Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.4 KB, 22 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
ThS. BẢO TRUNG
ể từ khi đổi mới, Việt Nam từ
một nước thiếu ăn trở thành một giao dịch hàng hóa nơng sản thế giới. Mặc dù
Chính phủ ban hành nhiều chính sách phát
trong những quốc gia xuất khẩu nông sản
hàng đầu thế giới. Năm 2007, trong 10 mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD
thì nơng, lâm, thủy sản đã đóng góp 5 mặt
hàng với giá trị 10.864 triệu USD, chiếm
22,4% tổng kim ngạch xuất khẩu [10]. Mặc
dù ngành nông nghiệp đã đạt nhiều thành tựu
nổi bật, nhưng đời sống của người nơng dân
cịn gặp rất nhiều khó khăn.
Trong thời gian qua, Chính phủ đã có
nhiều chính sách hỗ trợ nơng nghiệp. Chính
phủ đã đầu tư nguồn lực phát triển thị trường
nông sản, “đưa thị trường” đến với người
nông dân. Từ năm 2001, Chính phủ chủ
trương xây dựng chợ đầu mối nông sản để
nông dân mang nông sản hàng hóa đến bán.
Một số chợ đầu mối nơng sản đã đưa vào hoạt
động như Trung tâm giao dịch thủy sản Cần
Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh), Chợ Trung
triển thị trường nông sản, nhưng hiệu quả của
các hình thức giao dịch nơng sản chưa cao,
thậm chí có thể nói là khơng hiệu quả. Nhiều
chợ đầu mối sau khi xây dựng xong chỉ hoạt
động vài tháng và đóng cửa. Các hợp đồng ký
kết giữa nơng dân và doanh nghiệp chỉ mang
tính hình thức, khơng được thực hiện. Các
doanh nghiệp tham gia giao dịch nông sản
qua các Sở giao dịch hàng hóa nước ngồi bị
thua lỗ và họ khơng tiếp tục tham gia giao
dịch. Thực tiễn đã chỉ ra rằng thể chế quản lý
(cấu trúc tổ chức, cơ chế và điều kiện vật
chất) không phù hợp là nguyên nhân dẫn đến
các hình thức giao dịch nơng sản khơng hiệu
quả trong bài viết này, tác giả trình bày lý luận
thể chế giao dịch nông sản, kinh nghiệm quốc
tế và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
1. KHÁI NIỆM VỀ THỂ CHẾ
GIAO DỊCH NÔNG SẢN
Khái niệm học thuật về thể chế
(Institution) rất phong phú và đa dạng. Khái
niệm thể chế đầu tiên của Thorstein Veblen
(1914): thể chế là “tính quy chuẩn của hành
vi hoặc các quy tắc xác định hành vi trong
tình huống cụ thể, được các thành viên của
một nhóm xã hội chấp thuận và tuân thủ”
[1]. Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới
năm 2002, thể chế là “Những quy tắc và tổ
chức, gồm cả các chuẩn mực khơng chính
thức, phối hợp hành vi con người” [18].
Theo các tác giả đề tài KX-01-06, “Thể chế
là cách thức xã hội xác lập khung khổ, trật
tự, trong đó diễn ra các quan hệ giữa con
người và cơ chế, quy chế, quyền lực, quy tắc,
luật lệ vận hành của trật tự xã hội đó”[1].
Douglas C. North (1994) cho rằng thể chế là
“những giới hạn do con người đặt ra nhằm
cơ cấu sự tương tác giữa con người với nhau;
đó là tổng hợp những giới hạn chính thức
(như nguyên tắc, luật lệ, hiến pháp) và phi
chính thức (ví dụ những quy phạm về hành
vi, tục lệ, nguyên tắc đạo đức) và những đặc
điểm cưỡng chế của chúng” [13]. Một nhánh
kinh tế học đã xuất hiện đặt trọng tâm vào
các thể chế, gọi là “Kinh tế học về thể chế
mới (New Institutional Economics - NIE)”
cho rằng thể chế là “những nguyên tắc của
cuộc chơi” trong xã hội; khơng có chúng thì
Thứ nhất, thể chế là hệ thống bao
gồm “người chơi”. Đây là các chủ thể tham
gia “trò chơi”. “Trò chơi” là nội dung hoạt
động mà các chủ thể tham gia. Giao dịch
hàng hóa chính là “trị chơi”. Trên cơ sở của
“trò chơi”, người ta xác định cấu trúc tổ chức
cho các chủ thể tham gia. Các chủ thể tham
gia bao gồm cả thể nhân và tổ chức. Điều
này có nghĩa cấu trúc tổ chức là một thành
phần của thể chế. Cấu trúc tổ chức là xác
định các chủ thể, mối quan hệ giữa các chủ
10
thể và vai trò của mỗi chủ thể tham gia “trò
chơi”. Đây chính là xây dựng khung khổ trật
tự trong đó các quan hệ của con người được
cấu trúc theo một cách thức nhất định.
Khung khổ trật tự này một mặt định dạng
kiểu cách thể chế, hay kiểu “trị chơi”; mặt
khác, xác định vị trí, vai trị và quyền của con
người trong khung khổ cấu trúc các quan hệ
thể chế. Nói cách khác thể chế trước hết xác
định kiểu “trò chơi” và “người chơi” [7].
Thứ hai, thể chế là hệ thống bao gồm
chế (mechanism) của “trò chơi”. Tuy nhiên,
khái niệm này chỉ mới liên quan đến “phần
mềm”. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
nói chung, người ta nhận thấy rằng “phần
mềm” có thể hoạt động tốt trong điều kiện
vật chất này mà không hoạt động tốt trong
điều kiện vật chất khác. Các điều kiện vật
Như vậy, thể chế là cấu trúc tổ
chức và cơ chế vận hành của một
hệ thống xã hội điều chỉnh hành vi
của 2 hay nhiều chủ thể khác nhau
phù hợp với những điều kiện vật
chất cụ thể.
