GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TCDN
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTMCP SÀI GÒN HÀ NỘI
(SHB)
G 3.1. Định hướng công tác tín dụng của ngân hàng trong thời gian tới.
Ngân hàng SHB với những thành quả đã đạt được ở hiện tại và tiềm lực
trong tương lai, tôn chỉ hoạt động sẽ trở thành một ngân hàng bán lẻ đa năng hiện
đại hàng đầu tại Việt Nam, phấn đấu đến năm 2010 trở thành một tập đoàn tài
chính để cung cấp sản phẩm dịch vụ đa dạng cho các thị trường có chọn lựa, ngân
hàng hoạt động vững mạnh và an toàn, phát triển bền vững đáp ứng các yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngân hàng SHB đề ra mục tiêu tổng quát của ngân hàng là mở rộng hoạt
động một cách vững chắc, an toàn, tự bền vững về tài chính, áp dụng công nghệ
thông tin hiện đại, cung cấp các dịch vụ an toàn và tiện ích đa dạng và thông
thoáng đến các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư ở đô thị, nâng cao và duy trì
khả năng sinh lời, phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh và thích ứng nhanh chóng với quá trình hội nhập kinh tế.
Trên cơ sơ mục tiêu tổng quát ngân hàng SHB đã xây dựng mục tiêu cụ thể cho
thời kỳ 2007-2010 về mọi mặt:
- Phát triển mạng lưới: phấn đấu đến năm 2010 mạng lưới chi nhánh SHB có
mặt ở 43 tỉnh thành cả nước.
- Sản phẩm dịch vụ: từng bước phát triển sản phẩm mới trên cơ sở công nghệ
thông tin phù hợp với nhu cầu khách hàng và yêu cầu hội nhập.
- Phát triển thương hiệu: xây dựng thương hiệu và phát triển văn hoá doanh
nghiệp SHB, từng bước đưa SHB trở thành “ngân hàng thân thuộc” với mọi khách
hàng ở các địa bàn hoạt động.
- Đổi mới công nghệ thông tin ngân hàng: đẩy nhanh tốc độ áp dụng công nghệ
thông tin, đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ. Xây dựng và triển khai hệ thống
thông tin quản trị trên nền tảng của hệ thống ngân hàng cốt lõi phù hợp, thực hiện
công tác quản lý tập trung theo mô hình ngân hàng hiện đại.
- Nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý vốn: đặt mục tiêu nâng cao hiệu quả
kinh doanh. cải tiến công tác quản trị rủi ro bằng cách xây dựng hệ thống quản trị
rủi ro tập trung, độc lập và toàn diện theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Tái cơ cấu tổ chức: cải cách cơ cấu tổ chức và điều hành nhằm đưa SHB
thành một ngân hàng hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế lấy phục vụ khách hàng
làm mục tiêu hoạt động.
- Nâng cao cải tiến công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ: nâng cao năng lực điều
hành và phát triển các kỹ năng quản trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
kiểm toán kiểm tra nội bộ.
SHB luôn phấn đấu trở thành một ngân hàng định hướng đến khách hàng. Một
tổ chức tạo ra lợi ích cao nhất cho khách hàng, cổ đông và người lao động. Một tổ
chức luôn luôn học hỏi. Một tổ chức xây dựng văn hoá doanh nghiệp trên cơ sở các
giá trị: sự tin tưởng, tính cam kết, chuyên nghiệp, minh bạch và đổi mới.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra,cán bộ và công nhân viên ngân hàng SHB
luôn luôn quán triệt các nguyên tắc:
Thứ nhất: áp dụng các thông lệ quốc tế trong công tác điều hành ngân hàng.
Thứ hai: phát triển và đưa ra thị trường những sản phẩm dịch vụ tài chính đa
dạng đá ứng nhu cầu của khách hàng, tạo lập danh tiếng về chất lượng phục vụ
khách hàng, độ tin cậy và mức giá cả cạnh tranh.
Thứ ba: đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, lấy công nghệ thông tin
làm cơ sở để phát triển mô hình ngân hàng hiện đại.
Thứ tư: hoạt động trên cơ sở thận trọng về tài chính và luôn nhận thức được
tầm quan trọng của quản lý rủi ro, bảo quản tài sản và duy trì khả năng thanh toán
là tối cần thiết cho sự thành công của ngân hàng, phát huy tối đa nguồn lực tài
chính trên nguyên tắc đảm bảo an toàn hoạt động và nâng cao khả năng sinh lời.
