Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Khảo sát ý thức sử dụng thuốc của sinh viên đại học năm nhất khóa 2017 – 2018 khoa dược trường đại học nguyễn tất thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 49 trang )

NTTU-NCKH-04

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------------------------------------------

Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NCKH
DÀNH CHO CÁN BỘ - GIẢNG VIÊN 2018

Tên đề tài: Khảo sát ý thức sử dụng thuốc của sinh viên đại học năm nhất khóa
2017 – 2018 khoa Dược trường đại học Nguyễn Tất Thành
Survey of first year pharmacy students' awareness about use of medicines at
Nguyen Tat Thanh university in 2017 - 2018
Số hợp đồng: 2018.01.24/HĐ-KHCN

Chủ nhiệm đề tài: HOÀNG THỊ THOA
Đơn vị công tác: KHOA DƯỢC
Thời gian thực hiện: 03/2018 – 09/2018

TP. Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 03 năm 2019

1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-----------------------------------------------------


Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NCKH
DÀNH CHO CÁN BỘ - GIẢNG VIÊN 2018

Tên đề tài: Khảo sát ý thức sử dụng thuốc của sinh viên đại học năm nhất khóa
2017 – 2018 khoa Dược trường đại học Nguyễn Tất Thành
Survey of first year pharmacy students' awareness about use of medicines at
Nguyen Tat Thanh university in 2017 - 2018
Số hợp đồng : 2018.01.24/HĐ-KHCN

Chủ nhiệm đề tài: HOÀNG THỊ THOA
Đơn vị công tác: KHOA DƯỢC
Thời gian thực hiện: 03/2018 – 09/2018

Các thành viên phối hợp và cộng tác:
STT
1
2

Họ và tên
Trần Thị
Phương Uyên
Trần Thị Mỹ
Kiều

Chuyên ngành
Dược

Cơ quan công tác

Khoa Dược

Dược

Khoa Dược

2

Ký tên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................... 2
1.1. Đặt vấn đề .................................................................................................................... 2
1.2. Tình hình nghiên cứu ngồi nước ............................................................................... 2
1.3. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................................... 3
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 5
2.1. Nội dung ...................................................................................................................... 5
2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 5
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN................................................................... 7
3.1. Mô tả nghiên cứu ......................................................................................................... 7
3.2. Thảo luận ................................................................................................................... 11
3.3. Giải pháp ................................................................................................................... 13
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................ 15
4.1. Kết luận...................................................................................................................... 15
4.2. Kiến nghị ................................................................................................................... 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................. 16

3



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GARP
WHO

Global Antibiotic Resistance Partnership in Viet nam
World Health Organization

4


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH
Danh mục Bảng

Tên

Trang

Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3

Phân bố mẫu theo tuổi
Tiền căn dị ứng thuốc
Mức độ tìm hiểu của sinh viên về vấn đề sức khỏe

7
7

8

Bảng 3.4

Sự hiểu biết của sinh viên về thuốc có sẵn trong
nhà

11

Bảng 3.5

Tình trạng bán thuốc tại nhà thuốc

11

Danh mục Biểu đồ
Biểu đồ 3.1
Lựa chọn của sinh viên khi dị ứng thuốc

7

Biểu đồ 3.2
Biểu đồ 3.3
Biểu đồ 3.4

Lựa chọn của sinh viên khi bị bệnh đột ngột
Lý do lựa chọn của sinh viên khi bị bệnh đột ngột
Lựa chọn của sinh viên khi không giảm/hết bệnh

8

9
9

Biểu đồ 3.5
Biểu đồ 3.6
Biểu đồ 3.7

Lựa chọn của sinh viên khi giảm/hết bệnh
Lựa chọn sử dụng thuốc của người khác
Lý do chọn sử dụng thuốc của người khác

10
10
10

5


TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sản phẩm thực đạt được
- Dưới 50% sinh viên chính quy năm

Sản phẩn đăng ký tại thuyết minh
- Tỷ lệ phần trăm ý thức sử dụng

nhất khoa dược trường Đại học
Nguyễn Tất Thành có ý thức sử
dụng thuốc

thuốc của sinh viên


- Số giải pháp đề xuất: 4
+ Cần đưa môn Dược lâm sàng vào

- Số lượng giải pháp đề xuất

tín chỉ bắt buộc và xuyên suốt.
+ Phát huy tính tích cực của sinh
viên trong việc tự tìm hiểu về thuốc
cũng như những vấn đề sức khỏe.
+ Tăng cường tuyên truyền cách sử
dụng thuốc an toàn hợp lý, thơng tin
y khoa thường thức ngắn gọn, xúc
tích dưới dạng tờ rơi, tài liệu ngắn
phát cho sinh viên.
+ Tổ chức buổi trao đổi kiến thức,
kỹ năng về những vấn đề liên quan
đến các trường hợp dược lâm sàng.
- Bài báo khoa học “Khảo sát ý thức sử
dụng thuốc của sinh viên đại học năm
nhất khóa 2017 – 2018 khoa Dược
trường đại học Nguyễn Tất Thành”

Thời gian đăng ký : từ tháng 03/2018 đến tháng 09/2018
Thời gian nộp báo cáo: ngày 18 tháng 03 năm 2019

6


MỞ ĐẦU

Ý thức sử dụng thuốc đóng vai trị quan trọng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng
đồng, làm giảm thiểu nguy cơ sử dụng thuốc không hợp lý, giảm các tình trạng lạm
dụng thuốc. Nhóm nghiên cứu muốn khảo sát thực trạng ý thức sử dụng trên đối
tượng thanh niên trong nhóm ngành đặc thù - sinh viên khoa Dược trường Đại học
Nguyễn Tất Thành, từ đó đánh giá tổng quan được ý thức sử dụng thuốc nhằm đề xuất
biện pháp cải thiện tình trạng sử dụng thuốc hiện nay.
Mục tiêu đề tài:
Khảo sát thực trạng ý thức sử dụng trên đối tượng thanh niên trong nhóm ngành đặc
thù - sinh viên khoa Dược trường Đại học Nguyễn Tất Thành, từ đó có thể đánh giá
tổng quan được ý thức sử dụng thuốc nhằm đề xuất biện pháp cải thiện tình trạng sử
dụng thuốc hiện nay.
Nội dung thực hiện:
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tại thời điểm tháng 6/2018
Phân tích thống kê: xử lý số liệu bằng SPSS 20.0
Đối tượng và phương pháp: Khảo sát bằng phiếu câu hỏi trên 453 sinh viên chính quy
năm nhất Khoa Dược trường Đại học Nguyễn Tất Thành khóa 2017 – 2018
Kết quả đạt được:
Dưới 50% sinh viên chính năm nhất có ý thức trong việc sử dụng thuốc. Dưới 15%
sinh viên tự tìm hiểu về bệnh tật và thuốc mà họ sử dụng ở mức độ thường xuyên.
Chỉ 6% sinh viên tìm đến khám bác sĩ khi có bệnh, 78% sinh viên lựa chọn đến mua
thuốc tại nhà thuốc. Trên 80% giải thích cho những chọn lựa của sinh viên là do thói
quen và tiện lợi.