Theo Philip Kotler, giao dịch là một
sự mua bán giữa hai bên liên quan đến ít nhất
là hai thứ có giá trị, những điều kiện được
thỏa thuận, thời điểm thỏa thuận, và nơi chốn
thỏa thuận [4]. Thể chế giao dịch nông sản là
thể chế liên quan đến hoạt động giao dịch
nông sản. Như vậy, thể chế giao dịch
nông
sản là cấu trúc tổ chức và cơ chế vận
hành
của các hoạt động giao dịch nông
sản giữa
2 hay nhiều chủ thể tham gia phù
hợp với
điều kiện vật chất nhất định. Hàng
hóa
khác nhau. Căn cứ vào cấu trúc tổ chức của
thị trường nông sản, người ta chia giao dịch
nông sản thành 3 hình thức: giao dịch giao
ngay (spot transaction), giao dịch hợp đồng
(Contract farming) và giao dịch giao sau
(forward, futures, option) [15]. Phần tiếp
theo sẽ phân tích thể chế của 3 hình thức giao
dịch nơng sản.
2. THỀ CHẾ CÁC HÌNH THỨC
GIAO DỊCH NƠNG SẢN
2.1. Thể chế hình thức giao dịch
sản xuất theo hợp đồng
Sản xuất theo hợp đồng (contract
farming) được xem một trong hình thức giao
dịch nơng sản tiên tiến. Eaton và Shepherd
2.1.1. Mơ hình tập trung
(Centralized model)
Mơ hình tập trung là mơ hình các
doanh nghiệp trực tiếp ký hợp đồng với nông
dân. Chủ thể tham gia là nông dân và doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ. Doanh nghiệp chịu
trách nhiệm cung cấp hầu hết các yếu tố đầu
vào, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và giám
Mơ hình này thường chỉ áp dụng đối
với doanh nghiệp có nhà máy chế biến đủ
khả năng mua hết sản phẩm của nông dân
trong vùng; nông dân có trang trại quy mơ
lớn. Điều này phát sinh nhu cầu sản xuất
theo hợp đồng để đảm bảo nơng sản tiêu thụ
hết. Ngồi ra, mơ hình này cịn áp dụng cho
trường hợp có “tính chun biệt về tài sản
(asset specificity)” như con người, vật chất
(physical), địa điểm [14]. Ví dụ như sản xuất
sản phẩm địi hỏi nhiều cơng lao động; độc
quyền mua do vị trí nhà máy; sản xuất sản
phẩm hữu cơ (organic), theo GAP, HACCP.
2.1.2. Mô hình trang trại hạt
nhân (Nucleus Estate Model)
Mơ hình trang trại hạt nhân là tương
tự mơ hình tập trung, nhưng người mua
sở hữu đất đai, chuồng trại, vườn cây. Đây
là mơ hình “tái lập trang trại gia
đình…trong lịng doanh nghiệp nơng
nghiệp
quy mơ lớn có từ hai cấp quản lý trở
lên”[3],
giữa người sản xuất và người mua ký một
hợp đồng gọi là “hợp đồng giao khoán”.
Trong đó, hợp đồng quy định: Doanh
nghiệp
kinh doanh nơng nghiệp giữ vai
trị định
hướng sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật
(khuyến
nông), cung ứng dịch vụ đầu vào,
đầu ra…,
giám sát các hoạt động kinh doanh
sản xuất
trên vườn cây, đàn gia súc giao
khoán…
Quan hệ giữa doanh nghiệp giao
khoán và
bên nhận khoán được thiết lập theo
nguyên
tắc thị trường, thuận mua, vừa bán
[3, trang
187]. Bản chất của mơ hình này chính là
trang trại dự phần hay công ty dự phần trong
nông nghiệp (affiliated farm).
Muốn phát triển sản xuất theo hợp
đồng theo mô hình trang trại hạt nhân, các
doanh nghiệp phải thực hiện tốt cung cấp
dịch vụ đầu vào, đầu ra cho trang trại gia
đình.
2.1.3. Mơ hình đa chủ
thể (Multipartite Model)
và nhà khoa học. Chủ thể tham gia trong mô
hình này bao gồm nhiều thành phần khác
nhau như các cơ quan nhà nước, các cơ quan
khoa học, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nơng
dân. Đặc điểm của mơ hình này là các chủ
hạt nhân gắn kết nhà khoa học với nơng dân,
gắn kết nhà tài chính với nơng dân và tiêu
thụ sản phẩm cho nông dân. Doanh nghiệp
là người quyết định đầu ra, nên họ biết được
thị trường cần gì để đặt hàng cho nơng dân
sản xuất. Ngồi ra, doanh nghiệp cũng chính
là người đặt hàng cho các nhà khoa học,
ngân hàng, cung cấp các dịch vụ cho mình
và cho nơng dân. Vai trò của nhà nước là xử
lý các mối quan hệ giữa các bên ký kết hợp
đồng, quy hoạch vùng sản xuất, đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng, giải quyết những vấn
đề khó khăn nảy sinh do thị trường, thiên tai
gây ra, và vận động, giáo dục, tuyên truyền
nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các bên
tham gia sản xuất theo hợp đồng.