Thứ năm: đầu tư vào con người, phát triển năng lực của cán bộ nhân viên,
khuyến khích sự cống hiến xuất sắc, thưởng công xứng đáng với thành tích và tạo
điều kiện cho họ có điều kiện phát triển.
Phát huy những thành qủa đã đạt được, cùng với tiềm năng của mình, ngân
hàng SHB phấn đấu để đạt được thành tích cao hơn trong năm tới. Cụ thể trong
giai đoạn 2006-2007 SHB phấn đấu luôn đạt được:
+ Tăng trưởng huy động vốn bình quân : 18%-
20%/năm
+ Tăng trưởng tín dụng bình quân : 18%-20%
/năm
+ Tỷ trọng nguồn vốn trung,dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động: 33%-35%
+ Tăng trưởng doanh số thanh toán qua ngân hàng bình quân : 25%-30%/
năm
+ Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng : 40%-42%
+ Tỷ trọng dư nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng đến năm 2010 : <3%
(chuẩn quốc tế)
+ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đến năm 2010 : 8%
Đặc biệt giai đọan gần nhất hiện nay,trong năm 2008 SHB phấn đấu:
+ Tăng vốn điều lệ lên 3500 tỷ đồng.
+ Tổng dư nợ tín dụng là 13425 tỷ đồng.
+ Lợi nhuận sau thuế đạt 327 tỷ đồng.
+ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 18,16%.
Định hướng phát triển của SHB là rõ ràng và khả quan. Cùng với đó là ngyên tắc
thực hiện cụ thể chăc chắn SHB sẽ đạt được các mục tiêu đã đề ra, tạo sự phát triển
an toàn, hiệu quả và bền vững trong tươg lai. Tuy nhiên trước thực tại các ngân
hàng thương mại đang cạnh tranh khốc liệt và gay gắt thì đòi hỏi ngân hàng SHB
cũng phải có một số giải pháp cụ thể và sau sắc hơn đối với tất cả các mặt hoạt
động của ngân hàng.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác phân tích tình hình TCDN trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng SHB.
Để thực hiện được các định hướng và mục tiêu của ngân hàng cả trong ngắn hạn
và dài hạn đòi hỏi ngân hàng phải giải quyết đồng thời nhiều vấn đề. Và thực tế
hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay khi mà hoạt động tín dụng chiếm tới
70%- 80% doanh thu trong hoạt động của các ngân hàng thì nâng cao chất lượng
hoạt động tín dụng là cần thiết. Muốn đạt được điều đó ngân hàng phải có những
chính sách giải pháp nhằm nầng cao chất lượng công tác đánh giá khách hàng mà
phân tích tài chính là một trong những yêu cầu cấp thiết. Các giải pháp nâng cao
chất lượng công tác phân tích tài chính TCDN đó là sự nâng cao chất lượng hệ
thống cung cấp thông tin, hoàn thiện quy trình phân tích, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng công nghệ, khoa học trong ngân hàng….cụ
thể như sau:
3.2.1. Xây dựng công tác phân tích tình hình TCDN hoàn thiện về nội dung,
chặt chẽ và khoa học về quy trình phân tích.
Đánh giá tình hình tài chính khách hàng là vấn đề mà tất cả các NHTM luôn
tìm các biện pháp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng phân tích, và ngân hàng
SHB cũng không phải là ngân hàng ngoại lệ. Thực tế các phương pháp, chỉ tiêu
thường xuyên thay đổi theo sự thay đổi của hệ thống quản lý tài chính, đòi hỏi các
ngân hàng phải có sự quan tâm để cập nhật sự thay đổi để từ đó đảm bảo quá trình
phân tích tài chính doanh nghiệp là chính xác và hiệu quả..
Trong quá trình hoạt động ngân hàng phải luôn bám sát chính sách phát triển
kinh tế vĩ mô, vi mô của nhà nước để biết được mục tiêu phát triển kinh tế, các
ngành nghề được khuyến khích phát triển, để đưa ra được các chuẩn mực đánh gía
cụ thể cho công tác phân tích tín dụng nói chung và công tác phân tích tình hình
TCDN nói riêng.