7


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặt vấn đề:
Ý thức sử dụng thuốc đóng vai trị quan trọng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng
đồng, làm giảm thiểu nguy cơ sử dụng thuốc khơng hợp lý, giảm các tình trạng lạm

dụng thuốc, đặc biệt trong số đó là kháng sinh. Thuốc cần được sử dụng đúng bệnh,
đúng liều, đúng thời gian và chi phí thấp cho bệnh nhân và cho cộng đồng.[9] Theo ước
tính của WHO hơn 50% các loại thuốc được kê toa, phân phối, hoặc bán không phù
hợp, và khoảng 50% bệnh nhân không tuân thủ điều trị.[22] Như vậy việc giáo dục
người kê toa, người phân phối, người bán thuốc, bệnh nhân và cộng đồng về các loại
thuốc kê đơn, thông tin bệnh tật là vấn đề thật sự cần thiết.[3] Để xây dựng được
chương trình giáo dục phù hợp cho từng đối tượng, trước tiên cần nắm rõ ý thức của
các đối tượng về việc sử dụng thuốc như thế nào. Trong số các đối tượng, những
người trẻ - thế hệ thanh niên là thế hệ đang được chú trọng, họ có đủ nhận thức, chọn
lọc trong việc tiếp nhận, dễ dàng tiếp cận cái mới.[8] Các sinh viên theo học tại trường
Nguyễn Tất Thành phần lớn thuộc thế hệ thanh niên, đặc biệt là sinh viên Dược, hơn
ai hết họ cần được trang bị tốt về kiến thức để sẵn sáng sử dụng kiến thức trong thực
hành từ đó ngăn chặn việc sử dụng thuốc khơng hợp lý. Do đó chúng tơi thực hiện
nghiên cứu này nhằm đánh giá kiến thức và nhận thức về việc sử dụng thuốc của sinh
viên khoa Dược đặc biệt là đối tượng năm nhất, khi họ chưa được tiếp cận nhiều với
những kiến thức nền tảng, từ đó chúng tơi có thể kịp thời đề xuất các giải pháp và có
đủ thời gian để đánh giá tính khả thi của các giải pháp.
1.2. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
Ý thức sử dụng thuốc là một phần trong hoạt động mà WHO can thiệp để thúc đẩy
việc sử dụng thuốc hợp lý, đó là một vấn đề quan trọng vì khơng chỉ ảnh hưởng đến
sức khỏe của mỗi cá nhân còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền công nghiệp dược
phẩm.[23][24] Những nghiên cứu trên thế giới hiện đang chú trọng đến việc sử dụng
thuốc hợp lý nhằm đảm bảo mức chi phí thấp cũng như chất lượng chăm sóc sức
khỏe.[13]
Ở các nước trên thế giới đặc biệt ở các nước phát triển việc sử dụng thuốc đã được
quan tâm từ rất sớm vì nó liên quan đến tính an tồn của mỗi cá thể và chất lượng
cuộc sống, khả năng điều trị của chuyên khoa cũng như giảm thiểu khả năng đề kháng
thuốc đặc biệt là các loại kháng sinh. Việc sử dụng thuốc đã được kiểm định một cách
nghiêm ngặt để giảm nguồn cung cấp đại trà, ngồi ra cịn được đặc biệt quan tâm
trong việc nâng cao nhận thức của người dân trong vấn đề bệnh tật cũng như tác dụng

8


của các loại thuốc đến sức khỏe con người.[14] Cùng với sự phát triển của xã hội, sự
tăng nhanh về nhu cầu của mỗi cá nhân, việc đảm bảo an toàn cho những cá thể và sự
phát triển chung của xã hội càng được chú trọng. Nhưng mặt khác, ở các nước đang
phát triển và các nước có nền cơng nghiệp kém phát triển, đi vào guồng máy chung
của thể giới, có sự du nhập của nhiều luồng ý tưởng, có nhiều vấn đề của xã hội được
quan tâm ưu tiên hơn việc sử dụng thuốc trong người dân.[17] Một nghiên cứu thống kê
của Mainul Haque trên 10 nước đang phát triển (Bangladesh, Ấn Độ, Nigeria, Kenya,
Brazil, Mexico, Nepal, Ethiopia, Malaysia, Nam Mỹ ) được công bố năm 2017 phần
lớn các nước có tiến bộ trong việc tiếp cận chăm sóc sức khỏe hơn những nước có thu
nhập thấp, tuy nhiên, còn tỷ lệ dân số khá cao chưa được sử dụng thuốc hợp lý.[10]
Ngoài ra, những nghiên cứu trên thế giới về ý thức sử dụng thuốc nhắm đến những đối
tượng cụ thể. Một nghiên cứu của Vijaya Laxman Chauhari và cộng sự sử dụng
nghiên cứu cắt ngang mô tả và phiếu khảo sát trên 308 những sinh viên vừa tốt nghiệp
Nội khoa và Ngoại khoa đã cho thấy khoảng 12% không nhận thức đầy đủ công dụng
và tầm quan trọng của các thuốc điều trị bệnh lý mãn tính.[12] Một nghiên cứu khác
của Jaswinder Singh và cộng sự nghiên cứu trên bệnh nhân đang sử dụng thuốc, đã
chỉ ra rằng phần lớn bệnh nhân có nhận thức trong cách sử dụng thuốc nhưng vẫn
thiếu thông tin đầy đủ về tác dụng phụ.[19] Trong một khảo sát tương tự tại Bồ Đào
Nha, Rubio và cộng sự đã khảo sát kiến thức của bệnh nhân về loại thuốc họ đang
dùng, họ dựa trên 4 tiêu chí để đánh giá: mục tiêu điều trị, q trình sử dụng thuốc,
tính an tồn và duy trì sử dụng thuốc, trên mẫu nghiên cứu là 633 bệnh nhân, cho thấy
80% bệnh nhân không biết mình đang sử dụng thuốc gì; 1.9% bệnh nhân khơng có ý
thức về việc sử dụng thuốc an tồn.[18]
Ngồi ra những nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng phần lớn bản thân những người
bệnh nhân khơng có nhận thức đủ về việc sử dụng thuốc, chính sự thiếu hiểu biết này
có thể dẫn đến những nguy cơ khơng tn thủ điều trị hoặc khơng điều trị, từ đó kéo
theo những ảnh hưởng về chi phí y tế. [4][16]

1.3. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xếp Việt Nam vào nhóm các các nước có tỉ lệ kháng
kháng sinh cao nhất thế giới.[7] Từ đó Bộ Y Tế đã ban hành những văn bản hướng dẫn
và kiểm sốt việc sử dụng thuốc đại trà, trong đó thể hiện ngồi vai trị trách nhiệm
của những nhân viên trong ngành Y tế còn là vai trò của cộng đồng.[1] Các nghiên cứu
về tình hình sử dụng thuốc an toàn hợp lý được thực hiện, các khảo sát về việc kê đơn
trong bệnh viện được tiến hành, nhưng song song với hoạt động trên, những nghiên
cứu đánh giá tổng quan ý thức sử dụng thuốc của cộng đồng còn hạn chế.
9


