Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

sáng kiến kinh nghiệm mỹ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.69 KB, 35 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hòa chung với không khí phát triển của thế giới, đất nước ta cũng luôn
luôn không ngừng đổi mới và phát triển về mọi mặt: Kinh tế, xã hội…, đặc biệt
là GD. Đảng, Nhà nước và cộng đồng đã nhận thấy tầm quan trọng của GD và đã
coi GD là quốc sách hàng đầu.
Với yêu cầu của xã hội và vai trò của mình, những năm gần đây Bộ Giaó
Dục luôn đưa ra những hướng đi mới cho toàn ngành bằng việc ban hành những
văn bản, nghị quyết về việc đổi mới nội dung chương trình, mục tiêu giáo dục,
đổi mới phương pháp dạy học… nhằm nầng cao chất lượng giáo dục nói chung
và đặc biệt là chất lượng giáo dục tiểu học – là nền móng cho nền giáo dục nước
nhà.
Với mục tiêu giáo dục của nước ta là: Giáo dục con người phát triển với 5
tiêu chí( Đức- Trí- Thể- Mỹ- Lao động). Mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm
giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu
dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp
tục học cấp THCS.
Với yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho
học sinh có những hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên; xã hội; con người; có
kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân
thể; giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật, kỹ
thuật.
Với những lý do trên mà lần đầu tiên môn mỹ thuật ở tiểu học có chương
trình mang tính pháp quy và được xây dựng đồng bộ cùng các môn học khác với
quy trình chủ nhiệm công phu từ năm 1998- 2000 ở nhiều trường trên các địa
bàn từ thành phố đến nông thôn. Chương trình Mỹ thuật ở tiểu học đã công bố
theo quyết định của Bộ trưởng bộ Giáo dục- Đào tạo được đưa vào sử dụng trong
phạm vi toàn quốc từ năm 2002-2003. Mỹ thuật là môn học chính thức, độc lập
trong hệ thống giáo dục phổ thông. Môn học này tạo điều kiện cho học sinh tiếp
xúc, làm quen với cái đẹp của thiên nhiên và các tác phẩm mỹ thuật, đồng thời
giúp học sinh tự tạo ra cái đẹp và áp dụng cái đẹp vào cuộc sống góp phần xây


dựng môi trường thẩm mỹ cho xã hội. Mỹ thuật là môn học bổ trợ để học sinh
học tốt các môn học khác.
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn mỹ thuật ở trường tiểu học, nhận thấy
tầm quan trọng của bộ môn mỹ thuật trong hệ thống giáo dục phổ thông, để đáp
ứng với xu thế phát triển chung của xã hội, của ngành. Tôi thấy mình cần có
trách nhiệm làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học môn mỹ thuật nói
chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng trong trường tiểu học vì Vẽ theo mẫu
là phân môn cơ bản giúp học sinh quan sát, ước lượng, vẽ hình…, tạo điều kiện
cho các em vẽ trang trí- vẽ tranh thuận lợi hơn. Đồng thời giúp học sinh làm
quen với cách làm việc gì trước, làm việc gì sau để công việc đạt hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do trên, qua nghiên cứu quá trình dạy học phân môn
Vẽ theo mẫu kết hợp với những hiểu biết đã có và những điều mới mẻ lĩnh hội
được từ các bài giảng về “ Phương pháp dạy học Mỹ thuật nói chung và phương
pháp dạy học vẽ theo mẫu nói riêng của các thầy cô ở trường ĐHSP Hà Nội,
trong khuôn khổ cho phép của một đề tài khoa học tôi quyết định chọn đề tài:
“Vận dụng phương pháp dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành cho học sinh
trong các bài học vẽ theo mẫu ở trường tiểu học”
II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1- Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm giúp tôi tự học, tự rèn luyện để nâng cao tay nghề
của bản thân, đồng thời muốn chuyển tải một số kinh nghiệm tích lũy được qua
quá trình công tác của mình đối với đồng nghiệp để cùng chung tay góp sức nâng
cao chất lượng dạy và học môn Mỹ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu
nói riêng.
2- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm:
Tìm hiểu những vấn đề lý luận về phương pháp dạy học tích cực nói chung
và phương pháp dạy học tích cực trong phân môn Vẽ theo mẫu ở trường THCS
Ngô Quyền nói riêng.
Tìm hiểu ưu điểm của phương pháp dạy học tích cực để vận dụng vào việc