Để hoàn thiện nội dung và quy trình công tác phân tích tình hình TCDN ngân
hàng có thể tập trung vào những vấn đề lớn như sau:
Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành đối với từng ngành nghề lĩnh
vực.
Trong nền kinh tế hiện nay đang phát triển rất nhiều các ngành nghề,lĩnh vực
khác nhau. Và mỗi ngành nghề có một đặc điểm riêng. Đối với ngân hàng, khi cấp
tín dụng cho các doanh nghiệp ở các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau như sản xuất
kinh doanh,thương mại dịch vụ, xây dựng cơ bản…thì mức độ an toàn hay rủi ro là
khác nhau,về quy mô vốn, thời hạn cấp tín dụng cũng có thể có sự khác nhau nhất
định.vì vậy ngân hàng cần xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành đối với
từng ngành nghề cụ thể từ đó làm giá trị tham chiếu so sánh hợp lý trong khi phân
tích tình hình tài chính của doanh nghiệp,để trong quá trình phân tích tài chính của
khách hàng đưa ra được quyết định có cấp tín dụng hay không một cách chính xác
nhất,hạn chế tối đa rủi ro tín dụng…đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững cho
công tác tín dụng cung như toàn hệ thống ngân hàng.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp một
cách hoàn chỉnh.
Hiên nay theo quy định của các chuẩn mực các chỉ tiêu tài chính của doanh
nghiệp bao gồm bốn nhóm và mỗi nhóm có nhiều chỉ tiêu khác nhau.Riêng nhóm
chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán bao gồm: khả năng thanh toán tông quát,
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán
nhanh tức thời,ngoài ra còn có hệ số khả năng thanh toán lãi vay.Nhưng đối công
tác phân tích tài chính doanh nghiêp tại ngân hàng hiện nay thì chỉ quan tâm tính
toán hai chỉ tiêu là khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán nhanh..
điều này có thể làm cho việc đánh giá về doanh nghiệp không được chính xác và
toàn diện.. cần đưa thêm các hệ số khả năng thanh toán để có sự đánh giá đầy đủ là
công việc cần thiết trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp của ngân
hàng..
Cần yêu cầu bổ sung báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hồ sơ tài chính của khách
hàng.
Hầu hết các ngân hàng hiện nay,trong khi phân tích tình hình tài chính của
khách hàng,các loại báo cáo tài chính mà ngân hàng yêu cầu khách hàng phải nộp
là bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Ngân hàng nên yêu cầu
khách hàng nộp thêm báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài
chính.Bởi vì thực tế báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán chỉ là
nhưng bản số liệu tổng hợp, nếu cán bộ tín dụng chỉ dựa vào đó mà đánh giá thì sự
chính xác có lẽ sẽ không cao. Thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ thể hiện sự cụ
thể hoá các chỉ tiêu, phân tích luồng tiền thực tế, dòng vận động tài chính cuả
doanh nghiệp,phản ánh chính xác số tiền thực tế mà doanh nghiệp có để trả các
khoản nợ cho ngân hàng.Vì vậy việc kết hợp đầy đủ các loại báo cáo tài chính của
doanh nghiêp trong quá trình phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho viec đánh
gía doanh nghiệp chính xác nhất, nâng cao hiệu quả của quá trình phân tích nói
riêng và công tác tín dụng nói chung..
Cần tăng cường việc thiết lập một quy trình tín dụng chặt chẽ, đặc biệt trong
khâu phân tích tài chính của doanh nghiệp.
Mỗi ngân hàng luôn tự xây dựng cho mình một quy trình tín dụng riêng,nếu
quy trình tín dung ngân hàng nào đó không chặt chẽ chắc chắn ảnh hưởng tới hiệu
quả của công tác tín dụng của ngân hàng.vì vậy ngân hàng phải xây dựng quy trình
tín dụng trong đó về phân tích tài chính doanh nghiệp phải chỉ rõ các bước cần làm
cụ thể, chi tiết cho tất cả các cán bộ tín dụng hiểu và làm theo,đặc biệt đối với cán
bộ tín dụng mới thì đây là tài liệu vô cùng quan trọng và cần thiết.Tránh việc cán
bộ tín dụng khi phân tích thẩm định khách hàng làm theo cảm tính và kinh nghiệm
cá nhân dẫn tới sự sai lệch, tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng.Mặt khác trong quá
trình hoạt động ngân hàng phải thường xuyên hàon thiện quy trình đó sao cho có
sự phù hợp và hiệu quả nhất..
