Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNO VÀ PTNT VIỆT NAM CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.06 KB, 27 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHNO VÀ
PTNT VIỆT NAM CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI
3.1.DỰ BÁO XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG BẮC HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng Bắc Hà Nội
trong thời gian tới.
3.1.1.1. Các yếu tố bên ngoài ngân hàng
Là một chi nhánh cấp 1 của ngân hàng No&PTNT Việt Nam hoạt động trên
địa bàn Hà Nội nơi mà hoạt động của các ngân hàng thương mại rất sôi động thì
ngân hàng Bắc Hà Nội cũng chịu nhiều tác động từ môi trường bên ngoài. Kinh
doanh trong một môi trường cạnh tranh ngày càng cao đem đến cho ngân hàng
Bắc Hà Nội nhiều thuận lợi lẫn thách thức cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Những yếu tố có thể kể đến là:
a) Các yếu tố thuận lợi:
Yếu tố đầu tiên phải kể đến là ngân hàng được hoạt động kinh doanh trong
một môi trường có hệ thống chính trị ổn định, Đảng và Nhà nước quyết tâm đổi
mới các chính sách và hệ thống tài chính – tiền tệ nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng bền vững. Vừa qua luật các tổ chức tín dụng sửa đổi đang được thông qua
với nhiều bổ sung sửa đổi nhằm hoàn thiện khung khuôn khổ cho hoạt động của
các tổ chức tín dụng sẽ tạo thuận lợi rất lớn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng
trong đó có hoạt động tín dụng.
Thứ hai, nền kinh tế của Việt Nam trong những năm qua tiếp tục gặt hái
được những thành tựu quan trọng. Năm 2007 vừa qua sản xuất Công nghiệp tiếp
tục đạt mức tăng trưởng cao, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2006. Công nghiệp
phát triển đã kéo theo dịch vụ tăng nhanh, nhất là trong các lĩnh vực lưu chuyển,
bán lẻ hàng hóa, du lịch, vận tải, bưu chính, viễn thông, internet và xuất nhập khẩu.
Do vậy, với vai trò là một trung gian tài chính ngân hàng càng có điều kiện phát
triển hoạt động kinh doanh của mình nhằm phục vụ nhu cầu của các ngành kinh tế
khác. Khi các ngành sản xuất vật chất và cung ứng dịch vụ phát triển thì nhu cầu
vốn cho mở rộng quy mô kinh doanh cũng như các hoạt động khác gia tăng và tất


yếu là nghiệp vụ tín dụng ngân hàng càng có cơ hội phát triển.
Thứ ba, ngân hàng Bắc Hà Nội hoạt động trên địa bàn Hà Nội nên các yếu
tố kinh tế chính trị…của thành phố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cũng như
kết quả kinh doanh của ngân hàng. Trong năm 2007, Hà Nội đã thực hiện quyết liệt
5 nhiệm vụ trọng tâm, các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đều đạt và vượt so với
kế hoạch: tăng trưởng GDP đạt 12,1% là mức cao nhất từ 10 năm trở lại đây, sản
xuất công nghiệp tăng trưởng ở tất cả các thành phần kinh tế, giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 21,1%, đầu tư FDI tăng 31,8%, khu vực kinh tế dân doanh tăng 27,7%,
kim ngạch xuất khẩu tiếp tục giữ ở mức cao với 4,28 tỷ đô la, tăng 20%.
b) Các yếu tố khó khăn:
Thứ nhất, thời gian qua thị trường chứng kiến nhiều biến động, giá vàng, giá
dầu tăng mạnh, đồng USD mất giá so với đồng EURO… làm ảnh hưởng tới nền
kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Năm 2007 chứng kiến nhiều
biến động trong hoạt động kinh doanh ngân hàng mà nổi bật nhất là tình trạng mất
khả năng thanh toán của một loạt các ngân hàng. Nguyên nhân thì có nhiều trong
đó phải kể đến những biến động của nền kinh tế năm vừa qua với tình hình lạm
phát phi mã (theo con số chính thức được công bố là 12,7%) đã gây khó khăn cho
nhiều ngành kinh doanh đặc biệt là hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Những
tháng vừa qua thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử nền kinh tế
Việt Nam, vốn VNĐ khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng chỉ có người vay
mà hầu như không thấy người cho vay. Tình trạng thiếu vốn khả dụng và mất khả
năng thanh toán khiến các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động tiền gửi nội
tệ.Thậm chí một số ngân hàng còn điều chỉnh lãi suất tới 2, 3 lần trong một tuần.
Mức lãi suất tăng lên đến mức được coi là “cực kỳ nguy hiểm” vì nó làm cho nhiều
người nhớ đến mức lãi suất tiền gửi lên quá cao cách đây 20 năm khi xảy ra cơn đổ
vỡ gần 6.000 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng, vào thời điểm lạm phát lên tới
200% - 300% trong các năm 1987 - 1988 ở nước ta. Trong ngắn hạn việc tăng lãi
suất nhằm huy động thêm nguồn tiền gửi giúp các ngân hàng giải quyết tình trạng
khó khăn do thiếu vốn khả dụng. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tạm thời chứ về
lâu dài thì ngân hàng có thể sẽ đối mặt với nguy cơ rủi ro thanh khoản và rủi ro tín

