉ có thể dựa trên cơ
sở mọi thành viên trong xã hội sống và làm việc theo pháp luật, đề cao và tôn
trọng pháp luật với tinh thần của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3- Phát triển thị trường lao động cạnh tranh và chất lượng cao
Điều quan trọng để Việt Nam hội nhập vững chắc vào thị trường thế giới là phải
có được một đội ngũ lao động có chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao, có
khă năng thích ứng với thị trường và khai thác những cơ hội tốt hơn đang rộng
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

17


mở cho tất cả mọi người. Chất lượng lực lượng lao động thể hiện thứ nhất ở

trình độ chun mơn, tay nghề, kỹ năng hành nghề và tính linh hoạt nghề; thứ
hai là tinh thần chấp hành kỷ luật, hiểu biết pháp luật và ý thức hành động theo
luật pháp; và thứ ba là văn hố ứng xử trong cơng việc mang tính chuyên
nghiệp.
Bởi vậy, các chính sách về thị trường lao động phải được điều chỉnh để tạo điều
kiện cho sự dịch chuyển lao động phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế.
Trước hết, phải hoàn thiện khung pháp lý, thể chế, chính sách và sự quản lý của
Nhà nước đối với hoạt động của thị trường lao động, thiết thực hỗ trợ sự phát
triển thị trường lao động phù hợp với các thông lệ quốc tế và cam kết quốc tế
của Việt Nam.
Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường lao động cần chú ý đến
việc bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và cư trú của người lao động. Chế
độ hợp đồng lao động cần được thực hiện rộng rãi để bảo đảm quyền lợi của cả
người lao động và người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao động giữa chủ sử
dụng lao động và người lao động, vai trị của cơng đồn có ý nghĩa quan trọng.
Nếu u cầu việc làm cũng như những địi hỏi chính đáng khác của người lao
động không được giải quyết, cả hiện tại và tương lai, thì nhiều hậu quả xã hội
như bất bình đẳng xã hội, xung đột xã hội, tội phạm và tệ nạn xã hội có thể gia
tăng mà tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đến đâu cũng không thể bù đắp nổi
những tổn thất và hệ lụy xã hội
Chính sách tiền lương phải được thực hiện theo hướng thị trường hóa việc trả
cơng cho người lao động, bảo đảm cho tiền lương trở thành động lực thực sự
kích thích người lao động nâng cao năng suất, và ngược lại, chính hiệu quả và
năng suất lao động quyết định tiền lương. Nhà nước điều tiết thị trường lao
động thông qua áp dụng qui định mức lương tối thiểu chung. Mức lương tối
thiểu này cần được nghiên cứu tính tốn khoa học, phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế và được điều chỉnh tăng dần.
Các chính sách hỗ trợ khác bao gồm các chính sách đồng bộ về thông tin thị
trường lao động, tuyển dụng, hợp đồng lao động, dịch vụ việc làm, hỗ trợ

chuyển đổi công việc. Những biện pháp hỗ trợ này cần được thông tin nhanh

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

18


nhất và ít chi phí tìm kiếm nhất cho cả người lao động và người sử dụng lao
động.
Điểm quan trọng là chính sách đào tạo và dạy nghề cần được đổi mới dựa trên
những đòi hỏi của thị trường. Nhà nước có chính sách hỗ trợ người lao động đi
học nghề và tìm việc. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao
động, nhất là ở khu vực nông thôn.
Với thực trạng lực lượng lao động dồi dào và trẻ của Việt Nam, nhất là lao động
ở nông thôn, một biện pháp hữu hiệu là đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt
là lao động đã qua đào tạo nghề, lao động nơng nghiệp.
Chính phủ cần nghiên cứu, đánh giá tác động của việc mở cửa, gia nhập WTO
đối với việc làm trong giai đoạn hiện nay để có chiến lược phát triển thị trường
lao động một cách phù hợp. Việc nghiên cứu tác động của việc gia nhập WTO
phải sát thực tế, dự đoán được sự vận động của vấn đề, và đặc biệt cần có sự
phối hợp và lồng ghép giữa hành động của ngành và của lĩnh vực.
Cuối cùng, một điểm cần hết sức lưu ý là, một lực lượng lao động rẻ, và trình
độ tay nghề khơng cao có thể là lợi thế hiện tại nhưng sẽ kém khả năng cạnh
tranh khi kinh tế phát triển hơn nữa. Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút
đầu tư nước ngoài dựa vào lợi thế nhân cơng rẻ có thể giúp giải quyết vấn đề
việc làm trước mắt nhưng không phát huy được vai trị trong trung hạn và dài
hạn, thậm chí có thể tạo ra trở lực cho phát triển. Trong bối cảnh thị trường thế
giới có giá cả bị áp đặt, thành công trong cạnh tranh của Việt Nam phụ thuộc rất
nhiều vào khả năng duy trì sức cạnh tranh tại khu vực. Sức cạnh tranh này phụ
thuộc vào hai yếu tố chính: mức chi phí nhân cơng và năng suất. Chi phí nhân