Xuất phát từ tập tục xa xưa, người dân khi có bệnh tìm đến các thầy lang, một phần do
gần nhà, một phần do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, chính vì vậy họ quen với sự
tiện lợi. Cùng với sự phát triển của xã hội, kinh tế, sự phát triển về dịch vụ chăm sóc
sức khỏe cũng tăng trưởng mạnh hơn, với những thói quen từ xa xưa thì ngay này một
phần những thói quen đó ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức sử dụng thuốc của cộng đồng,
người dân chú trọng vào sự tiện lợi, giải quyết vấn đề hiện tại của bản thân và quên đi
những hậu quả có thể ảnh hưởng đến tương lai. Khi có bệnh người dân thường tìm
đến các nhà thuốc mà khơng cần kê đơn của bác sĩ vì sự tiện lợi, giảm được chi phí
cũng như thời gian chờ đợi, chính nhu cầu tăng cao đẩy mạnh đến nguồn cung tăng
cao, từ đó việc sử dụng thuốc nhưng khơng biết rõ về tính chất, cơng dụng của thuốc
trở nên phổ biến.[5]
Tại Việt Nam, đang chú trọng trong việc nâng cao ý thức của người hành nghề Y
Dược, tăng cường quản lý giám sát việc kê đơn, bán thuốc. Việc nâng cao ý thức sử
dụng thuốc trong cộng đồng đang chỉ dừng ở mức độ tuyên truyền, vận động chung
cho mọi người dân, chưa có nghiên cứu khảo sát cụ thể ý thức của từng đối tượng,
phân tích nguyên nhân, để từ đó đưa ra các giải pháp cho từng đối tượng cụ thể.
Chính vì vậy, bản thân người nghiên cứu muốn biết sự nhận thức của một trong những
đối tượng trong cộng đồng đó là thế hệ thanh niên, người dễ tiếp cận cái mới và là thế
hệ có thể thay đổi được tương lai. Tìm hiểu họ hiểu vấn đề này ở mức độ nào dựa trên

những khảo sát chi tiết của người nghiên cứu, chứ không chỉ sự nhìn nhận đánh giá
chủ quan.

10


CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. NỘI DUNG
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu
- Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
2.1.2. Thời gian nghiên cứu:
- Thời gian thu thập số liệu: 3 tháng (04/2018 – 06/2018)
- Thời gian xử lý và viết báo cáo: 3 tháng (06/2018 – 09/2018)
2.1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Sinh viên chính quy năm nhất khoa Dược trường đại học Nguyễn Tất Thành
khóa 2017 – 2018
2.1.4. Giả thuyết nghiên cứu:
- Phần lớn sinh viên chưa có nhận thức đầy đủ về việc sử dụng thuốc an tồn, hợp
lý.
- Có nhiều ngun nhân ảnh hưởng đến kết quả nhận thức của sinh viên bao gồm
nguyên nhân chủ quan: chưa quan tâm, chưa tích cực tìm hiểu vấn đề, lối mịn
nhận thức; ngun nhân khách quan: tình trạng bán thuốc đại trà, tuyên truyền giáo
dục ý thức sử dụng thuốc chưa cao, chưa tiếp cận được nguồn thông tin chính
thống về cách sử dụng thuốc an tồn, hợp lý.
2.1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khảo sát thực trạng ý thức sử dụng thuốc của sinh viên chính quy năm nhất Khoa
Dược trường Đại học Nguyễn Tất Thành khóa 2017 – 2018
- Đề xuất giải pháp nhằm tác động lên nhận thức của sinh viên chính quy năm
nhất.
- Tiến hành lượng giá giải pháp trong tương lai.

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Loại thiết kết nghiên cứu:
- Phương pháp cắt ngang mô tả giai đoạn tháng 6/2018
2.2.2. Phương pháp xử lý số liệu:
- Phần mềm xử lý số liệu thống kê SPSS 20.0
2.2.3. Phương pháp lấy mẫu nghiên cứu:
- Lấy mẫu ngẫu nhiên: số phiếu khảo sát là 500 phiếu, sau khi loại bỏ phiếu khơng
đạt u cầu (47 phiếu), cịn lại 453 phiếu hợp lệ.
- Cỡ mẫu: cỡ mẫu tối thiểu được tính theo cơng thức

11


Chọn Z21-α/2: khoảng tin cậy 95%, trị số phân phối tương ứng = 1.96
p = 0.1
d = 0.05
Áp dụng công thức tính được n = 138 sinh viên
2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu:
2.4.1. Công cụ: Sử dụng bảng câu hỏi khảo sát.
2.4.2. Các bước tiến hành:
- Bước 1: Xây dựng phiếu khảo sát dựa theo những giả thuyết nghiên cứu đã nêu
tại Chương 2, mục 1.4.
- Bước 2: Tiến hành phỏng vấn thử nghiệm.
- Bước 3: Hoàn thiện phiếu khảo sát
2.4.3. Cấu trúc phiếu khảo sát: được chia làm 2 phần.
Phần 1: Thơng tin người khảo sát: thăm dị độ tuổi của đối tượng nghiên cứu
Phần 2: Câu hỏi khảo sát liên quan mục tiêu nghiên cứu
- Câu 1: Đánh giá nhận thức của sinh viên về vấn đề sức khỏe bản thân
- Câu 2, câu 3: Đánh giá mức độ tự tìm hiểu của sinh viên về vấn đề sức khỏe bản
thân.

- Câu 4 đến câu 7: Đánh giá nhận thức của sinh viên trong việc sử dụng thuốc
- Câu 8, câu 9: Yếu tố khách quan ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên.

12


CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. MÔ TẢ NGHIÊN CỨU
3.1.1. Phân bố mẫu theo tuổi
Bảng 3.1. Phân bố mẫu theo tuổi
Số lượng

Tỷ lệ

18 – 25 tuổi

432

95%

26 – 35 tuổi

21

5%

Tổng cộng

453


100%

Tuổi

Nhìn chung độ tuổi sinh viên năm nhất đang theo học tại trường thuộc độ tuổi thanh
niên, và kết quả khảo sát một phần phản ảnh thực trạng đó với 432 sinh viên từ 18 –
25 tuổi (95%), tỉ lệ thấp hơn đáng kể là 21 người ở độ tuổi 26 – 35 tuổi (5%).
3.1.2. Nhận thức của sinh viên về vấn đề sức khỏe của bản thân:
3.1.2.1. Tiền căn dị ứng với thuốc:
Bảng 3.2. Tiền căn dị ứng thuốc
Có (28 – 6%)

Không (425 – 94%)

Biết tên thuốc

Không biết tên thuốc

4 (14%)

24(86%)