dụng cao hơn. Bởi lẽ rủi ro tín dụng xuất phát từ cả phía người vay lẫn cho vay.
Nếu ngân hàng bị người gửi tiền rút tiền trước hạn và người vay tiền không trả tiền
đúng hạn thì chắc chắn việc kinh doanh sẽ khó đứng vững đặc biệt khi lãi suất ở
mức cao đến vậy. Trong thời gian qua ngân hàng Bắc Hà Nội cũng phải đối mặt
với nhiều phàn nàn từ khách hàng là tình trạng thẻ tín dụng bị từ chối thanh toán.
Đây cũng là khó khăn chung của nhiều ngân hàng hiện nay là tình trạng thiếu vốn
để thanh toán.
Thứ hai, Để kiềm chế lạm phát chính sách tài khóa và tiền tệ đang và sẽ bị
thắt chặt hơn nữa. Chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, Ngân hàng Nhà Nước đã đưa
ra 4 chính sách tiền tệ thắt chặt:
“1. Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% , mở rộng thêm
phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc và NH Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng
phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. Theo đó từ đầu tháng 2/2008 tổng cộng có
gần 20.000 tỷ đồng các NHTM phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho NHNN.
2. Ngày 15/2/2008 NHNN công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín
phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng
phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải mua
1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua
400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối Ngân hàng nước ngoài có 9 chi nhánh phải
mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ
đồng/ngân hàng. Không chỉ những vậy, các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu
cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu
trong các phiên đấu
thầu thường kỳ. Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao
dịch trên thị trường mở với NHNN để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này
NHNN nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các NHTM khi thiếu hụt tạm
thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn
ngắn hạn 1-2 tuần tại NHNN. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài tới 364 ngày, hay
gần 1 năm.
3. Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước.

Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn
tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên
6,0%/năm.
4. NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về
sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM,
Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây”.
Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức
thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM
Như vậy tín dụng của các ngân hàng nói chung và Ngân hàng Bắc Hà Nội
nói riêng đều bị tác động mạnh mẽ của chính sách trên. Ngân hàng phải cân nhắc
lại các hồ sơ vay vốn nhằm giảm bớt lượng cung tiền ra ngoài thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát theo sự chỉ đạo. Chính vì thế thay vì tình trạng “cho vay theo
phong trào” tồn tại lâu nay của các ngân hàng thì bây giờ việc này đã bị thắt chặt
hơn.
Thứ ba, Thị trường BĐS nóng trong thời gian qua đã thu hút nhiều ngân
hàng tham gia cho vay mua nhà, đất. Giai đoạn từ tháng 6/2007 đến nay, khi thị
trường chứng khoán bắt đầu có dấu hiệu suy giảm thì nhiều nhà đầu tư đã chuyển
hướng sang lĩnh vực BĐS. Điều này càng thôi thúc các ngân hàng tiếp vốn cho
vay mua BĐS. Vì vậy, dư nợ tín dụng cho vay BĐS của các ngân hàng liên tục
tăng mạnh.. Thậm chí, tại một số ngân hàng dư nợ cho vay BĐS lên đến xấp xỉ
50% . Nợ xấu về cho vay BĐS đang đe dọa các ngân hàng. Theo báo cáo của 57 tổ
chức tín dụng trên địa bàn, tỷ lệ nợ xấu hiện nay là 4,8% so với tổng dư nợ cho vay
BĐS, trong khi tỷ lệ này của năm 2006 chỉ là 1,73%. Như vậy, tỷ lệ nợ xấu có xu
hướng tăng dần là điều đáng lo ngại đối với các ngân hàng trong cho vay BĐS. Do
đó, khó có thể loại trừ được việc NHNN sẽ đưa ra những biện pháp cụ thể về thắt
chặt tín dụng BĐS trong tương lai gần. Với mức khống chế tăng trưởng tín dụng
của ngân hàng không quá 30% là khó khăn đối với các ngân hàng về cho vay. Bên
cạnh đó, về hoạt động huy động vốn trung và dài hạn để cho vay đối với lĩnh vực
BĐS vẫn đang là khó khăn chính đối với các tổ chức tín dụng, trong khi các ngân