Mơ hình đa chủ thể được áp dụng
trong điều kiện sản xuất nông nghiệp phân
tán, manh mún, lạc hậu. Bản thân nông dân
“không thể tự giải quyết 3 vấn đề của nền
nông nghiệp hàng hóa là thị trường, cơng
nghệ và vốn, do quy mô kinh doanh quá
nhỏ” [3]. Doanh nghiệp đảm đương vấn đề
thị trường cho nông dân; vốn sẽ do ngân
hàng đảm nhận và công nghệ sẽ do nhà khoa
học đảm nhận. Bên cạnh đó cần có các tổ
2.1.4. Mơ hình phi chính
thức (Informal Model)
Đây chính là hợp đồng miệng giữa
nông dân với người mua gom (thương lái)
hoặc những người mua khác. Người mua
đồng thời là người cung cấp vật tư, phân bón.
Họ thực hiện phương thức ứng trước vật tư,
phân bón cho nơng dân và đến khi thu hoạch
thì họ thu lại giá trị đầu tư bằng sản phẩm.
Mơ hình này thường chỉ áp dụng
trong cùng cộng đồng. Mối quan hệ giữa
nông dân và người mua rất chặt chẽ nên hợp
đồng được đảm bảo. Tuy nhiên, khi mở rộng
phạm vi hoạt động thì thương lái ít áp dụng
mơ hình này vì họ sẽ gặp rủi ro lớn.
Sản xuất theo hợp đồng theo mơ hình
phi chính thức áp dụng chủ yếu trong trường
hợp sản xuất nông nghiệp theo quy mô nhỏ
và giữa nông dân với thương lái là chủ yếu.
Mơ hình này có ý nghĩa đối với nền nơng
nghiệp mà trình độ nơng dân cịn thấp. Họ
xem những ràng buộc hợp đồng văn bản
2.1.5. Mơ hình trung gian
(Intermediary Model)
Đây là mơ hình doanh nghiệp ký hợp
đồng với nông dân thông qua các đầu mối
trung gian như hợp tác xã, tổ hợp tác, hội
nông dân hoặc người đại diện cho một số hộ
nông dân. Đặc điểm của mơ hình này là
doanh nghiệp khơng ký kết hợp đồng trực
tiếp với nông dân. Thay vào đó, doanh
nghiệp thuê các cá nhân, tổ chức trung gian
thực hiện vai trị của mình. Các cá nhân, tổ
chức trung gian nhận giống, phân bón… từ
doanh nghiệp về phân giao cho nông dân;
hướng dẫn quy trình kỹ thuật cho nơng dân;
thu lại nơng sản từ nơng dân giao cho doanh
nghiệp. Doanh nghiệp thanh tốn tiền hoa
hồng cho tổ chức trung gian.
Mơ hình này góp phần làm giảm chi
phí giao dịch nhờ đầu mối hợp đồng giảm đi;
việc kiểm soát sản xuất và chất lượng sản
phẩm của doanh nghiệp dễ dàng hơn. Người
trung gian đóng vai trị cho đại diện cho
nơng dân, tạo nên sức mạnh tập thể để
thương lượng với doanh nghiệp.
2.2. Thể chế hình thức giao
dịch giao ngay nơng sản
Giao dịch giao ngay (Spot
transaction)
là thỏa thuận mua hay bán hàng hóa theo giá
cả của thị trường tại thời điểm thỏa thuận và
việc giao nhận hàng, thanh toán ngay lập tức
hay một thời điểm nào đó trong tương lai.
Thuật ngữ “giao ngay” chưa phản ánh rõ bản
chất của giao dịch này vì “giao ngay” nhưng
hàng hóa người bán giao cho người mua có
thể sau vài ngày, vài tuần, thậm chí vài
tháng. Bản chất giao dịch giao ngay là hai
bên mua, bán hàng hóa thực, tức là đã có
hàng và giá được xác định theo thị trường
hiện tại. Nơng dân kiểm sốt và quyết định
tồn bộ q trình sản xuất như sử dụng phân
bón, thuốc trừ sâu như thế nào, cũng như họ
phải tự bỏ vốn đầu tư cho hoạt động của
mình. Sau khi thu hoạch, nơng dân phải tự
tìm kiếm thị trường và thương lượng với
người mua để bán nơng sản do mình sản xuất
ra. Nếu giá cả thị trường tại thời điểm giao
dịch cao hơn chi phí mà nơng dân bỏ ra thì
họ có lời và ngược lại thì thua lỗ.
Chủ thể tham gia giao dịch bao gồm
nông dân, hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp,
yếu:
Thứ nhất, là hình thức giao dịch nơng
sản phân tán. Đây là giao dịch trực tiếp giữa
người bán và người mua tại địa điểm của
người bán hoặc người mua.
Thứ hai, là hình thức giao dịch nơng
sản tập trung. Nhiều người mua và nhiều
người bán tập trung tại một địa điểm cụ thể
để thỏa thuận hoặc thực hiện đấu giá nơng
sản, có sự tham gia của người trung gian
trong hoạt động giao dịch giữa người mua và
người bán.
Đối với hình thức giao dịch giao
ngay, cơ chế hình thành giá hồn tồn do
cung cầu của thị trường quyết định. Trong
trường hợp giao dịch phân tán, người mua và
người bán trực tiếp giao dịch với nhau để
thỏa thuận giá cả, chất lượng, phương thức
giao nhận và thanh toán. Điều này dẫn đến
lợi thế ln nghiêng về người có quyền lực
thương lượng lớn hơn. Trong trường hợp
giao dịch tập trung, nhiều người mua và
nhiều người bán cùng tập trung thỏa thuận
Ưu điểm của loại giao dịch giao ngay:
Người mua, người bán thỏa thuận trực tiếp,
công khai về hàng hóa. Mặt hạn chế: chênh
lệch giá giữa các địa phương do mất cân đối
cung cầu cục bộ và thông tin ách tắc; người
bán, người mua phụ thuộc vào giá cả thị
trường hiện tại; phát sinh dự trữ từ người bán
(chờ khách mua) và từ người mua (chưa sử
dụng đến).