Trong số 453 sinh viên được khảo sát, số lượng sinh viên có ghi nhận tiền căn dị ứng
thuốc chiếm 6% (28 sinh viên), 94% (425 sinh viên) sinh viên còn lại chưa ghi nhận
tiền căn dị ứng thuốc.
3.1.2.2. Lựa chọn của sinh viên khi dị ứng thuốc:

Biểu đồ 3.1. Lựa chọn của sinh viên khi dị ứng thuốc

13



Tất cả sinh viên đều chọn cách xử lý là ngưng thuốc, trong đó có 76 lượt sinh viên kết
hợp việc ngưng thuốc và ghi nhận thuốc dị ứng, có 36 lượt sinh viên lựa chọn thêm
việc quay lại tiệm thuốc đã mua để đổi thuốc đang uống. Ngoài sự lựa chọn trên, có
211 lượt sinh viên chọn việc ngưng thuốc và quay lại tiêm thuốc đã mua, và 54 lượt
sinh viên quyết định ngưng thuốc và tim nơi bán thuốc mới.
3.1.2.3. Mức độ tìm hiểu của sinh viên về vấn đề sức khỏe liên quan đến bản thân:
Bảng 3.3. Mức độ tìm hiểu của sinh viên về vấn đề sức khỏe
Tìm hiểu thuốc được kê đơn

Tự tìm hiểu bệnh

Hiếm khi

111

24.5%

124

27.5%

Thỉnh thoảng

291

64%

240


53%

Thường xuyên

34

7.5%

66

14.5%

Không lần nào

17

4%

23

5%

Dựa vào kết quả của bảng 3.3, về vấn đề bệnh tật và thuốc được kê đơn, đa phần có tỷ
lệ tương đối giống nhau, với mức độ thỉnh thoảng có con số thống kê lần lượt là 291
sinh viên (64%) và 240 sinh viên (53%) chiếm tỷ lệ cao nhất trong các mức độ tìm
hiểu. Tiếp theo là mức độ hiếm khi chiếm tỷ lệ 24.5% (111 sinh viên) trong vấn đề kê
đơn thuốc và 27.5%(124 sinh viên) trong vấn đề tự tìm hiểu bệnh. Thấp nhất là mức
độ không lần nào chiếm lần lượt là 4%(17 sinh viên) và 5%(23 sinh viên) cho mỗi vấn
đề được nêu trên. Còn lại 34 sinh viên (chiếm 7.5%) và 66 sinh viên (chiếm 14.5%)

thường xuyên tìm hiểu về thuốc được kê đơn và bệnh tật của bản thân.
3.1.3. Nhận thức của sinh viên về việc sử dụng thuốc:
3.1.3.1. Lựa chọn của sinh viên khi bị bệnh đột ngột:

Biểu đồ 3.2. Lựa chọn của sinh viên khi bị bệnh đột ngột

14


Theo biểu đồ 3.2, phần lớn sinh viên lựa chọn việc mua thuốc tại nhà thuốc 352 sinh
viên (78%), 59 sinh viên sự dụng thuốc dư tại nhà (13%), chỉ có 6% (27 sinh viên) đi
khám bác sĩ, và 3% (15 sinh viên) còn lại lấy toa cũ mua thuốc.

Biểu đồ 3.3. Lý do lựa chọn của sinh viên khi bị bệnh đột ngột
Đề lý giải cho hành động ở trên, theo biểu đồ 3.3, phần lớn sinh viên lựa chọn cách
giải quyết trên theo thói quen (355 lượt sinh viên, 81.5%), có khoảng 40% - 47% lựa
chọn hành động trên do được tác động từ một người khác (175 lượt sinh viên) và giảm
thời gian chờ đợi (203 lượt sinh viên). 149 lượt sinh viên (chiếm 34.5%) thấy được
giảm chi phí do lựa chọn một trong những phương án trên. Có 62 lượt sinh viên
(14.5%) lựa chọn do hết bệnh nhanh và chỉ có 18 lượt sinh viên (chiếm 4%) lựa chọn
cách giải quyết trên do gần nhà.
3.1.3.2. Lựa chọn của sinh viên khi mua thuốc tại nhà thuốc không giảm/hết bệnh:

Biểu đồ 3.4. Lựa chọn của sinh viên khi không giảm/hết bệnh
Trong số 352 sinh viên lựa chọn đến nhà thuốc khi bị bệnh đột ngột, trong trường hợp
bệnh khơng giảm có 48% sinh viên (170 sinh viên) lựa chọn quay lại nhà thuốc cũ và
lấy toa mới, còn lại các lựa chọn tiếp theo lần lượt là khám bác sĩ (79 sinh viên, 22%)
và đến nhà thuốc mới mua toa (103 sinh viên, 29%)
3.1.3.3. Cách sử dụng thuốc của sinh viên khi giảm/hết bệnh:
15



Biều đồ 3.5. Lựa chọn của sinh viên khi hết/giảm bệnh
Theo biểu đồ 3.5, sau khi giảm/hết bệnh phần lớn sinh viên chọn phương pháp uống
hết thuốc và không tái khám (285 sinh viên, 63%). Với tỷ lệ 22% (101 sinh viên) chọn
lựa ngưng thuốc và không uống hết toa thuốc đã có. 67 sinh viên (15%) lựa chọn uống
hết toa thuốc và tái khám.
3.1.3.4. Sử dụng thuốc của người khác khi mắc bệnh tương tự:

Biểu đồ 3.6. Lựa chọn sử dụng thuốc của người khác

Biểu đồ 3.7. Lý do chọn sử dụng thuốc của người khác
Theo biểu đồ 3.5 và 3.6, có 12.5%(56 sinh viên) sử dụng toa thuốc của người khác với
lý do chủ yếu được ghi nhận là do tiện lợi (49 lượt, 87.5%), ngoài ra lý do được tác
động từ chủ toa thuốc và thói quen chiếm lần lượt là 26 lượt (46.5%) và 13 lượt
(23%). Cịn lại 87.5% (397 sinh viên) khơng sử dụng toa từ người khác.
3.1.3.5. Sự hiểu biết của sinh viên về các loại thuốc có sẵn trong nhà (loại trừ các bệnh
mạn tính như hen, tim mạch, nội tiết)
16


Bảng 3.4. Sự hiểu biết của sinh viên về thuốc có sẵn trong nhà
Có (267 – 59%)
Biết tên và cơng dụng
của từng loại thuốc
73 (27.5%)

Không (186 – 41%)

Không biết tên và cơng

dụng từng loại
194(72.5%)

Có 186 sinh viên chiếm 41% khơng có thuốc sẵn trong nhà. Ngược lại có 267 (59%)
sinh viên có thuốc trong nhà nhưng chỉ có 73 sinh viên (27.5%) biết tên và công dụng
của các loại thuốc, cịn 194 sinh viên (72.5%) khơng biết hết về tên cũng như công
dụng của các loại thuốc.
3.1.4. Yếu tố khách quan ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên
Bảng 3.5. Tình trạng bán thuốc tại nhà thuốc


Khơng

Có kèm toa thuốc

15(3.5%)

438(96.5%)

Được tư vấn thuốc

207 (45.5%)

246 (54.5%)

Theo khảo sát bảng 3.5, phần lớn sinh viên xác nhận việc mua thuốc tại nhà thuốc
không kèm toa chiếm tỷ lệ 96.5% (438 sinh viên), chỉ có 15 sinh viên (3.5%) xác nhận
có được cấp toa sau khi mua thuốc tại nhà thuốc. Về vấn đề được tư vấn cơng dụng và
loại thuốc nhóm có được tư vấn và khơng được tư vấn có tỷ lệ tương đương nhau lần
lượt là 45.5% và 54.5%.