Thường xuyên tổ chức đánh giá công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để
bổ sung cho hoàn thiện.
Hàng năm ngân hàng cần phải tiến hành xây dựng chương trình hoạt động đối
với công tác phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với
ngân hàng.Chưong trình sẽ bao gồm việc đánh giá kết quả đã đạt được. chỉ ra
những vướng mắc, tồn tại, từ đó rút ra kinh nghiệm về công tác năm trước, đồng
thời vạch ra kế hoạch năm tiếp theo để nâng cao hơn nữa công tác phân tích tình
hình tài chính doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động tín dụng
Về nội dung đánh giá, khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp
thì việc tính toán chỉ số tài chính là rất quan trọng do các số liệu BCTC chưa thể
hiện hết thực trạng tài chính của doanh nghiêp.Mỗi doanh nghiệp khác nhau có các
hệ số tài chính khác nhau, hệ số tài chính của cùng một doanh nghiệp tại các thời
điểm khác nhau cũng không giống nhau.Tuy nhiên một hệ số tài chính không thể
hiện được nhiều về tình hình tài chính của khách hàng, khi xem xét phải đặt trong
hoàn cảnh cụ thể về không gian và thời gian..Hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp diễn ra liên tục và chịu nhiều tác động của các yếu tố chủ quan và
khách quan. Vì thế trong quá trình phân tích cán bộ tín dụng phải dựa và sự biến
động của các chỉ tiêu, hệ số để tìm ra nguyên nhân và đánh giá từng khoản mục
của tài chính doanh nghiệp, khắc phục tình trạng chỉ tính toán các hệ số để tính
điểm và phân loại như thực tế hiện nay.Sự biến động của các chỉ tiêu tín dụng phải
được đánh giá trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác có liên quan. Việc phân tích
nguyên nhân có ý nghĩa to lớn trong việc đánh gía thực trạng của doanh nghiệp,
nếu một doanh nghiệp nào đó có danh mục tài chính chưa đạt chuẩn chung nhưng
vẫn có thể xem xét cho vay nếu doanh nghiệp có khả năng khắc phục khó
khăn.Nếu không phân tích cụ thể nguyên nhân có thể bỏ sót khách hàng tiềm năng.
Thông qua công tác đánh giá đó ngân hàng rút ra những tồn tại để khắc phục và
quan trọng hơn cả là phải nâng cao tinh thần tự giác của cán bộ tín dụng khắc phục
tình trạng chỉ tính toán các chỉ tiêu tài chính phục vụ cho công tác tính điểm và xếp
loại doanh nghiệp một cách sơ sài các nguyên nhân tạo ra sự biến động đó tính
hình thức. Cán bộ tín dụng phải đánh giá đúng vai trò của công tác phân tích tài
chính trong hoạt động tín dụng từ đó áp dụng một cách linh hoạt và hiệu quả quy
trình tín dụnga trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
3.2.2 Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin.
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp,chủ yếu là phân tích các báo
cáo tài chính. Thực chất là quá trình phân tích, so sánh và đánh giá giữacác chỉ tiêu
tài chính của doanh nghiệp với các thông tin, tài liệu, số liệu theo chuẩn mực đánh
giá chung.Thông tin là cơ sở cần thiết để cán bộ thẩm định có thể đánh giá đúng
thực trạng của doanh nghiệp vì vậy thông tin đầu vào là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng lớn đến chất lượng phân tích tín dụng.Thông tin càng đầy đủ, chính xác và
cụ thể càng giúp cho cán bộ tín dụng thẩm định và đưa ra nhận định chính xác về
khách hàng, từ đó có những quyết định hợp lý để cung cấp tín dụng cho khách
hàng hay không, đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng.Nâng cao chất lượng
thông tin là điều cầc thiết và để có chất lượng thông tin tốt cân có một số giải pháp
sau:
Thứ nhất ngân hàng cần có một hệ thống cung cấp thông tin về khách hàng,
phải xây dựng một hệ thống thu thập xử lý và lưu trữ dữ liệu riêng phục vụ cho
công tác thẩm định.Đó là một bộ phận trong ngân hàng được cung cấp đầy đủ vế
phương tiện, trang thiết bị hiện đại để nghiên cứu, dự báo thông tin.Để tiến hành