Muốn hình thức giao dịch giao ngay
phát triển phải hoàn thiện được cơ sở hạ tầng
giao thơng để hàng hóa lưu thông từ vùng
này đến vùng kia dễ dàng; kết cấu hạ tầng
thương mại như các chợ đầu mối, trung tâm
nông sản, siêu thị,…cũng phải phát triển.
Trong đó, các chợ đầu mối và trung tâm
nông sản phải gắn liền với hệ thống kho
tàng, cơ sở chế biến,… để đảm bảo cho hoạt
động mua bán diễn ra thuận lợi. Trong bối
cạnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, kết
cấu hạ tầng thơng tin cũng đóng vai trò rất
quan trọng như giao dịch thương mại điện tử
2.3. Thể chế hình thức giao
dịch giao sau nơng sản
Cũng tương tự như thuật ngữ “giao
ngay”, thuật ngữ “giao sau” chưa phản ánh
rõ bản chất của hình thức giao dịch này.
Tuy nhiên, do chưa có thuật ngữ nào chính
xác hơn nên tác giả sử dụng thuật ngữ
“giao sau” để chỉ 3 hình thức giao dịch được
phân tích dưới đây là giao dịch triển hạn
(forward transaction), giao dịch kỳ hạn
(futures transaction) và giao dịch quyền chọn
(option transaction).
2.3.1. Giao dịch triển hạn
Giao dịch triển hạn (forward
transaction) là một thỏa thuận mua bán một
số lượng hàng hóa mà việc chuyển giao hàng
hóa được thực hiện sau một thời hạn nhất
định, với giá cả đã đồng ý ngày hôm nay [8].
15
Thỏa thuận đạt được của giao dịch triển hạn
được gọi là hợp đồng triển hạn (forward
contract) và thị trường giao dịch loại hợp
đảm nhận ln vai trị giao dịch trực tiếp với
người mua và người bán. Điều này làm xuất
hiện chủ thể kinh doanh mới trên thị trường
triển hạn là “nhà tạo lập thị trường” (market
maker). “Nhà tạo lập thị trường” là người
giao dịch trên thị trường chịu trách nhiệm
mua bán với công chúng” [8]. Họ là người
nắm giữ hàng hóa lớn và tạo ra tính thanh
khoản cho thị trường. Họ sẵn sàng mua hàng
hóa khi người bán muốn bán và sẵn sàng bán
khi người mua muốn mua. Ngày nay, giao
dịch triển hạn được thực hiện trên thị trường
phi tập trung - OTC. Chủ thể tham gia bao
gồm người mua, người bán, người môi giới,
ngân hàng và người tạo lập thị trường.
Sự khác biệt lớn nhất của giao dịch
triển hạn với giao dịch giao ngay không phải
việc giao hàng ngay hay giao hàng sau mà
chính là “giá cả đã đồng ý ngày hôm nay”,
chứ không phải “giá cả hôm nay”. Giá cả hai
bên thỏa thuận phản ánh giá kỳ vọng của họ
Thứ nhất, giá cố định có thể cao hơn
hoặc thấp hơn giá của thị trường hiện tại.
Người mua và người bán nếu kỳ vọng giá tại
thời điểm giao hàng cao hơn giá hiện tại họ
sẽ thỏa thuận giá cao hơn và ngược lại. Ưu
điểm của hình thức này là người mua, người
bán biết được số tiền mình sẽ trả, hoặc sẽ
nhận để tính toán kế hoạch kinh doanh và rủi
ro được chia đều cho mỗi bên. Hạn chế là cơ
chế thanh toán và xử lý tranh chấp chưa có
tính pháp lý cao, tùy thuộc thiện chí của các
đối tác đã ký kết.
Thứ hai, giá thị trường kỳ hạn. Giá
này thường được xác định dựa vào thị trường
kỳ hạn. Ưu điểm giá cả phản ánh cung cầu
của thị trường tại thời điểm giao hàng. Hạn
chế là cần có thị trường kỳ hạn để người
mua, người bán thỏa thuận giá.
Thứ ba, chốt giá sau
(Price-to-be-fixed). Đây là hình thức cho phép người mua
Muốn hình thức giao dịch triển hạn
phát triển, thị trường OTC và thị trường kỳ
hạn phát triển; pháp luật về hợp đồng có hiệu
lực, hiệu quả; chủ thể tham gia đầy đủ bao
gồm người mua, người bán, người môi giới
và người tạo lập thị trường.
2.3.2. Giao dịch kỳ hạn
Giao dịch kỳ hạn (futures
transaction)
là một thỏa thuận mua bán một số lượng
Giao dịch kỳ hạn đã tiếp thu được tất
cả những ưu việt, đồng thời khắc phục được
những hạn chế của giao dịch triển hạn. Điều
đó được thể hiện ở việc tiêu chuẩn hoá các
hợp đồng triển hạn để tạo thành một hợp
đồng kỳ hạn với các điều khoản cụ thể và
chặt chẽ hơn. Hơn nữa, giao dịch kỳ hạn
được thực hiện trên thị trường có tổ chức
cao, được gọi là thị trường kỳ hạn, nên giảm
bớt được rủi ro và tăng tính thực thi đối với
các hợp đồng. Trong thị trường kỳ hạn, tất
cả các giao dịch đều được tiến hành tại một
nơi quy định gọi là Sở giao dịch hàng hoá kỳ
hạn (Futures Exchange) hay gọi tắt là Sở
giao dịch hàng hóa.