3.2. THẢO LUẬN
Dữ liệu nghiên cứu cho thấy đối tượng nghiên cứu phù hợp với mục tiêu đề tài là khảo
sát ý thức sử dụng thuốc trên đối tượng thanh niên, phần lớn sinh viên (95%) trong
mẫu nghiên cứu thuộc thế hệ thanh niên. Mỗi đối tượng có một cách tiếp cận riêng, từ
kết quả nghiên cứu đã phân lập đối tượng rõ ràng để xây dựng cách tiếp cận phù hợp
trong việc thay đổi nhận thức.
Phần lớn sinh viên còn thiếu kiến thức trong việc sử dụng thuốc an toàn hợp lý, điều
này dẫn đến ý thức sử dụng thuốc của sinh viên không cao. Để lý giải cho vấn đề này
theo những nền tảng lý luận: khi có kiến thức rõ ràng sẽ dẫn đến hành vi tốt, họ sẽ có
xu hướng nhận thức rõ ràng hơn về thuốc khi họ được trao đổi với người kê đơn.[6][21]
17


Nhưng trên thực tế nghiên cứu, có 54.5% sinh viên ghi nhận họ không được tư vấn rõ
ràng về thuốc.
Đối với dị ứng thuốc, một dạng phản ứng thuốc ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân
người sử dụng và ai cũng có khả năng gặp phải, thì nhận thức của sinh viên chỉ dừng
lại ở bước cơ bản nhất là ngưng thuốc, nhưng phải làm gì tiếp theo để giảm khả năng
dị ứng cùng loại thuốc đó trong tương lai thì chỉ có 112/453 sinh viên lựa chọn đầy đủ
các bước cần làm khi bị dị ứng thuốc là ghi nhận thuốc dị ứng và quay lại nhà thuốc
cũ để biết tên thuốc dị ứng và thay đổi thuốc, còn phần lớn sinh viên vẫn chưa nhận
thức được đầy đủ các việc bản thân họ sẽ phải làm.
Về mặt nhận thức của sinh viên trong việc dùng thuốc, phần lớn họ vẫn có thói quen
là mua thuốc tại nhà thuốc khi bị bệnh (78%), với 81.5% là do thói quen, 40% do
được tác động từ người khác. Điều này chứng tỏ dễ bị tác động từ những người xung
quanh, và hình thói quen do ảnh hưởng từ gia đình và xã hội, hoàn toàn phù hợp với
tâm lý của lứa tuổi thanh niên.[2]
Từ thói quen sử dụng thuốc tại nhà thuốc nên khi không giảm/hết bệnh phần lớn sinh
viên vẫn chọn tiếp tục mua thuốc tại nhà thuốc với 48% quay lại nhà thuốc cũ, 29%
mua thuốc tại nhà thuốc mới, chỉ 26% sinh viên đến khám bác sĩ, điều này cho thấy

một lối mòn về tư duy, đối với những gì đã quen thuộc họ chưa có suy nghĩ thay đổi
theo một hướng khác. Cũng từ kết quả này, phần nào có thể thấy một thói quen sử
dụng thuốc của người Việt Nam là sự thiếu tin tưởng vào người kê đơn, họ muốn hết
bệnh trong một thời gian ngắn nên khi khơng đạt được mục đích trên dẫn đến việc họ
thay đổi trong cách chọn lựa, điều này có thể lý giải được một phần do nguyên nhân
chủ quan của người bệnh, và một phần do họ chưa được tư vấn đầy đủ về thuốc và
bệnh tật của bản thân.
Từ việc thiếu kiến thức về bệnh tật và thuốc dẫn đến một kết quả tương tự với câu hỏi
họ sẽ làm gì khi giảm/hết bệnh nhưng chưa hết thuốc được kê đơn, phần lớn sinh viên
(trên 80% sinh viên) chọn cách ngưng thuốc đột ngột hoặc uống hết thuốc và khơng
tái khám. Chính vì hành động trên góp phần cho việc kháng thuốc đặc biệt là thuốc
kháng sinh - đã được WHO nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng thuốc đúng
và đủ liều.[20]
Ngoài ra, mặc dù tỷ lệ khơng cao nhưng vẫn có 12.5% sử dụng toa thuốc của người
khác khi mắc bệnh tương tự với lý do phần lớn là do tiện lợi chiếm 87.5%.
Một nguyên nhân xuyên suốt có thể lý giải cho những hành động trên của sinh viên là
do họ thiếu kiến thức về bệnh tật và thuốc. Nhưng khi được hỏi tần suốt họ tự tìm hiểu
về bệnh tật và thuốc của bản thân thì chỉ dưới 15% họ tìm hiểu ở mức độ thường
xuyên, phần lớn (trên 50%) ở mức độ thỉnh thoảng. Ngày nay với công nghệ 4.0,
18


mạng lưới internet phổ biến, việc tìm kiếm một thơng tin khơng hề khó khăn, vậy vấn
đề mấu chốt là do bản thân sinh viên, họ chưa có nhu cầu lớn trong việc tìm hiểu thêm
thơng tin về sức khỏe bản thân. Từ nhận định trên, một phần có thể lý giải cho kết quả
chỉ có 73/267 sinh viên (chiếm tỷ lệ 27.5%) biết về công dụng các loại thuốc có sẵn
trong nhà.
Từ các kết quả của nghiên cứu cho thấy dưới 50% sinh viên chính quy năm nhất khoa
Dược có ý thức trong việc sử dụng thuốc. Để so sánh với các nghiên cứu khác trong
cùng đối tượng là sinh viên theo học ngành liên quan đến chăm sóc y tế, một nghiên