hàng lại dư thừa vốn ngắn hạn. Vì vậy, hiện nhiều ngân hàng đã sử dụng đến 30%
vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Đây cũng là điểm đáng chú ý của các ngân hàng
trong cho vay hiện nay khi cung VND đang ngày một trở nên khan hiếm. Tuy
nhiên, không thể loại trừ các nhà đầu cơ BĐS, vì vậy, việc nâng cao hạn mức giá
trị khoản vay từ 70% - 90% giá trị tài sản thế chấp, đồng thời tăng thời gian trả nợ
lên 30 năm là nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho các ngân hàng nếu không có sự kiểm soát
chặt chẽ trong cho vay BĐS.
Thứ tư, các ngân hàng thương mại cổ phần đồng loạt tăng vốn điều lệ, tiếp
tục mở rộng mạng lưới đến hầu hết các phường, quận trên địa bàn Hà Nội, cạnh
tranh về lãi suất, công nghệ, dịch vụ sản phẩm mới càng trở nên gay gắt.
3.1.1.2. Các yếu tố nội tại của ngân hàng
Một là, ngân hàng Bắc Hà Nội chưa có bộ phận chuyên trách về Marketing
bởi vậy công tác nghiên cứu, tiếp thị phát triển thị trường và thị phần còn yếu. Mặc
dù những phân tích ở phần trước đã chỉ ra rằng đối với hoạt động tín dụng thì việc
giữ được một khách hàng truyền thống quan trọng hơn nhiều so với tìm được một
khách hàng mới. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là ngân hàng có thể bỏ qua
công tác marketing, quảng bá hình ảnh ngân hàng nhằm thu hút thêm nhiều khách
hàng đến sử dụng các dịch vụ của ngân hàng cũng như có quan hệ tín dụng với
ngân hàng. Trong thời gian qua công tác này tại ngân hàng Bắc Hà Nội vẫn bị xem
nhẹ nên số lượng khách hàng phát triển mới chưa nhiều, chưa tương xứng với tiềm
năng và yêu cầu đặt ra. Đây là một thách thức rất lớn với ngân hàng vì trong thời
gian tới hoạt động kinh doanh ngân hàng sẽ ngày càng sôi động và cạnh ranh rất
cao với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các ngân hàng và các chi nhánh đặc
biệt là sự tham gia của nhiều ngân hàng nước ngoài. Sự bùng nổ của hệ thống các
ngân hàng sẽ khiến các khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn, do đó nếu ngân hàng
Bắc Hà Nội không quan tâm hơn đến công tác tiếp thị phát triển thị trường hơn thì
khó có thể cạnh tranh với các đối thủ trên địa bàn, ngay cả việc giữ những khách
hàng hiện tại đã khó chứ chưa nói gì đến thu hút thêm khách hàng tín dụng mới.
Hai là, công tác triển khai ứng dụng tin học và công nghệ mới còn hạn chế.
Các sản phẩm dịch vụ, các hình thức huy động vốn và cấp tín dụng còn nghèo