Sở giao dịch hàng hóa là thị trường
được thiết lập để đưa ra các quy định và quy
tắc giao dịch; cung cấp các phương tiện giao
dịch; duy trì hệ thống điều hành đăng ký và
hủy các giao dịch; thực hiện trung gian giao
nhận hàng hóa và thanh tốn giữa người mua
và người bán [5]. Thành viên tham gia thực
hiện giao dịch tại Sở giao dịch hàng hóa bao
(dealer) là người thực hiện kinh doanh
cho chính mình; và người tạo lập thị trường.
Một bộ phận quan trọng của Sở giao dịch
hàng hóa là Trung tâm thanh tốn bù trừ
(Clearing House - CH). Trung tâm là người
bán đối với bên mua và người mua đối với
bên bán; thu tiền ký quỹ ban đầu từ bên mua
và bên bán đề phịng trường hợp họ khơng
thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ; đánh giá giá
trị của mọi trạng thái mở theo giá thị trường;
và chỉ định và giám sát việc giao, nhận hàng
hóa và thanh tốn.
Tại Sở giao dịch, người giao dịch
không chỉ mua bán lần đầu các hợp đồng
(giao dịch sơ cấp) mà còn mua bán lại (giao
dịch thứ cấp) các hợp đồng đang lưu hành.
Tồn bộ các loại hình giao dịch mua đi bán
lại này tạo nên tính thanh khoản cho các hợp
đồng từ khi phát hành cho đến khi đáo hạn.
Hoạt động giao dịch thơng qua Sở
giao dịch hàng hóa được thực hiện bằng cách
đặt lệnh mua, bán và giá được hình thành
thơng qua đấu giá tập trung. Người mua, bán
Ưu điểm chính của giao dịch kỳ hạn
là cơ sở pháp lý thực thi hợp đồng vững chắc
hơn; thị trường được tổ chức kỹ lưỡng và có
độ tin cậy cao. Mặt hạn chế của giao dịch kỳ
hạn là đòi hỏi người tham gia giao dịch phải
có kiến thức nhất định; người tham gia giao
dịch phải mở tài khoản giao dịch và nộp tiền
ký quỹ.
Muốn phát triển hình thức giao dịch
kỳ hạn, Sở giao dịch hàng hóa được thiết lập
với hệ thống hạ tầng đầy đủ; hệ thống pháp
luật về giao dịch kỳ hạn phải hoàn thiện;
người tham gia trên thị trường đòi hỏi có
kiến thức nhất định.
2.3.3. Giao dịch quyền chọn
Giao dịch quyền chọn
(option
transaction) hay còn gọi là giao dịch thông
qua hợp đồng quyền chọn. Hợp đồng quyền
chọn là hợp đồng lựa chọn nhằm mua hoặc
bán một quyền, chứ không bắt buộc để mua
hoặc bán một khối lượng hàng hóa. Sự xuất
18
dịch hàng hóa.
3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
3.1. Kinh nghiệm hình thành
và phát triển thể chế giao dịch sản
xuất theo hợp đồng
3.1.1. Bài học thứ nhất,
doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ
đóng vai trị hạt nhân quyết định
sự thành công của mơ hình sản
xuất theo hợp đồng.
Ở Hoa Kỳ và Thái Lan, các doanh
nghiệp chế biến, xuất khẩu là người khởi
xướng hình thức sản xuất theo hợp đồng.
Công ty CP của Thái Lan có nhu cầu chế biến
thịt gà nên họ có nhu cầu nguyên liệu cho sản
xuất rất lớn. Việc mua nguyên liệu trên thị
trường giao ngay khơng hiệu quả do chi phí
giao dịch cao và giá cả không ổn định nên họ
phải tự xây dựng cơ sở cung cấp nguyên liệu
bằng hình thức sản xuất theo hợp đồng. CP
cung cấp giống, thức ăn, thuốc thú y, hướng
dẫn kỹ thuật cho nông dân và thu lại sản
phẩm. Tương tự các doanh nghiệp chế biến
khoai tây chiên ở Thái Lan cũng vậy. Ở Trung
Quốc, Chính phủ lựa chọn và chỉ định các
doanh nghiệp đủ tiềm lực về kinh tế, công
nghệ và kỹ thuật để ký hợp đồng với nông
dân. Phần lớn các trang trại Hoa Kỳ ký hợp
đồng trực tiếp với doanh nghiệp chế biến, tiêu
đóng vai trị hỗ trợ và thúc đẩy sản
xuất theo
hợp đồng trong điều kiện nền sản
xuất nơng
nghiệp cịn phân tán, manh mún,
lạc hậu.
Ở Hoa Kỳ, pháp luật về hợp đồng
hồn tồn dựa trên ngun tắc tơn trọng
quyền tự do, tự nguyện của các bên tham gia
hợp đồng. Nhà nước khơng có bất kỳ chính
sách nào khuyến khích hoặc hỗ trợ để nơng
dân hoặc doanh nghiệp thực hiện sản xuất
theo hợp đồng. Đạo luật nông nghiệp năm
2002 của Hoa Kỳ chỉ quy định hợp đồng với
chính phủ nhằm bảo hộ cho người sản xuất
nơng nghiệp. Tuy nhiên, hình thức sản xuất
theo hợp đồng cũng được phát triển ở Hoa
Kỳ và việc sản xuất theo hợp đồng là hồn
tồn tự nguyện giữa nơng dân và doanh
nghiệp. Sở dĩ như vậy, các trang trại sản xuất
firms” do chính phủ khởi xướng đã thúc đẩy
mơ hình sản xuất theo hợp đồng.
Ở Việt Nam, với nền sản xuất nông
nghiệp phân tán, manh mún, lạc hậu hơn cả
Thái Lan và Trung Quốc, thì đây là bài học
mà chúng ta cần vận dụng để thực hiện sản
xuất theo hợp đồng.