cứu của Fei-Yuan Hsiao về Khảo sát kiến thức và hành vi trong việc sử dụng thuốc
trên 6270 sinh viên cho thấy rằng 45.8% sinh viên chưa có nhận thức đủ trong việc sử
dụng thuốc.[11] Hoặc một nghiên cứu của Vijaya Laxman Chauhari và cộng sự khảo
sát trên 308 những sinh viên vừa tốt nghiệp Nội khoa và Ngoại khoa đã cho thấy
khoảng 12% không nhận thức đầy đủ công dụng và tầm quan trọng của các thuốc điều
trị bệnh lý mãn tính.[12]
Từ kết quả này có thể cho thấy việc giáo dục sức khỏe là cần thiết để sửa chữa những
kiến thức sai lầm và cải thiện ý thức sử dụng thuốc.[15]
3.3. GIẢI PHÁP:
3.3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp:
- Ý thức của sinh viên chính quy năm nhất khoa Dược khóa 2017 cịn chưa cao, chưa
phù hợp với sinh viên theo chuyên ngành đặc thù về sức khỏe vì vậy, đây là tính thiết
yếu để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao ý thức của sinh viên.
3.3.2. Một số giải pháp:
Giải pháp 1: Cần đưa mơn Dược lâm sàng vào tín chỉ bắt buộc và xuyên suốt.
- Để có thể cung cấp đầy đủ cho sinh viên kiến thức khi ra trường cần giáo dục sinh
viên từ sớm sau khi sinh viên đã có những kiến thức kê bản về thuốc.
- Ngoài ra điều này giúp sinh viên có sự liên kết với thực tế sau khi ra trường.
Giải pháp 2: Phát huy tính tích cực của sinh viên trong việc tự tìm hiểu về thuốc cũng
như những vấn đề sức khỏe
- Lứa tuổi sinh viên có sự phát triển mạnh mẽ về tư duy, dễ dàng tiếp cận cái mới, vì
vậy việc phát huy tính tích cực trong sinh viên có thể giúp sinh viên có những kiến
thức để bảo vệ sức khỏe cho bản thân và gia đình. Trước hết, cần cho sinh viên thấy
được lợi ích của việc sử dụng thuốc an toàn hợp lý ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân
và gia đình như thế nào, khi sinh viên ý thức được điều đó, họ sẽ có xu hướng tự tìm
hiểu và dễ tiếp thu hơn.

19



Giải pháp 3: Tăng cường tuyên truyền cách sử dụng thuốc an tồn hợp lý, thơng tin y
khoa thường thức một cách ngắn gọn, xúc tích dưới dạng tờ rơi, tài liệu ngắn phát cho
sinh viên.
- Những thông tin ngắn gọn, hình ảnh bắt mắt dễ hiểu sẽ khiến sinh viên thu hút hơn
là những phần lý thuyết khô khan.
Giải pháp 4: Tổ chức các buổi trao đổi kiến thức, kỹ năng về những vấn đề liên quan
đến các trường hợp dược lâm sàng.
- Việc tổ chức các buổi trao đổi kiến thức, kỹ năng sẽ giúp chúng ta đánh giá được
cách giải quyết của sinh viên và lý do cho cách giải quyết đó, ngồi ra có thể giúp sinh
viên giải đáp thắc mắc nếu có.

20


CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. KẾT LUẬN:
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn sinh viên chưa có đầy đủ kiến thức về việc
sử dụng thuốc an tồn hợp lý, từ đó dẫn đến ý thức sử dụng thuốc trong sinh viên chưa
cao. Khi so sánh với những nghiên cứu tương tự dù ở những nước phát triển tỷ lệ nhận
thức đầy đủ về thuốc còn hạn chế, mặc dù tỷ lệ có thấp hơn so với nghiên cứu này.
Điều đó có thể cho thấy song song với việc kiểm soát mua bán thuốc, kê đơn thuốc,
việc thay đổi nhận thức và tuyên truyền ý thức sử dụng thuốc trong cộng đồng là một
công việc đáng quan tâm, nhằm giảm thiểu tình trạng lạm dụng thuốc và đặc biệt là đề
kháng thuốc trong tương lai. Theo nghiên cứu, một vài nguyên nhân chính dẫn đến
nhận thức của sinh viên thấp là do thói quen và dễ bị tác động bởi những người xung
quanh, và đây cũng phản ánh một phần thực trạng nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng
thuốc khơng an tồn hợp lý trong cộng đồng.
Như vậy, việc can thiệp nâng cao kiến thức và nhận thức của sinh viên cần được tiến
hành ngay lập tức để cải thiện tình hình sử dụng thuốc trong tương lai.
4.2. KIẾN NGHỊ:

Qua một quá trình nghiên cứu và với kết quả thu được nhóm nghiên cứu cũng đề xuất
một số biện pháp nhằm cải thiện thực trạng trên như sau:
1. Đối với ngành Y tế:
- Cần tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức người dân về tác hại gần cũng như
xa của việc sự dụng thuốc không hợp lý, an toàn.
- Kiểm tra nghiêm ngặt việc mua bán thuốc.
- Cần có những nghiên cứu tương tự trên những đối tượng khác nhau để đánh giả tổng
quan về nhận thức của cộng đồng và có biện pháp can thiệp phù hợp.
2. Đối với Khoa Dược trường Đại học Nguyễn Tất Thành:
- Trang bị kỹ năng, kiến thức thực tế cho sinh viên trong việc mua/ bán thuốc.
- Trau dồi mặt đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
3. Đối với sinh viên:
- Sinh viên cần nhận thức đúng và đủ về ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của
việc khơng sử dụng thuốc hợp lý và an tồn.
- Sau khi được trang bị kiến thức sinh viên cần vận động gia đình bạn bè nhằm nâng
cao ý thức sử dụng thuốc.
Chủ nhiệm đề tài
(Ký và ghi rõ họ tên)
21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ y tế, Ban soạn thảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Phụ, and thực phẩm và
chất hỗ trợ chế Biến. 2012. “Bộ y Tế,” 1–343.
2. Minh Tiên Lý, Thị Tứ Nguyễn. 2012. “Giáo Trình Tâm Lý Học Lứa Tuổi.” In ,
edited by Thị Tứ Nguyễn, 122. TP. HỒ CHÍ MINH: Bạch Văn Hợp.
Tài liệu tiếng Anh
3. A Le Grand, HV Hogerzeil, and FM Haaijer-Ruskamp. 1999. “Intervention
Research in Rational Use of Medicines: A Review.” Health Policy Plan 14 (2):

89–102.
4. Dickens, Todd. 2011. “Procurement of Medicines.” The World Medicines
Situation 2011. />5. Dqg, V H, and Lq. n.d. “Situation Analysis Antibiotic Use and Resistance in
Viet.”
/>6. Findings, Main. 1977. “A Theoretical Analysis and Review of Empirical
Research.
Psychological
Bulletin
84
(5):
888918.
/>7. Freitas, Luiz Carlos De. 2013. Polớticas de Responsabilizaỗóo: Entre a Falta
de Evidência e a Ética.” Cadernos de Pesquisa 43 (148): 348–65.
/>8. Fresle, Daphne A, and Cathy Wolfheim. 1997. “Public Education in Rational
Drug Use: A Global Survey Action Programme on Essential Drugs 2,” no.
March. />9. Gray, D, G Tomlinson, and M Berger. 1996. “Techno-Economic Assessment
of Biomass Gasification Technologies for Fuels and Power.” Produced by The
MITRE Corporation for The National Renewable Energy Laboratory, Under
Contract No. AL-4159, 1–6.
10. Haque, Mainul. 2017. “Essential Medicine Utilization and Situation in Selected
Ten Developing Countries: A Compendious Audit.” Journal of International
Society of Preventive & Community Dentistry 7 (4): 147–60.
/>11. Hsiao, Fei Yuan, Jen Ai Lee, Weng Foung Huang, Shih Ming Chen, and
Hsiang Yin Chen. 2006. “Survey of Medication Knowledge and Behaviors
among College Students in Taiwan.” American Journal of Pharmaceutical
Education 70 (2). />12. Janakiraman, Balamurugan, Hariharasudhan Ravichandran, Senait Demeke,
and Solomon Fasika. 2017. “On Postural Deviation among School Children : A
Systematic Review,” 1–11. />13. List, W H O Model. 2015. “19th WHO Model List of Essential Medicines
Explanatory Notes,” no. April: 28–31.
14. O’Neil, Christine K., and Therese I. Poirer. 1998. “Impact of Patient