nàn, chưa có nhiều sự lựa chọn cho khách hàng. Ngân hàng chưa chủ động và sáng
tạo trong việc nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu khách hàng để đưa ra các sản phẩm,
dịch vụ, các hình thức cấp tín dụng mới để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng
cũng như đáp ứng nhu cầu cạnh tranh mà chủ yếu áp dụng các sản phẩm dịch vụ
mà NHNo&PTNT Việt Nam đưa ra.
Ba là, trình độ chuyên môn của nhiều cán bộ nhìn chung chưa đáp ứng được
yêu cầu kinh doanh, nhất là khả năng thẩm định dự án, phương pháp thu thập
thông tin, kinh nghiệm giao tiếp phục vụ khách hàng cũng như kinh nghiệm quản
lý món vay… và đặc biệt là trình độ tin học và Tiếng Anh chưa bắt kịp với hệ
thống công nghệ mới – IPCAS.
Bốn là, công tác quản lý nhân lực, cơ chế khoán và phân phối tiền lương
chưa gắn với năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc nên không khuyến khích
động viên được người lao động tích cực chủ động sáng tạo và làm việc có hiệu quả
cao. Đây cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi ro về đạo đức ở các cán bộ nếu
trong thời gian tới ngân hàng không quan tâm cải thiện vấn đề trên.
3.1.2. Phương hướng phát triển hoạt động tín dụng tại ngân hàng Bắc
Hà Nội trong những năm tới.
Trong những năm sắp tới, đối với NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và chi
nhánh Bắc Hà Nội nói riêng thì thách thức sẽ nhiều hơn cơ hội. Áp lực cạnh tranh
trên tất cả các lĩnh vực sẽ quyết liệt hơn đặc biệt là cạnh tranh về cơ chế và nguồn
nhân lực…Do vậy, ngân hàng Bắc Hà Nội đã xác định rằng toàn thể ngân hàng
phải cố gắng vượt bậc mới có thể đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh.
3.1.2.1. Định hướng chung
Tiếp tục thực hiện định hướng kinh doanh đã lựa chọn, trong thời gian tới
ngân hàng sẽ điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển của
nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng đều và vững chắc. Với việc hoàn thành xây dựng
cơ sở mới trong vài tháng tới, ngân hàng có kế hoạch mở rộng quy mô gắn với
nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ, các
hình thức huy động vốn. Theo sự chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước và
NHNo&PTNT Việt Nam thì ngân hàng sẽ quản lý chặt chẽ hơn quy trình tín dụng

của mình, thực hiện cho vay có chọn lọc trong phạm vi khả năng kiểm soát nhằm
ngăn ngừa hạn chế các nguy cơ rủi ro có thể xảy ra. Ngân hàng cũng sẽ tiến hành
củng cố, sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo mô hình mới, tích cực đào tạo nâng cao
trình độ cán bộ, tăng cường mối quan hệ hợp tác và sự phối hợp giữa các phòng
ban, các bộ phận để chất lượng và hiệu quả mỗi công việc được nâng cao, góp
phần thực hiện mục tiêu chung của ngân hàng. Riêng trong hoạt động tín dụng,
ngân hàng tiếp tục thực hiện chỉ đạo của ngân hàng Nhà Nước và NHNo&PTNT
Việt Nam. Việc điều chỉnh các chính sách tín dụng hiện nay phải tuân theo chính
sách chung của Ngân hàng Nhà Nước mà trong giai đoạn hiện nay đang còn nhiều
vấn đề phải xem xét. Việc kiểm soát hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động
tín dụng nói riêng hiện nay đang được thắt chặt bởi tình hình thị trường quý đầu
năm đã có nhiều khó khăn và bất ổn (theo báo cáo của Bộ chính trị vừa qua). Bởi
vậy các ngân hàng đều phải thận trọng và theo dõi diễn biến trên thị trường, chờ
đợi những hướng chỉ đạo mới từ Ngân hàng Nhà Nước cho đến khi thị trường có
được sự kiểm soát tốt hơn (ít nhất đến hết tháng 6 năm 2008).
3.1.2.2.Những mục tiêu cụ thể
Trong ngắn hạn, ngân hàng cũng đã đặt ra mục tiêu cụ thể trong thời gian
trước mắt (cho năm 2008) với các chỉ tiêu chính như:
Tổng nguồn vốn huy động: từ 6.382 – 6.490 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng
từ 18 – 20 %.
Tổng dư nợ: 2.380 – 2.421 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng 16 – 18%. Trong
đó dư nợ ngắn hạn 55% tổng dư nợ, dư nợ trung, dài hạn 45% trên tổng dư nợ.
Phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro theo quy định.
Thu dịch vụ: tăng từ 12 – 15% so với 2007
Tài chính: chênh lệch thu - chi (chưa lương) tối thiểu là 54.378 tỷ đồng, tăng
10%.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HIOATJ ĐỘNG QUẢN
TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NO&PTNT BẮC HÀ NỘI.
3.2.1. Giải pháp về tổ chức và điều hành QTRR
3.2.1.1. Tổ chức và phân công trách nhiệm cán bộ QTRR