3.1.3. Bài học thứ ba, sự thành
công
của các mơ hình sản xuất theo hợp
đồng
tùy thuộc vào những điều kiện vật
chất
nhất định.
Khơng có mơ hình sản xuất theo hợp
đồng nào phù hợp cho tất cả. Kinh nghiệm sản
xuất theo hợp đồng của Tập đoàn CP là một
bài học có giá trị. CP rất thành cơng trong mơ
hình chăn ni gia cơng, nhưng thất bại khi
áp dụng mơ hình này để sản xuất lúa và nuôi
tôm. Nguyên nhân là CP chưa đủ các điều
kiện vật chất cần thiết như nhà kho, cơ sở chế
biến phục vụ cho sản xuất lúa và nuôi tơm.
Ngồi ra các trang trại sản xuất lúa và ni
tơm ở Thái Lan thường có quy mơ nhỏ nên họ
chưa có nhu cầu sản xuất theo hợp đồng. Ở
Hoa Kỳ trừ những trang trại có cơ sở giết mổ,
chế biến riêng, còn lại gần như 100% các
trang trại chăn nuôi heo đều sản xuất theo hợp
đồng [12]. Sản xuất theo hợp đồng theo mơ
hình tập trung và mơ hình trang trại hạt nhân
thường chỉ áp dụng trong điều kiện các trang
trại quy mô lớn và sản phẩm có “tính chun
biệt về tài sản” (asset specificity).
Sản xuất theo hợp đồng theo mơ hình
đa thành phần, mơ hình trung gian và mơ
hình phi chính thức như ở Thái Lan và Trung
Quốc là mơ hình phù hợp trong điều kiện sản
xuất nông nghiệp quy mô nhỏ, phân tán,
manh mún lạc hậu. Những người trung gian
như HTX, người mua gom, ngay cả doanh
nghiệp thương mại ở địa phương chính là lực
lượng quan trọng làm cầu nối trung gian giữa
nông dân và doanh nghiệp chế biến, xuất
khẩu. Mối quan hệ hợp đồng giữa người
trung gian và nơng dân chỉ là hợp đồng
miệng vì trình độ của nơng dân thấp và sản
xuất ở quy mô nhỏ. Người trung gian làm đại
lý cho doanh nghiệp trong việc mua gom
nông sản từ nông dân và hưởng hoa hồng
cho công việc do doanh nghiệp ủy thác.
Ngoài ra, nhà nước cũng đóng vai trị quan
trọng trong q trình phát triển hình thức sản
xuất theo hợp đồng. Tóm lại, sự thành cơng
của các mơ hình sản xuất theo hợp đồng tùy
thuộc vào điều kiện vật chất nhất định.
3.2. Kinh nghiệm hình thành
và phát triển thể chế giao dịch giao
ngay
3.2.1. Bài học thứ tư, phát triển
loại hình dịch vụ thương mại bán
Chợ đầu mối nông sản truyền thống
là nơi thương nhân thuê mặt bằng và tự tổ
chức kinh doanh. Giá cả do các thương nhân
tự thương lượng với nhau. Chợ bán buôn
hiện đại là một doanh nghiệp thực hiện chức
năng dịch vụ thương mại bán buôn. Hiện
nay, Thái Lan đã phát triển được 68 chợ
trung tâm lúa gạo, 18 chợ trung tâm rau quả
và 3 chợ trung tâm thủy sản [17]. Theo quy
định của Cục nội thương Thái Lan, Chợ
trung tâm là một pháp nhân, dưới hình thức
cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, hợp tác xã hoặc tổ chức của nơng dân
được hình thành theo luật. Theo quy hoạch
chợ gạo và ngũ cốc cách nhau ít nhất 30 km;
chợ rau quả, thủy sản, gia cầm… mỗi tỉnh tối
đa 1 chợ, nếu nhiều hơn phải cách nhau ít
nhất 50 km [2]; chợ phải có diện tích đất xây
dựng thuộc quyền sở hữu hoặc thuê mướn
tối thiểu 5 năm. Diện tích chợ gạo và ngũ cốc
tối thiểu là 3,2 ha; chợ rau quả, gia cầm, gia
súc, thủy sản và mặt hàng khác tối thiểu 1,6
ha. Chợ gạo phải có nhà kho với sức chứa tối
thiểu 1.000 m3, cân ô tô, sân phơi và máy
sấy lúa. Tất cả các chợ trung tâm đều phải có
hệ thống kho, điện, nước, xử lý chất thải, khu
sơ chế, thiết bị kiểm tra chất lượng, hệ thống
Chủ thể kinh doanh của chợ đầu mối
của Thái Lan bao gồm nông dân, người mua
gom, người môi giới, người phân phối
(caterers), người bán lẻ và người tiêu dùng.
Chợ tổ chức mua bán cơng khai bằng hình
thức đấu giá hay thỏa thuận giá. Chợ có
nhiệm vụ thơng báo mặt hàng, giá cả, số
lượng buôn bán ở chợ. Chợ cung cấp các
dịch vụ vận chuyển, bốc xếp, lưu kho, chế
biến, thanh tốn và thơng tin thị trường. Hoạt
động mua bán ở chợ đều phải thông qua ban
điều hành chợ. Thương nhân muốn mua
hàng phải đặt tiền ký quỹ; hàng hóa trước khi
bán đều được ban quản lý chợ kiểm tra về
chất lượng và cân đo, đong đếm. Sau khi
người mua và người bán đã thỏa thuận giá
xong, họ phải nộp phiếu cho ban điều hành
chợ để thực hiện giao hàng và thanh toán.