Knowledge, Patient‐Pharmacist Relationship, and Drug Perceptions on
Adverse Drug Therapy Outcomes.” Pharmacotherapy: The Journal of Human
22


Pharmacology
and
Drug
Therapy
18
(2):
333–40.
/>15. Ovaskainen, Harri, Ulla Närhi, Marja S Airaksinen, J Simon Bell, and Minna
Väänänen. 2007. “Providing Patient Care in Community Pharmacies: Practice
and Research in Finland.” Annals of Pharmacotherapy 41 (6): 1039–46.
/>16. Perera, Thisara, Priyanga Ranasinghe, Udeshika Perera, Sherin Perera, Madura
Adikari, Saroj Jayasinghe, and Godwin R. Constantine. 2012. “Knowledge of
Prescribed Medication Information among Patients with Limited English
Proficiency
in
Sri
Lanka.”
BMC
Research
Notes
5.
/>17. Richard Samans, Jennifer Blanke, Gemma Corrigan, Margareta Drzeniek.
2015. “The Inclusive Growth and Development Report.” World Economic
Forum,
no.

September:
106.
/>18. Rubio, Joaqn Salmerón, Pilar García-Delgado, Paula Iglésias-Ferreira,
Henrique Mateus-Santos, and Fernando Martínez-Martínez. 2015.
“Measurement of Patients’ Knowledge of Their Medication in Community
Pharmacies in Portugal.” Ciência & Saúde Coletiva 20 (1): 219–28.
/>19. Singh, Jaswinder, Narinder Singh, Rahat Kumar, Vikram Bhandari, Navpreet
Kaur, and Sheveta Dureja. 2013. “Awareness about Prescribed Drugs among
Patients Attending Out-Patient Departments.” International Journal of Applied
& Basic Medical Research 3 (1): 48–51. />20. USAD. 1985. “Supported by USAID,” 21.
21. Vainio, Kirsti K., Marja S.A. Airaksinen, Tarja T. Hyykky, and K. Hannes
Enlund. 2002. “Effect of Therapeutic Class on Counseling in Community
Pharmacies.”
Annals
of
Pharmacotherapy
36
(5):
781–86.
/>22. WHO. 1987. “The Rational Use of Drugs - Report of the Conference of
Experts, Nairobi 25-29 November 1985.” Journal of Pharmacology and
Pharmaceutics 45 (November): 338. />23. WHO
"Rational
Use
of
Medicines.”
WHO.
/>24. WHO Geneva. 2011. “The World Medicines Situation: Rational Use of
Medicines.”
The

World
Medicines
Situation
2
(2):
24–30.
/>
23


PHỤ LỤC 3: BÀI BÁO KHOA HỌC

Khảo sát ý thức sử dụng thuốc của sinh viên đại học năm nhất khóa 2017 –
2018 khoa Dược trường đại học Nguyễn Tất Thành
Hoàng Thị Thoa1, Trần Thị Phương Uyên2, Trần Thị Mỹ Kiều3
Đại học Nguyễn Tất Thành
*
Tóm tắt:
Tình hình chung và mục tiêu nghiên cứu: Ý thức sử dụng thuốc đóng vai trị quan trọng trong hệ thống chăm
sóc sức khỏe cộng đồng, làm giảm thiểu nguy cơ sử dụng thuốc không hợp lý, giảm các tình trạng lạm dụng
thuốc. Nhóm nghiên cứu muốn khảo sát thực trạng ý thức sử dụng trên đối tượng thanh niên trong nhóm ngành
đặc thù - sinh viên khoa Dược trường Đại học Nguyễn Tất Thành, từ đó đánh giá tổng quan được ý thức sử
dụng thuốc nhằm đề xuất biện pháp cải thiện tình trạng sử dụng thuốc hiện nay. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, sử dụng phiếu khảo sát trên 453 sinh viên chính quy năm nhất trường đại học
Nguyễn Tất Thành khóa 2017 – 2018, xử lý số liệu bằng SPSS 20.0. Kết quả: Dưới 50% sinh viên chính quy
năm nhất có ý thức trong việc sử dụng thuốc. Dưới 15% sinh viên tự tìm hiểu về bệnh tật và thuốc mà họ sử
dụng ở mức độ thường xuyên. Chỉ 6% sinh viên tìm đến khám bác sĩ khi có bệnh, 78% sinh viên lựa chọn đến
mua thuốc tại nhà thuốc. Trên 80% giải thích cho những chọn lựa của sinh viên là do thói quen và tiện lợi.
Từ khóa: sử dụng thuốc hợp lý, lạm dụng thuốc, ý thức, sinh viên.


1. ĐẶT VẤN ĐỀ:

thể kịp thời đề xuất các giải pháp và có đủ thời gian
để đánh giá tính khả thi của các giải pháp.
1.1. Tình hình nghiên cứu thế giới:
Ý thức sử dụng thuốc là một phần trong hoạt động
mà WHO can thiệp để thúc đẩy việc sử dụng thuốc
hợp lý, đó là vấn đề quan trọng vì khơng chỉ ảnh
hưởng đến sức khỏe của mỗi cá nhân cịn ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền cơng nghiệp dược
phẩm.[5][6] Những nghiên cứu trên thế giới hiện
đang chú trọng đến việc sử dụng thuốc hợp lý
nhằm đảm bảo mức chi phí thấp cũng như chất
lượng chăm sóc sức khỏe.[7] Ở các nước trên thế
giới đặc biệt ở các nước phát triển việc sử dụng
thuốc đã được kiểm định một cách nghiêm ngặt
ngoài ra nhận thức của người dân trong vấn đề
bệnh tật cũng như tác dụng của các loại thuốc được
nâng cao.[8] Nhưng ở các nước đang phát triển và
các nước có nền cơng nghiệp kém phát triển, có
nhiều vấn đề của xã hội được quan tâm ưu tiên hơn
việc sử dụng thuốc trong người dân.[9] Một nghiên
cứu thống kê của Mainul Haque trên 10 nước đang
phát triển (Bangladesh, Ấn Độ, Nigeria, Kenya,
Brazil, Mexico, Nepal, Ethiopia, Malaysia, Nam
Mỹ ) được công bố năm 2017 phần lớn các nước có
tiến bộ trong việc tiếp cận chăm sóc sức khỏe hơn
những nước có thu nhập thấp, tuy nhiên, cịn tỷ lệ
dân số khá cao chưa được sử dụng thuốc hợp lý.[10]
Một nghiên cứu của Vijaya Laxman Chauhari và