thiết kế bài dạy để dành kỹ năng thực hành cho học sinh trong các bài vẽ theo
mẫu, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Mỹ thuật nói chung và vẽ theo
mẫu nói riêng.
III/ ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu:
Phương pháp dạy học tích cực nói chung và dạy học tích cực trong việc
rèn kỹ năng thực hành vẽ các bài Vẽ theo mẫu trong môn mỹ thuật nói riêng.
Đối tượng là học sinh của trường THCS Ngô Quyền.
2- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu việc dạy và học Mỹ thuật trong phạm vi trường THCS Ngô
Quyền .
IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra thực trạng của trường
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp so sánh kết quả thực nghiệm với trước kia.
V/ DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:
Trong quá trình làm đề tài: Vận dụng phương pháp dạy học tích cực để rèn
kỹ năng thực hành cho học sinh trong các bài vẽ theo mẫu đã trang bị cho bản
thân tôi cũng như các đồng nghiệp những vấn đề lý luận về phương pháp dạy
học tích cực nói chung và dạy học tích cực trong việc rèn kỹ năng thực hành vẽ
các bài Vẽ theo mẫu trong môn Mỹ thuật nói riêng.
Đề tài đã giúp tôi cũng như các đồng nghiệp vận dụng phương pháp dạy
học tích cực để thiết kế bài giảng để rèn kỹ năng thực hành trong các bài vẽ theo
mẫu, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Mỹ thuật nói chung và phân
môn Vẽ theo mẫu nói riêng.
Làm đề tài giúp cho bản thân tôi tự trang bị kiến thức, rèn luyện tay nghề
và làm giàu thêm phương pháp giảng dạy của mình nhằm nâng cao trình độ môn
nghiệp vụ, giúp học sinh phát triển óc tìm tòi sáng tạo và từ đó sẽ say mê học vẽ,

từ đó tạo hứng thú để các em học tốt các môn học khác.
Qua đề tài giúp cho các cấp, các ngành từ cấp trường- Phòng- Sở- Bộ-
Ngành có cái nhìn đúng đắn hơn về vai trò và vị trí của Mỹ thuật trong cuộc
sống xã hội.
B- NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
I/ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ SỞ KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI:
1- Cơ sở pháp lý:
Với sự phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi
những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường.
Thế giới chuyển sang thời kỳ kinh tế tri thức cho nên đầu tư vào chất xám
sẽ là cách đầu tư hiệu quả nhất cho sự hưng thịnh của mỗi quốc gia. Cũng vì lý
do này mà nhu cầu học tập của người dân ngày càng nhiều, trình độ dân trí ngày
một tăng, xã hội học tập đang hình thành và phát triển… Chính vì vậy đã từ
nhiều năm nay Đảng và Nhà nước luôn đặt ra cho ngành Gíao dục những yêu
cầu mới với những nhiệm vụ mới bằng những chỉ thị, nghị quyết, văn bản…
nhằm thay đổi mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục và cách đánh giá kết
quả học tập của học sinh để nâng cao chất lượng dạy và học. Trước thực tiễn đổi
mới đó phương pháp dạy học cũng cũng buộc phải thay đổi theo cho phù hợp.
Nghị quyết TW4 khóa VII đã chỉ rõ “ Đổi mới phương pháp dạy học ở tất
cả các cấp học, các bậc học, kết hợp học với hành, học tập với lao động sản xuất,
thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường và xã hội, áp dụng những
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề”
Nghị quyết TW2 khóa VIII tiếp tục khẳng định: “Phải đổi mới phương
pháp Giáo dục khắc phục truyền thụ một chiều rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của
người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh”.
Luật giáo dục điều 24.2 đã ghi rõ “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải

phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui
hứng thú học tập cho học sinh”.
2-Cơ sở lý luận:
Những năm gần đây để đáp ứng với sự thay đổi mạnh mẽ của nền giáo dục
nước nhà, đã có một số nhà xuất bản được sự cho phép của Bộ Gíao Dục và Bộ
Văn hóa: Nhà xuất bản Gíao Dục, nhà xuất bản ĐHSP… dã phát hành việc đổi
mới phương pháp dạy học ( Cuốn đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học, Mỹ
thuật và phương pháp dạy học ở tiểu học của NXBGD; Dạy học các lớp 1,2,3,4,5
theo chương trình tiểu học mới của NXBĐHSP…). Những tài liệu này đều viết
về việc đổi mới phương pháp dạy học, giúp giáo viên xác định các phương pháp
dạy học phát huy tính tích cực của học sinh và hướng dẫn giáo viên vận dụng các
phương pháp này để dạy tốt các môn học ở tiểu học trong đó có môn Mỹ thuật
mà tôi đang trực tiếp giảng dạy. Để góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào
sự phát triển chung của ngành tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm tích lũy được
trong quá trình giảng dạy vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong các
giờ dạy để cùng với các đồng nghiệp nâng cao chất lượng dạy- học Mỹ thuật nói
chung và phân môn Vẽ theo mẫu nói riêng.
3-Cơ sở thực tiễn:
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội, đáp ứng những đổi mới
mạnh mẽ của nền giáo dục. Hàng năm Bộ giáo dục đã mở các lớp tập huấn, bồi
dưỡng về việc đổi mới nội dung chương trình SGK và đổi mới các phương pháp
dạy học cho những cán bộ cốt cán ở cấp cơ sở, cấp phòng và chỉ đạo các cấp
triển khai đến toàn bộ giáo viên ở cấp trường vào những đợt nghỉ hè để giáo
viên có thể cập nhật những thông tin đổi mới của ngành nhằm trau dồi kiến
thức, kỹ năng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình để nâng cao
chất lượng giáo dục.
Hòa chung với không khí sục sôi của toàn ngành thực hiện đổi mới giáo
dục, trường THCS Ngô Quyền- Chưprông- Gia Lai với sự lãnh đạo, chỉ đạo của

chi bộ Đảng, BGH, toàn bộ giáo viên trong trường cũng nô nức cùng nhau góp
chung bầu không khí nóng hổi của chiến dịch đổi mới giáo dục hoạt động:
Tham gia các lớp bồi dưỡng do PGD tổ chức và tự tổ chức các buổi xây dựng
các chuyên đề các môn học ở tổ, khối trong trường trong đó có môn mỹ thuật để
vận dụng tối đa có thể những vấn đề lĩnh hội được ở những lớp bồi dưỡng nhằm
cùng với đồng nghiệp nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và nâng cao chất
lượng dạy- học môn Mỹ thuật nói riêng.
II/ VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN KỸ
NĂNG THỰC HÀNH CHO HS TRONG CÁC BÀI HỌC VẼ THEO MẪU
1- Dạy học tích cực là gì?
Tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.
Nhờ có tính tích cực mà con người đã lao động sản xuất sáng tạo ra nhiều của
cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại, phát triển của xã hội, sáng tạo ra nền văn
hóa, cải tạo môi trường, chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội.
Bởi vậy hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong các
nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động thích
ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Tính tích cực được xem là một điều kiện,
đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
1.1/ Tính tích cực của học sinh trong học tập:
Tính tích cực của con người được biểu hiện trong hoạt động, đặc biệt
trong những hoạt động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo ở
lứa tuổi đi học. Tính tích cực trong hoạt động học tập tính tích cực nhận thức,
đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức.
Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận
thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người đã tích lũy
được. Tuy nhiên, trong học tập học sinh cũng phải khám phá ra những gì đã
nắm được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình. Đó là chưa nói đến
một trình độ nhất định, sự học tập tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và
người học cũng làm ra những tri thức mới cho khoa học.

Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với
động cơ học tập. Động cơ có đúng đắn mới tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề
của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực
sản sinh tư duy độc lập, suy nghĩ, độc lập suy nghĩ là mầm mống của sáng tạo.
Ngược lại phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác,
hứng thú, bồi dưỡng cho động cơ học tập.
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu hăng hái trả lời các câu
hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu các ý kiến của
mình trước vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn
đề chưa rõ, không chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đã học, kiên trì hoàn
thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn.
Tính tích cực học tập đạt những cấp độ từ thấp đến cao như:
- Bắt chước: Gắng sức làm theo các mẫu hoạt động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: Độc lập giải quyết các vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết
khác nhau về một số vấn đề…
- Sáng tạo: Tìm ra cách giải quyết mới độc đáo, hữu hiệu.
1.2/ Độc lập với tính tích cực là tính thụ động:
Tính thụ động học tập của học sinh được biểu hiện ở chỗ:
- Học sinh chủ yếu ít nghe giảng, ghi nhớ rồi làm bài theo mẫu.
- Học sinh ít hứng thú học tập, không thích phát biểu ý kiến.
- Trong lớp học sinh ít chú ý vào vấn đề đang học, không kiên trì nên không
hoàn thành các bài tập. Khi gặp khó khăn học sinh dễ chán nản, buông xuôi. Học
sinh không tự giác đánh giá kết quả học tập của mình và của bạn.
Do cách học như vậy nên học sinh thiếu năng động, làm việc máy móc,
không thể thích ứng được với những đổi mới đang diễn ra hàng ngày.
1.3/ Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực:
a) Dạy và học thông qua các tổ chức, các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp tích cực, người học được cuốn hút vào các hoạt động
học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những
điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo

viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học
trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách
suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kỹ năng mới, vừa nắm phương
pháp “ làm ra” kiến thức, kỹ năng đó không rập theo những khuôn mẫu có sẵn,
được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giáo viên
không chỉ đơn giản truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động và tích cực
tham gia vào các chương trình hành động của cộng đồng.
b) Dạy và học chú trọng phương pháp rèn luyện tự dạy và học:
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ thông tin, khoa
học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu
óc trẻ khối lượng lớn kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho trẻ
phương pháp học ngay từ bậc tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải
được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì
tạo ra cho học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, kết
quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt
hoạt động học trong quá trình dạy, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập bị
động sang học tập chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ
thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự
hướng dẫn của giáo viên.
c) Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác:
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về trình độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học
được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng dạy học tích cực ở trình độ cao thì sự phân hóa ngày càng lớn.

Việc sử dụng các công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá
thể học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.
Tuy nhiên trong học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân, lớp học là môi trường
giao tiếp giữa thầy và trò tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập
thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học
nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được hiểu biết và kinh
nghiệm của mỗi học sinh và của cả lớp chứ không phải dựa trên vốn hiểu biết và
kinh nghiệm của thầy giáo.
Trong nhà trường phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm,
tổ, lớp hoặc nhà trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp
tác trong nhóm 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập nhất là
lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa
các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ
không thể có hiện tượng ỷ lại, tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ
rõ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp
tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần
với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia,
liên quốc gia, năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà
trường cần phải chuẩn bị cho học sinh.
d) Kết hợp đánh giá của thầy và đánh giá của trò:
Trong dạy học đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động của học sinh đồng thời tạo điều kiện nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp
tích cực, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh phát triển kỹ năng tự tạo điều
kiện thuận lợi để học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều
chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thàng đạt trong cuộc sống mà

nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá
không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã
học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong giải quyết các vấn đề
thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kỹ thuật, kiểm tra, đánh giá sẽ không còn
là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên mà lại cho nhiều thông tin kịp thời
để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn hoạt động độc lập theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm
lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo
yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ
nhàn nhã. Trước đó, khi soạn giáo án giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời
gian rất nhiều với kiểu dạy và học thụ động mới có thể tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến bên ngoài tầm dự kiến của giáo
viên.
2. Một số phương pháp dạy học tích cực:
2.1/ Phương pháp quan sát:
Quan sát là sự tri giác có chủ đích, có kế hoạch tạo khả năng theo dõi tiến
trình và sự biến đổi diễn ra trong đối tượng quan sát, quan sát là hình thức cảm
tính tích cực nhằm thu thập những sự kiện, hình thành những biểu tượng ban đầu
về đối tượng của thế giới xung quanh. Quan sát gắn chặt với sự tư duy…
Quan sát được chia ra làm nhiều dạng như: Quan sát ngắn hạn, quan sát
dài hạn, quan sát tổng thể, quan sát từ bao quát đến chi tiết.
Tùy từng bài cụ thể mà dẫn dắt HS quan sát làm sao để đạt hiệu quả cao
nhất.
• Quan sát ngắn hạn: Tôi thường sử dụng trong lúc bắt đầu của tiết học để
dẫn dắt vào bài.