cơng thấp là đặc điểm chung của cả khu vực mà Việt Nam nằm trong đó, do
vậy, chỉ có chất lượng lao động mới có thể tạo ra sự khác biệt của Việt Nam
trong cạnh tranh. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam cần phải
hướng vào chất lượng cao.
4. Cơng nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng thơn
Chính phủ cần tiến tới một phương án mang tính cơ bản, lâu dài với một chiến
lược hoàn chỉnh đối với nơng nghiệp, nơng thơn và nơng dân (tam nơng). Chính
sách đó cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện
đại hố nơng nghiệp, nơng thơn đã được đề ra nhưng được đặt trong điều kiện
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

19


thực tiễn mới - các nội dung đã cam kết khi gia nhập WTO. Kế hoạch phát triển
nông nghiệp, nông thôn phải hướng tới bốn lĩnh vực chủ yếu: tập trung xây
dựng hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn; tạo môi trường đầu tư thuận lợi
cho kinh tế nông thôn; chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ; và tạo sự liên
kết chặt chẽ nông thôn - thành thị. Về vấn đề này, kinh nghiệm của Trung Quốc
như đã trình bày ở phần trên sẽ là những bài học hữu ích cho Việt Nam.
Đã có nhiều chương trình hỗ trợ cho khu vực nông nghiệp, nông thôn được xây
dựng, vấn đề là nhanh chóng hiện thực hóa các chính sách, các biện pháp trợ
giúp cho người dân, doanh nghiệp để tăng năng lực sản xuất, cạnh tranh với sản
phẩm nông nghiệp của các nền kinh tế khác.
Đối với nguời nông dân, đất canh tác là tư liệu quan trọng nhất, do đó việc thu
hồi đất nơng nghiệp để phát triển đô thị, KCN, giao thông... đồng nghĩa với việc
nguời nông dân bị mất việc làm và hậu quả xã hội là nạn thất nghiệp gia tăng, tệ
nạn xã hội phát triển, đặc biệt bức xúc ở khu vực ven đô các thành phố lớn, gây
ra những bất ổn tiềm tàng nếu khơng có giải pháp kịp thời có thể gây ra những
hậu quả khôn lường về an ninh và trật tự xã hội.

Vì vậy, vấn đề cốt lõi là làm sao khi gia nhập WTO, phải giúp cho bằng được
70% nông dân Việt Nam khá lên.
Giải pháp trước hết là hỗ trợ sự dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang khu
vực phi nông nghiệp. Sự dịch chuyển này có thể diễn ra bằng hai cách. Một là
thu hút lao động ra khỏi khu vực nông thôn về các khu công nghiệp, thường tập
trung ở vùng đô thị. Hai là đưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn, phát triển
làng nghề. Cả hai cách đó cần được thực hiện đồng thời. Nhà nước cần đầu tư
đào tạo nghề cho nơng dân để đối phó với sự dịch chuyển trong nông nghiệp,
tập trung đào tạo nghề cho lực lượng trẻ, lao động nữ, hỗ trợ học phí cho người
học nghề.
Thứ hai là hỗ trợ nơng dân những gì WTO khơng cấm, qua đó tận dụng một
cách hiệu quả những ưu đãi cho nông nghiệp. Khi gia nhập WTO, phải xóa bỏ
chính sách trợ giá, nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà WTO cho phép (còn
được gọi là Hộp xanh) như thủy lợi, hệ thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, khuyến
nông, nghiên cứu áp dụng khoa học - cơng nghệ vào nơng nghiệp. Ở khía cạnh