Trung Quốc đang phát triển các chợ
bán buôn truyền thống trở thành trung tâm
phân phối hàng nông sản. Bộ Nông nghiệp
Trung Quốc đưa ra 4 chức năng chính của
chợ đầu mối: thứ nhất, sơ chế, phân loại,
đóng gói, bảo quản; thứ hai, cơ chế hình
thành giá; thứ ba, thỏa mãn nhu cầu giao
dịch, tiết kiệm chi phí cho người tiêu dùng
Sự phát triển loại hình dịch vụ thương
mại bán bn ở Thái Lan và Trung Quốc đã
góp phần ổn định giá cả, nâng cao chất lượng
sản phẩm và gắn kết được người sản xuất với
người tiêu dùng. Doanh nghiệp quản lý chợ
đã thay đổi chức năng từ đơn vị cung cấp
dịch vụ hạ tầng trở thành đơn vị thực hiện
chức năng dịch vụ thương mại bán buôn.
3.2.2. Bài học thứ năm, điều
kiện vật
chất góp phần phát triển giao dịch giao
ngay.
Trang trại gia đình ở Hoa Kỳ có quy
mơ lớn là lực lượng chủ yếu cung cấp nơng
sản hàng hóa. Những trang trại này có đầy đủ
các phương tiện vận chuyển, kho bãi, cơ sở
sơ chế. Thêm vào đó, kết cấu hạ tầng giao
thông tốt. Người sản xuất nông sản ở Hoa Kỳ
chủ yếu do trang trại có quy mơ nhỏ, khơng
có đầy đủ các phương tiện vận chuyển, lưu
kho, sơ chế,…và kết cấu hạ tầng giao thông
chưa hồn thiện. Do đó, hệ thống trung gian
(người mua gom và bán bn) cịn đóng vai
trị quan trọng. Sự thành công của các chợ
lúa, gạo ở Thái Lan như chợ lúa của tập đồn
CP ở vùng Đơng Bắc và chợ lúa của BAAC
ở vùng Tây Bắc nhờ vào kết cấu hạ tầng phát
triển. Các chợ đều nằm ở vị trí giao thơng
thuận lợi, được trang bị đầy đủ các phương
tiện như hệ thống phơi sấy, chế biến, lưu
kho,…Chính phủ Thái Lan cũng quy định
tiêu chuẩn kết cấu hạ tầng bắt buộc đối với
việc xây dựng các chợ trung tâm nơng sản.
Chính vì vậy một trong yếu tố quyết định sự
hình thành và phát triển thể chế giao dịch
giao ngay là các điều kiện vật chất đầy đủ.
3.3. Kinh nghiệm hình thành
và phát triển thể chế giao dịch giao
sau
3.3.1. Bài học thứ sáu, phát
triển thị
trường OTC cho giao dịch triển hạn
trước
khi thành lập Sở giao dịch hàng hóa
là phù
hợp với điều kiện Việt Nam.
đó phát triển thành Sở giao dịch kỳ hạn. Mơ
hình này thành cơng nhờ vào:
Thứ nhất, thị trường OTC là thị
trường hàng hóa thực. Tiêu chuẩn sản phẩm và
hợp đồng chưa được chuẩn hóa. Thị
trường OTC là nơi đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
nông sản cho nông dân và nhu cầu nguyên
liệu chế biến cho doanh nghiệp. Nhưng thị
trường này có cơ chế đảm bảo thực thi hợp
đồng tốt hơn thị trường giao ngay.
Thứ hai, thị trường OTC chính là nơi
cho thương nhân tập dượt phương thức
phòng chống rủi ro; đơn vị quản lý thị trường
học hỏi kinh nghiệm điều hành thị trường và
cơ quan nhà nước học hỏi kinh nghiệm trong
việc hoạch định chính sách, giám sát thị
trường.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay,
thương nhân chưa quen thuộc với các cơng
cụ phịng chống rủi ro, hàng nơng sản chưa
được tiêu chuẩn hóa, việc thực thi hợp đồng
cịn gặp nhiều khó khăn. Như vậy, việc phát
triển thị trường OTC để thực hiện giao dịch
triển hạn, sau khi thành công sẽ nâng thành
Sở giao dịch kỳ hạn là phù hợp.
3.3.2. Bài học thứ bảy, xây
dựng tổ
chức và cơ chế quản lý giao dịch
kỳ hạn
chặt chẽ, có sự phân biệt giữa giao
dịch kỳ
hạn hàng hóa nơng sản (hàng hóa
thơng
thường) với giao dịch chứng khốn
(giấy
tờ có giá).
Kinh nghiệm phát triển của các Sở
CBOT, CME và NYBOT (Sở giao dịch hàng
hóa New York) của Hoa Kỳ lúc đầu thành lập
hồn tồn tự phát, khơng có tổ chức và quản
lý chặt chẽ. Khi quy mô giao dịch càng lớn,
rủi ro xảy ra càng nhiều. Điều này dẫn đến
Chính phủ Hoa Kỳ phải xây dựng Luật để tổ
chức và quản lý các giao dịch này. AFET của
Thái Lan hoặc ZCE, SFE (Sở giao dịch hàng
hóa Thượng Hải), DCE (Sở giao dịch hàng
hóa Đại Liên) của Trung Quốc đều được
thành lập sau khi Chính phủ đã ban hành luật
pháp đầy đủ, đảm bảo cho các sở giao dịch
kỳ hạn xây dựng tổ chức và cơ chế quản lý
giao dịch kỳ hạn chặt chẽ. Ngoài ra, kinh
nghiệm của Thái Lan và Hoa Kỳ cũng cho
chúng ta thấy rằng cần phải tách bạch hai cơ
quan quản lý: cơ quan quản lý thị trường
chứng khoán và cơ quan quản lý thị trường
kỳ hạn hàng hóa thơng thường. Vào thập niên
1970, thế kỷ trước, chức năng hoạt động của
CFTC (Ủy ban giao dịch hàng hóa kỳ hạn)
và SEC (Ủy ban chứng khốn) khơng rõ ràng
đã làm thị trường kỳ hạn hàng hóa thơng
thường và thị trường chứng khốn liên tục bị
chao đảo. Mặc dù hai thị trường này có các
nghiệp vụ giao dịch giống nhau nhưng bản
chất hoạt động có khác nhau. Giao dịch kỳ
hạn nông sản hàng hóa là giao dịch nhằm
lý thị trường chứng khoán; tương tự ở Thái
Lan, AFTC quản lý thị trường kỳ hạn hàng
hóa thơng thường và SEC Thái Lan quản lý thị
trường chứng khoán.