cộng sự sử dụng nghiên cứu cắt ngang mô tả trên

Ý thức sử dụng thuốc đóng vai trị quan trọng trong
hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng, làm giảm
thiểu nguy cơ sử dụng thuốc khơng hợp lý, giảm
các tình trạng lạm dụng thuốc. Thuốc cần được sử
dụng đúng bệnh, đúng liều, đúng thời gian và chi
phí thấp cho bệnh nhân và cho cộng đồng.[1] Theo
ước tính của WHO hơn 50% các loại thuốc được kê
toa, phân phối, hoặc bán không phù hợp, và khoảng
50% bệnh nhân không tuân thủ điều trị.[2] Như vậy
việc giáo dục người kê toa, người phân phối, người
bán thuốc, bệnh nhân và cộng đồng về các loại
thuốc kê đơn, thông tin bệnh tật là vấn đề thật sự
cần thiết.[3] Để xây dựng được chương trình giáo
dục phù hợp cho từng đối tượng, trước tiên cần
nắm rõ ý thức của các đối tượng về việc sử dụng
thuốc như thế nào. Trong số các đối tượng, những
người trẻ - thế hệ thanh niên là thế hệ đang được
chú trọng, họ có đủ nhận thức, chọn lọc trong việc
tiếp nhận, dễ dàng tiếp cận cái mới.[4] Các sinh viên
theo học ngành Dược, phần lớn thuộc thế hệ thanh
niên và hơn ai hết họ cần được trang bị tốt về kiến
thức để sẵn sáng sử dụng kiến thức trong thực hành
từ đó ngăn chặn việc sử dụng thuốc khơng hợp lý.
Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
đánh giá kiến thức và nhận thức về việc sử dụng
thuốc của sinh viên khoa Dược đặc biệt là đối
tượng năm nhất, khi họ chưa được tiếp cận nhiều
với những kiến thức nền tảng, từ đó chúng tơi có


24


cao ý thức sử dụng thuốc trong cộng đồng đang chỉ
dừng ở mức độ tuyên truyền, vận động chung cho
mọi người dân, chưa có nghiên cứu khảo sát cụ thể
ý thức của từng đối tượng, phân tích ngun nhân.
Chính vì vậy, bản thân người nghiên cứu muốn biết
sự nhận thức của một trong những đối tượng trong
cộng đồng đó là thế hệ thanh niên, thế hệ có thể
thay đổi được tương lai. Tìm hiểu họ hiểu vấn đề
này ở mức độ nào dựa trên những khảo sát chi tiết
của người nghiên cứu, chứ khơng chỉ sự nhìn nhận
đánh giá chủ quan.

308 sinh viên vừa tốt nghiệp Nội khoa và Ngoại
khoa cho thấy khoảng 12% không nhận thức đầy
đủ công dụng và tầm quan trọng của các thuốc điều
trị bệnh lý mãn tính.[11] Một nghiên cứu khác của
Jaswinder Singh và cộng sự nghiên cứu trên bệnh
nhân đang sử dụng thuốc, đã chỉ ra rằng phần lớn
bệnh nhân có nhận thức trong cách sử dụng thuốc
nhưng vẫn thiếu thông tin đầy đủ về tác dụng
phụ.[12] Trong một khảo sát tương tự tại Bồ Đào
Nha, Rubio và cộng sự đã khảo sát kiến thức của
bệnh nhân về loại thuốc họ đang dùng, với mẫu
nghiên cứu là 633 bệnh nhân, cho thấy 80% bệnh
nhân khơng biết mình đang sử dụng thuốc gì; 1.9%
bệnh nhân khơng có ý thức về việc sử dụng thuốc

an tồn.[13]
Ngồi ra những nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng
phần lớn bản thân những người bệnh nhân khơng
có nhận thức đủ về việc sử dụng thuốc, chính sự
thiếu hiểu biết này có thể dẫn đến những nguy cơ
khơng tn thủ điều trị hoặc khơng điều trị, từ đó
kéo theo những ảnh hưởng về chi phí y tế. [14][15]
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước:
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xếp Việt Nam vào
nhóm các các nước có tỉ lệ kháng kháng sinh cao
nhất thế giới.[7] Từ đó Bộ Y Tế đã ban hành những
văn bản hướng dẫn và kiểm soát việc sử dụng thuốc
đại trà, trong đó thể hiện ngồi vai trò trách nhiệm
của những nhân viên trong ngành Y tế còn là vai
trò của cộng đồng.[16] Nhưng các nghiên cứu đánh
giá tổng quan ý thức sử dụng thuốc của cộng đồng
cịn hạn chế.
Ngày nay khi có bệnh người dân thường tìm đến
các nhà thuốc mà khơng cần kê đơn của bác sĩ vì sự
tiện lợi, giảm được chi phí cũng như thời gian chờ
đợi, chính nhu cầu tăng cao đẩy mạnh đến nguồn
cung tăng cao, từ đó việc sử dụng thuốc nhưng
khơng biết rõ về tính chất, cơng dụng của thuốc trở
nên phổ biến.[17]

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: sinh viên chính quy năm
nhất khoa Dược trường đại học Nguyễn Tất Thành
2017 – 2018, chọn lựa mẫu bằng phương pháp
ngẫu nhiên với cỡ mẫu 453 sinh viên.

Phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật sử dụng:
Nghiên cứu cắt ngang mô tả , xử lý số liệu bằng
SPSS 20.0

KẾT QUẢ
Phần lớn đối tượng khảo sát trong độ tuổi thanh
niên với 432 sinh viên từ 18 – 25 tuổi (95%), 21
người ở độ tuổi 26 – 35 tuổi (5%).
Bảng câu hỏi được chia làm 3 phần nhằm đánh giá
kiến thức và nhận thức của sinh viên trong việc sử
dụng thuốc: Đánh giá nhận thức của sinh viên về
vấn đề sức khỏe bản thân (Phần 1), Đánh giá nhận
thức của sinh viên trong việc sử dụng thuốc (Phần
2), Yếu tố khách quan ảnh hưởng đến nhận thức
của sinh viên (Phần 3)
Phần 1: Nhận thức của sinh viên về vấn đề sức
khỏe bản thân:
Số lượng sinh viên có ghi nhận tiền căn dị ứng
thuốc chiếm 6% (28 sinh viên), 94% (425 sinh
viên) sinh viên cịn lại chưa ghi nhận tiền căn dị

Hình 1. Lựa chọn của sinh viên khi dị ứng thuốc
Tại Việt Nam, đang chú trọng trong việc nâng cao
ý thức của người hành nghề Y Dược, tăng cường
quản lý giám sát việc kê đơn, bán thuốc. Việc nâng

ứng thuốc. Khi bị dị ứng tất cả sinh viên đều chọn
cách xử lý là ngưng thuốc, trong đó có 76 lượt sinh
viên kết hợp việc ngưng thuốc và ghi nhận thuốc dị


25


×