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

20


này, Nhà nước và các tổ chức phi Chính phủ đóng vai trị quan trọng và cùng
nhau chia sẻ gánh nặng tài chính.
Thứ ba, Nhà nước cần tăng đầu tư về nông thôn, tập trung đầu tư cho khoa học
công nghệ và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Thứ tư, tập trung vào xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin tới nông dân.
Bên cạnh những thông tin thị trường và khoa học kỹ thuật, cần xây dựng hệ
thống thông tin thị trường lao động, cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết
về lao động và tổ chức các dịch vụ giới thiệu việc làm ở khắp các vùng nơng
thơn, nơi có nhiều thanh niên đang thiếu việc làm và sẵn sàng di cư để tìm kiếm

việc làm.
Thứ năm, có chính sách hỗ trợ để nâng cao tiêu chuẩn và chất lượng của sản
phẩm nông nghiệp, đảm bảo sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Khi đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nơng nghiệp tiếp tục trở thành
động lực rất quan trọng thúc đẩy cơng cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
5. Hệ thống an sinh xã hội
Mục tiêu của hệ thống an sinh xã hội là đảm bảo cho mọi công dân, không loại
trừ một ai, được yên tâm trước mọi rủi ro có thể xảy ra đối với đời sống của họ.
Hệ thống an sinh xã hội hiện nay ở Việt Nam bao gồm các chương trình dành
cho người lao động ở khu vực chính quy cộng với trợ giúp xã hội thơng qua các
chương trình mục tiêu và các hình thức hỗ trợ khác dành cho những người thiệt
thòi. Tuy nhiên, hệ thống an sinh hiện nay theo nhiều đánh giá còn thiếu và yếu.
Mức hưởng an sinh xã hội của nhóm người có thu nhập cao rất lớn trong khi
người có thu nhập thấp, ở nông thôn, miền núi chiếm tỷ lệ rất hạn chế. Theo tài
liệu cơng bố của chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), những gia
đình được hưởng nhiều an sinh xã hội nhất (40%) lại thuộc vào nhóm thu nhập
cao nhất Việt Nam, trong khi nhóm nghèo nhất chỉ nhận được chưa đến 7%.
Cũng theo nghiên cứu này, xét về tỷ lệ được hưởng an sinh xã hội, nhóm 20%
dân số giàu nhất trong xã hội Việt Nam hưởng cao gấp 6 lần nhóm người
nghèo. Nhóm liền kề nhóm giàu hưởng cao gấp 4 lần nhóm người nghèo.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

21


Mục tiêu phát triển của Việt Nam là nâng tỷ lệ giảm nghèo hàng năm từ 2%
hiện nay lên 3%. Trong khi đó, theo một nghiên cứu mới đây của nhóm các nhà
khoa học thuộc Trung tâm Phân tích chính sách xã hội, thuốc ĐHTH Bath
(Anh), về chính sách an sinh xã hội của Việt Nam, tỷ lệ nghèo có thể tăng 4,6%

nếu khơng có khoản trợ cấp an sinh xã hội. Những vấn đề hiện nay của hệ thống
an sinh xã hội của Việt Nam nếu không được giải quyết tốt sẽ dẫn đến hệ quả
làm thui chột những thành quả tăng trưởng kinh tế, làm trầm trọng thêm những
vấn đề xã hội và cuối cùng là ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của lực lượng
lao động. Do đó, cần một phương pháp tiếp cận hiện đại và thích hợp để giúp
người dân đối phó với những rủi ro có thể xảy ra với sinh kế và sức khỏe của
mình, đồng thời tránh bị tái nghèo chỉ vì những bất an trong cuộc sống như ốm
đau, khuyết tật, mất việc làm, nuôi con và tuổi cao.
Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam cần được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ
bản: Một là, phải giải quyết được những vấn đề trong giai đoạn chuyển đổi của
Việt Nam, mang tính kế thừa và phát triển. Hai là, phải mang tính xã hội. Ba là,
phải đảm bảo độ an tồn và có yếu tố bền vững.
Hệ thống phải thúc đẩy có hiệu quả nền kinh tế thị trường, giảm tối đa rủi ro
trong quá trình phát triển, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với xố đói
giảm nghèo trong từng bước phát triển của Việt Nam
Trước hết cần tạo khung pháp lý hoàn chỉnh về an sinh xã hội. Quốc hội chuẩn
bị thông qua Luật Bảo hiểm xã hội mới quy định ba hình thức bảo hiểm là bảo
hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Điểm quan trọng
là cần đổi mới chính sách bảo hiểm sao cho tách bạch rõ chức năng bảo hiểm và
chức năng phân phối lại mà hiện nay hệ thống bảo hiểm xã hội vẫn đang đảm
nhận. Đặc biệt cần cải tiến chế độ thu và chi bảo hiểm nhằm tạo điều kiện cho
người lao động không bị ràng buộc bởi một đơn vị hay thành phần kinh tế nào,
cho dù người đó là lao động tự do, miễn là họ tham gia đóng bảo hiểm đầy đủ
theo nghĩa vụ, đúng pháp luật. Điều này giúp cho thị trường lao động trở nên
linh hoạt hơn, và người lao động được tự chủ trong tìm kiếm việc làm phù hợp
với khả năng và điều kiện của mình. Trong tương lai gần, cần hướng tới xây
dựng chế độ bảo hiểm xã hội tồn dân và mang tính bắt buộc.
Cơ hội tất nhiên lớn với người lao động khi Việt Nam hội nhập nhưng để giảm
tối đa những thách thức, bảo vệ quyền lợi người lao động thì cần đẩy mạnh thực
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