VD: Bài 4- lớp 5: Vẽ theo mẫu: Vẽ khối hộp và khối cầu
GV chuẩn bị một số mẫu khác nhau cho học sinh quan sát và đặt câu hỏi:
- Đây là những cái gì?
- Tìm khối hộp và khối cầu?
- Khối hộp và khối cầu có đặc điểm gì?
Từ đó dẫn dắt vào bài: Vẽ khối hộp và khối cầu. Sau đó giáo viên cất các loại
mẫu khác đi chỉ bày mẫu khối hộp và khối cầu để cả lớp cùng quan sát và vẽ.
• Quan sát dài hạn: GV cho HS quan sát lâu hơn trong cả tiết học. Trong tất
cả các bài Vẽ theo mẫu suốt cả tiết học GV nhắc HS luôn luôn quan sát
mẫu để tìm ra đặc điểm của mẫu để vẽ bài cho giống mẫu. Đến phần nhận
xét, đánh giá bài vẽ của HS cũng cần phải quan sát so sánh bài vẽ với mẫu
thật nhằm nhận xét, đánh giá xem bài vẽ có rõ đặc điểm của mẫu không.
• Quan sát từ bao quát đến chi tiết:
Việc quan sát từ bao quát đến chi tiết luôn hỗ trợ cho HS trong việc tìm
hiểu từ cái chung (lớn) đến cái riêng (nhỏ) hoặc cái nhỏ trong cái lớn. Gíup cho
HS nắm bắt được thực chất sự vật và rút ra kết luận cho vấn đề cần tìm hiểu.
VD: Dạy bài 14- lớp 4: Vẽ theo mẫu: Mẫu có hai đồ vật
Tôi cho học sinh quan sát cả hai vật mẫu để nhận xét tương quan chung, sau đó
cho học sinh quan sát chi tiết từng vật mẫu và nêu đặc điểm của từng mẫu.
*Quan sát chi tiết, đối chiếu so sánh tổng quát:
Cách quan sát này giúp học sinh đi từ chi tiết (bộ phận nhỏ) sau đó mới
đối chiếu so sánh cái lớn, cái chung
VD: Dạy bài 14- Lớp 4: Vẽ theo mẫu: Mẫu có hai đồ vật
GV hướng dẫn học sinh quan sát chi tiết từng đồ vật, sau đó đối chiếu, so
sánh tỉ lệ của từng đồ vật với nhau, rồi so sánh với cái chung để tìm ra khung
hình chung và khung hình riêng của từng vật mẫu.
Khi sử dụng phương pháp quan sát tôi luôn linh hoạt trong khi hướng dẫn
HS để các em nắm được kiến thức và hình thành thói quen và kỹ năng quan sát.
Các em có thói quen quan sát sự vật, hiện tượng rồi ghi nhớ và thể hiện
trên tranh vẽ của mình. Bên cạnh việc cho các em quan sát bằng tranh, ảnh, vật

thật…tôi cũng luôn chú trọng đến việc thị phạm nhanh để gây ấn tượng với học
sinh trong các tiết dạy giúp các em có hứng thú để tham gia vào việc học một
cách hưng phấn.
2.2/ Phương pháp vấn đáp: (đàm thoại)
Phương pháp vấn đáp là phương pháp GV khéo léo đặt hệ thống câu hỏi
để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho học sinh sáng tỏ những vấn đề mới, tự khám
phá tri thức mới bằng những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích
lũy được trong cuộc sống.
Từ những khái niệm trên của phương pháp vấn đáp, trong khi dạy học tôi
đã thường xuyên đặt câu hỏi phù hợp để học sinh trả lời. Điều đó giúp học sinh
phát triển tư duy, phát huy tính chủ động sáng tạo, lôi cuốn các em suy nghĩ về
một vấn đề trước khi tiếp nhận thông tin kiến thức đó, HS sẽ tư duy những gì mà
GV sẽ giảng với “dự đoán” tư duy. Để đạt được hiệu quả cao trong giảng dạy mỹ
thuật tôi thường xuyên sử dụng các câu hỏi ngắn gọn, trọng tâm, rõ ràng, sắp xếp
lôgíc ngay từ khi soạn giáo án, hệ thống câu hỏi từ đơn giảng đến phức tạp.
Qua phương pháp vấn đáp kết hợp trực quan trên GV đã làm cho HS có
hứng thú đi vào tiết học một cách nhẹ nhàng hiệu quả từ đó HS có tư duy đến nội
dung, yêu cầu cụ thể của bài học. Thấy được vai trò của phương pháp này nên
trong khi lập kế hoạch bài dạy tôi đã luôn đặt ra những câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu
để đạt hiệu quả tối ưu trong tiết dạy khi sử dụng phương pháp vấn đáp.
2.3/ Phương pháp luyện tập:
Luyện tập với tư cách là phương pháp dạy học là dưới sự chỉ dẫn của giáo
viên, học sinh lặp đi lặp lại nhiều lần những hoàn cảnh khác nhau nhằm hình
thành và phát triển những kỹ năng, kỹ xảo.
Đối với môn Mỹ thuật- phương pháp luyện tập của học sinh chiếm phần
lớn thời gian trong một tiết học: GV chỉ giảng nội dung kiến thức và cho học
sinh tìm hiểu qua quan sát nhận xét khoảng 12-15 phút, thời gian 20-25 phút
dành cho HS luyện tập là các em bộc lộ rõ nét nhất những hiểu biết của mình qua

×