Vấn đề tồn tại lớn nhất trong hoạt động quản trị rủi ro của ngân hàng Bắc Hà
Nội là chưa có cán bộ chuyên trách về quản trị rủi ro và cũng chưa thành lập được
một phòng ban hay bộ phận chuyên trách nào về rủi ro cả. Quản trị rủi ro vẫn còn
là một khái niệm khá mới mẻ với các cán bộ của ngân hàng. Để quy trình quản trị
rủi ro tín dụng đi vào hoạt động và mang lại hiệu quả thực sự đòi hỏi phải giải
quyết nhiều nhân tố có liên quan một cách đồng bộ trong đó trươc hết ngân hàng
phải xây dựng được chiến lược quản trị rủi ro tín dụng phù hợp với điều kiện
thực tế ngân hàng mình trên cơ sở đó thiết lập một cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro
tín dụng và đào tạo cán bộ vận hành; đặc biệt phải có những chuyên gia giỏi về
quản trị rủi ro, vì việc xếp loại tín dụng bao giờ cũng phải thực hiện song song
bằng máy tính và phương pháp chuyên gia để đưa ra kết luận cuối cùng chuẩn xác
nhất. Với điều kiện của ngân hàng Bắc Hà Nội hiện nay thì việc đào tạo cán bộ về
quản trị rủi ro là hết sức cần thiết. Trước mắt là ngân hàng nên cử các cán bộ tín
dụng đi học hoặc mời chuyên gia về đào tạo cho cán bộ tín dụng ngân hàng –
những người trực tiếp tham gia quản lý hồ sơ vay vốn và quản lý cả rủi ro của hồ
sơ mình phụ trách. Trong tương lai xa hơn ngân hàng cần thiết phải xây dựng bộ
phận chuyên trách xử lý các vấn đề rủi ro của toàn ngân hàng chứ không thể tiếp
tục quản lý một cách rời rạc, nhỏ lẻ ở từng bộ phận, quản trị theo kiểu “đối phó”
thụ động với từng rủi ro phát sinh ở các nghiệp vụ như tình trạng hiện nay.
3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống thông tin QTRR
Quản trị rủi ro sẽ không thể thực hiện được khi không có thông tin vì lẽ rủi
ro nằm ở “thì tương lai”. Do đó ngân hàng Bắc Hà Nội cần hoàn thiện hệ thống
thông tin bằng cách hiện đại hóa quy trình nghiệp vụ ngân hàng. Khi hệ thống ngân
hàng được hiện đại hóa thì các bộ phận, phòng ban sẽ được kết nối với nhau, thông
tin cho nhau về tình hình khách hàng nhanh chóng và chính xác. Mở rộng hơn khi
ngân hàng được hiện đại hóa thì còn có thể giao tiếp thông tin với những ngân
hàng và các tổ chức khác trong nền kinh tế. Mọi hoạt động ngân hàng trong đó có
hoạt động tín dụng sẽ được thực hiện thuận lợi và ít rủi ro hơn. Như vậy ngân hàng
phải có một hệ thống thông tin tín dụng hiệu quả trong nội bộ để tự thu thập thông
tin và nối mạng với hệ thống thông tin tín dụng chung nhằm cung cấp 2 loại thông

tin chính sau cho guồng máy quản trị rủi ro tín dụng hoạt động:
Một là, thông tin phục vụ cho việc phân tích, đánh giá và xếp loại khách
hàng cũng như khoản vay. Ví dụ, phải có một lượng thông tin thống kê đủ lớn, theo
kinh nghiệm phải có ít nhất 5.000 báo cáo tài chính 3 năm liên tục của doanh
nghiệp thuộc các ngành kinh tế mới có thể đưa ra được các chỉ tiêu trung bình
ngành. Đây là những chỉ tiêu không thể thiếu trong việc phân tích, xếp loại khách
hàng vay. Nhưng hiện tại ở Việt Nam chưa có cơ quan nào đưa ra các chỉ tiêu này,
vì vậy hệ thống thông tin tín dụng trong ngành phải phối hợp cùng nhau thu thập,
lưu trữ để tự phục vụ cho mình.
Hai là, thông tin có liên quan về khách hàng vay (hoặc khoản vay). Ngoài
nguồn thông tin từ tổ chức cho vay thì phải thu thập thông tin từ các nguồn bên
ngoài. Nguồn thông tin từ bên ngoài có vai trò quan trọng trong việc đánh giá
người vay một cách toàn diện. Đây chính là thông tin từ các cơ quan thông tin tín
dụng trong và ngoài nước.
Một trong các giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề trên là tham gia vào
CIC (trung tâm thông tin tín dụng). Hiện nay CIC là nơi duy nhất tập trung được
các dữ liệu của các tổ chức tín dụng cũng như thông tin về tín dụng của các Doanh
nghiệp.
3.2.1.3. Áp dụng các kỹ thuật hạn chế rủi ro khác
a) Bảo hiểm rủi ro
Kinh doanh ngân hàng là thực hiện “đi vay để cho vay” và ngân hàng phải
chịu rủi ro từ cả hai phía “đi vay” lẫn “cho vay”, do đó muốn giảm bớt gánh nặng
rủi ro ngân hàng có thể thực hiện san sẻ bớt cho người khác bằng cách mua bảo
hiểm. Ngân hàng thực hiện việc này bằng cách hy sinh một phần lợi nhuận của
mình từ khoản cấp tín dụng để mua bảo hiểm cho khoản tín dụng đó. Bằng cách
này ngân hàng mất một khoản phí nhưng lại chuyển được rủi ro sang cho công ty
bảo hiểm. Hiện nay rất nhiều ngân hàng đã tiến hành thiết lập quan hệ với các công
ty bảo hiểm để chia sẻ bớt gánh nặng rủi ro. Chấp nhận giảm một phần lợi nhuận
nhưng bù lại độ an toàn cao hơn đặc biệt khi rủi ro xảy ra thì ngân hàng sẽ rất nhẹ
nhàng trong việc xử lý.

b) Đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Mỗi một ngân hàng có một đặc điểm kinh doanh riêng nên ngân hàng phải
tiến hành phân đoạn thị trường và lựa chọn cho mình những đoạn thị trường mục
tiêu phù hợp nhất. Để thu được nhiều lợi nhuận từ các khách hàng vay vốn thì ngân
hàng cũng phải xác định được đâu là 20% khách hàng đem lại 80% doanh thu cho
mình. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hoạt động tín dụng chứa đựng quá nhiều rủi ro
nên nếu ngân hàng chỉ tập trung vào một khách hàng mục tiêu nào đó tì khi khách
hàng đó gặp rủi ro ngân hàng cũng bị rủi ro theo. Vậy nên ngân hàng phải rất cân
nhắc giữa việc chú ý đến khách hàng mục tiêu nhưng cũng không quên nhiệm vụ
phải phân tán được rủi ro. Cách thức phân tán rủi ro tốt nhất là đa dạng hóa danh
mục tín dụng tức là làm sao không để “tất cả trứng của mình vào một giỏ”.
Tại ngân hàng Bắc Hà Nội nhóm khách hàng chủ yếu là ở hai nhóm ngành
sản xuất công nghiệp và thương nghiệp dịch vụ. Hai nhóm khách hàng này có ưu
điểm là ít chịu tác động của các yếu tố tự nhiên nhưng lại chịu nhiều tác động từ
môi trường kinh tế, từ các yếu tố cạnh tranh trên thị trường. Do vậy ngân hàng Bắc
Hà Nội song song với việc duy trì phát triển quan hệ tín dụng với hai nhóm khách
hàng này thì vẫn tiếp tục tìm kiếm các thị trường tiềm năng khác nhằm xác định
cho mình một danh mục đầu tư hiệu quả cao nhưng ít rủi ro nhất. Trong điều kiện
môi trường kinh tế và luật pháp luôn diễn biến phức tạp như hiện nay thì việc đánh
giá và dự báo xu thế phát triển các ngành nghề không hề đơn giản. Chính vì thế
ngân hàng cần rất thận trọng khi lựa chọn các dự án, các lĩnh vực để quyết định cấp
tín dụng.
c) Cho vay theo hợp đồng tài trợ
Đồng tài trợ được hiểu là nhiều tổ chức tín dụng cùng góp vốn cho vay một
dự án thường là những dự án lớn. Các ngân hàng thường có xu hướng thích cho
vay các dự án lớn bởi lẽ lợ nhuận thu được rất cao (cho dù rủi ro nếu xảy ra thì
thiệt hại rất cũng lớn). Tuy nhiên các ngân hàng gặp phải một trở ngại là theo quy
định thì ngân hàng không được phép cho vay mỗi dự án quá 15% vốn kinh doanh
của mình. Trong trường hợp này việc cho vay đồng tài trợ sẽ có lợi cho cả nhà đầu
tư lẫn ngân hàng. Nhiều ngân hàng cùng hợp tác cho vay một dự án thì họ sẽ có cơ

hội học hỏi lẫn nhau, phát huy những điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu của
nhau. Đứng trên góc độ quản trị rủi ro thì việc này có ý nghĩa quan trọng vì nó đã

×