22


thi các chính sách tạo việc làm thơng qua khuyến khích doanh nghiệp phát triển,
khuyến khích đầu tư nước ngồi vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, sự tham gia của xã hội dân sự đối với chăm sóc sức khỏe, y tế và
giáo dục cần được hết sức khuyến khích để bổ sung cho hệ thống an sinh xã hội
cũng như để san sẻ gánh nặng tài chính của Nhà nước. Một ví dụ của các nước
phát triển là gắn trách nhiệm xã hội với doanh nghiệp như chia sẻ gánh nặng
bảo hiểm, có chính sách khuyến khích (giảm thuế) đối với những doanh nghiệp
tuyển dụng nhiều lao động nữ, hay sử dụng người tàn tật, người dân tộc thiểu
số.
Cần hết sức chú ý đến những nhóm người dễ bị tổn thương. Nhóm người dễ bị
tổn thương là: nơng dân bị mất đất canh tác, bị thiên tai dịch bệnh, những người
bị rủi ro cá nhân, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa, người di cư tự do vào các đô thị, người nghèo và cận nghèo. Chính sách xã
hội phải hướng tới nhóm người này, trong đó người nghèo, trẻ em, phụ nữ,
người già, người tàn tật là những người cần được quan tâm nhiều nhất và chắc
chắn rằng họ phải được hưởng chế độ an sinh xã hội đầy đủ.
Cần đổi mới chính sách giáo dục và y tế sao cho mọi người dân đều có cơ hội
cơng bằng để tiếp cận với những dịch vụ quan trọng cơ bản này. Xã hội hóa các
dịch vụ xã hội là quan trọng, nhưng phải đảm bảo việc tiếp cận dễ dàng đối với
các nhóm xã hội yếu thế. Điều này có ý nghĩa an sinh xã hội rất lớn, có thể góp
phần quan trọng vào việc cải thiện kỹ năng và sức khỏe cho lực lượng lao động
quốc gia, đảm bảo chất lượng cho lực lượng lao động. Những chính sách hỗ trợ
hiện nay như cho học sinh nghèo vay tiền đi học cũng như khám, chữa bệnh
miễn phí cho trẻ em và người nghèo chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả xã
hội tích cực.
III- THAY LỜI KẾT


Gia nhập WTO mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam cả về kinh tế lẫn xã hội.
Việc tham gia vào sân chơi kinh tế toàn cầu này giúp Việt Nam thúc đẩy nhanh
hơn nữa những cải cách mà chúng ta theo đuổi, góp phần thực hiện nhanh hơn
những mục tiêu kinh tế và xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

23


Khi các tiêu chí tự do hố thị trường được cam kết và thực thi, các chính sách
xã hội liên quan đến thất nghiệp, mạng lưới an sinh xã hội, đào tạo và đào tạo
lại cần được đánh giá, xem xét lại kỹ lưỡng để có sự điều chỉnh phù hợp. Việc
đưa những chính sách đó vào thực tiễn khơng chỉ là vai trò của riêng Nhà nước
mà cần sự đóng góp của tất cả mọi người, của cả người lao động và người sử
dụng lao động, của cả người già và người trẻ, của cả công nhân, nông dân, trí
thức và của mọi tổ chức xã hội dân sự. Điều quan trọng nhất là phải thực hiện
nhất quán mục tiêu tối đa hố lợi ích tổng thể của hội nhập kinh tế quốc tế bằng
việc chấp nhận một số tốn phí của sự điều chỉnh trong ngắn hạn để đổi lấy
những lợi ích dài hạn. Tận dụng được thật nhiều cơ hội cũng có nghĩa là hạn
chế được thách thức nảy sinh trong q trình tồn cầu hố.
Gia nhập WTO cho phép Việt Nam bước hẳn vào nền kinh tế thế giới. Để tiến
lên một cách bền vững, các chính sách của nhà nước về xã hội đóng vai trị cốt
yếu.

CIEM – Trung tâm Thơng tin – Tư liệu

24




×