3.3.3. Bài học thứ tám, chuẩn
bị các điều kiện vật chất cần thiết
cho hoạt động của Sở giao dịch
hàng hóa.
Lựa chọn hàng hóa giao dịch sẽ
quyết định cho sự thành cơng của Sở giao
dịch hàng hóa. Nơng sản hàng hóa đưa vào
giao dịch cần nhiều người có nhu cầu bảo hộ
(hedging) và nhiều người chấp nhận rủi ro
(speculating). Thái Lan chọn lựa gạo, sắn lát
và cao su là 3 mặt hàng sản xuất chủ lực và
nằm trong nhóm hàng xuất khẩu hàng đầu
của Thái Lan. Do đó, nhu cầu bảo hộ để tránh
biến động giá của nông dân và thương nhân
rất lớn và trên thị trường cũng có nhiều người
chấp nhận rủi ro cho mặt hàng này. Ở Trung
Trong bối cảnh ngày nay, giao dịch
phải nhanh chóng, kịp thời, đáng tin cậy. Hầu
hết các Sở giao dịch hàng hóa trên thế giới
đều chuyển từ giao dịch thủ công sang giao
dịch bằng hệ thống điện tử tự động, với hệ
thống nhập lệnh và khớp lệnh tự động bằng
máy tính. Hiện nay, phần lớn hệ thống giao
dịch điện tử trên thế giới đều được kết nối
vào mạng internet tồn cầu. Do đó muốn
phát triển hình thức giao dịch kỳ hạn, điều
kiện vật chất cần phải chuẩn bị đầy đủ.
Thể chế giao dịch nơng sản có vị trí
quan trọng trong q trình phát triển thị
trường nơng sản nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Nền nơng nghiệp hiện đại là nền nơng
nghiệp sản xuất hàng hóa lớn đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia và xuất khẩu, nâng cao
đời sống của nông dân, đặc biệt ở những
nước mà nông nghiệp cịn đóng vai trị quan
trọng trong q trình phát triển kinh tế - xã
hội như Việt Nam. Thể chế giao dịch nông
sản là cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Đinh Văn Ân và Lê Xuân Bá
(2006), Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ
nghĩa, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
[2] Cục Nội thương - Bộ Thương mại
(1998), Quy định Xúc tiến tổ chức thị
trường
trung tâm hàng nông sản, Tài liệu dịch
của
[3] Vũ Trọng Khải và Nguyễn Thắng
(2006), Đa dạng hóa chủ thể sở hữu
doanh nghiệp nơng nghiệp nhà nước,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Philip Kotler và Gary Amstrong
(2004), Những nguyên lý tiếp thị, Nhà
xuất bản Thống kê, Tp.HCM.
[5] Phòng kế hoạch - nguồn vốn
BIDV (2006), Giao dịch cao su tương
lai trên thị trường quốc tế, Bài trình
bày cho Tập đồn cao su Việt Nam,
Tp.HCM.
[6] Đặng Kim Sơn (2004), Ba cơ chế
thị trường, nhà nước và cộng đồng
- ứng dụng cho Việt Nam, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7] Hà Huy Thành (2006), Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[8] Nguyễn Thị Ngọc Trang (2006),
[9] Trung tâm từ điển học (2007), Từ
điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng,
Hà
Nội.
[10] Thời báo kinh tế Việt Nam
(2008), “Nơng nghiệp tăng trưởng trong khó
khăn”, Kinh tế 2007-2008 - Việt Nam
và Thế giới, trang 10-12, Hà Nội.
Tiếng Anh
[11] Charles Eaton và Andrew W.
Shepherd (2001), Contract Farming
Parner-ship for Growth, FAO Agricultural
Services Bullentin 145, pp. 2.
[12] Chenjun Pan and Jean Kinsey
(2002), The supply chain of pork: U.S. and
China, The Food Industry Center, University
of Minnesota, USA.
[13] Douglass C. North(1994),
“Institutional Competition”,
Economic
History (9411001), EconWPA, revised,
[ />
[14] Jason R.V. Franken and
Joost M.E. Pennings (2005), “Changing
agricultural marketing channel structures:
Interdependences & Risk preferences”,
Selected paper prepared for
presentation at
the American Agricultural
Economics
Association annual meeting,
Providence,
Rhode Island, July 24-27, 2005.
[15] James MacDonald, Janet
Perry, Mary Ahearn, et.al. (2004), Contracts,
markets, and prices - Organizing
the
Production and Use of
agricultural commodities,
Agricultural Economics Report N.837,
USDA.
[16] Michael Sykuta and Joseph
Parcell (2003), “Contract Structure and
Design in Identity Preserved Soybean
Production”, Review of
Agricultural
Economics 25 (2): 332-350, (working paper
version).
[17] The Department of Internal
Trade - Ministry of Commerce,
[
ypeid=15&catid=104].
Development Report 2002 - Building
Institutions for Markets, Oxford University
Press, Box 1.2, page 6.