Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế-xã hội đối với tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.1 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế-xã hội</b>


<b>đối với tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc</b>



<b>Đỗ Đức Minh*</b>


<i>Tóm tắt: Vùng Tây Bắc có vị thế địa chính trị vơ cùng quan trọng, liên quan mật thiết đến</i>
<i>sự tồn vong và hưng thịnh của đất nước. Nghiên cứu những tác động, ảnh hưởng của các yếu tố</i>
<i>kinh tế - xã hội đến việc phát sinh và phát triển của các loại tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây</i>
<i>Bắc góp phần nhận diện, làm rõ những đặc điểm, yêu cầu, thuận lợi và thách thức trong cơng tác</i>
<i>đấu tranh phịng chống loại tội phạm này trên địa bàn chiến lược Tây Bắc nói riêng và cả nước nói</i>
<i>chung.</i>


<i>Từ khóa: Tây Bắc, Ma túy, Tội phạm xuyên quốc gia </i>


<b>1. Một số vấn đề về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc</b>
<i><b>1.1. Điều kiện tự nhiên </b></i>


<i><b> (1). Vùng Tây Bắc có kiến tạo địa chất</b></i>
đa dạng phức tạp và có địa hình cao
nhất, bị chia cắt nhất, hiểm trở và trọng
yếu nhất Việt Nam. Là miền đất của
những núi cao và cao nguyên (đá vôi xen
lẫn núi đất), nơi đây đặc trưng có nhiều
dãy núi cao trải dài hình rẻ quạt hướng
tây bắc-đơng nam (khu vực Lào Cai, Lai
Châu, Điện Biên, Sơn La, Hịa Bình)
hoặc có những dãy núi cao chạy theo
hình cánh cung (khu Việt Bắc). Nhiều
khối liền mạch núi sông và dãy núi cao
kéo dài từ Vân Nam (Trung Quốc) và
thoải dần song song



với thung lũng sơng Hồng. Các dạng địa hình phổ biến ở đây là các dãy núi cao, thung
lũng sâu hay hẻm vực làm cho địa hình chia cắt phức tạp. Từ Đông sang Tây được đánh
dấu bởi dãy núi cao và đồ sộ nhất là Hoàng Liên Sơn (dài 180km, rộng 30km) với nhiều
đỉnh núi cao mây mù từ 2800-3000m. Phía tây là dãy núi sơng Mã dài 500 km và có
những đỉnh cao trên 1800m. Giữa hai dãy núi đồ sộ này là vùng đồi núi thấp tương đối
rộng lớn thuộc lưu vực sơng Đà (cịn gọi là địa máng sông Đà) với nhiều cao nguyên đá
vôi có độ cao trung bình chạy suốt từ Phong Thổ đến Thanh Hóa và có thể chia nhỏ
thành các cao nguyên như Tà Phình, Mộc Châu, Nà Sản. Xen giữa các dãy núi Hoàng
Liên và dải cao nguyên phía Tây là một số đồng bằng nhỏ và thung lũng (vùng bồn địa,


* <sub> </sub>*<b><sub> Tiến sĩ Luật học, Ban Thanh tra và Pháp chế, Đại học Quốc gia Hà Nội. </sub></b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

lòng chảo) như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh (thung lũng lớn nhất nhưng chiếm
phần nhỏ trong tồn bộ diện tích vùng). Địa hình Tây Bắc được đặc trưng bởi tính phức
tạp và chia cắt mạnh đã tạo nên những vùng cảnh quan khá đa dạng: Vùng cao núi đồi
cao và dốc lớn, nhiều ngọn núi cheo leo hiểm trở xen kẽ các thung lũng sâu và hẹp tạo
thành một phức hợp của những bồn địa lớn, nhỏ nằm xen kẹp giữa các dãy núi cao bao
bọc xung quanh; xen kẽ là các thung lũng có địa hình tương đối bằng phẳng (Mường
So, Tam Đường, Bình Lư, Than Uyên), Pu Sam Cáp [1, tr.76].


<i><b>(2). Tây Bắc cũng là địa bàn có diện tích rừng tự nhiên khá lớn với hệ thống các</b></i>
rừng rậm, rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng phục sở hữu nguồn tài
nguyên phong phú, có giá trị đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển của đất nước và bảo
vệ bền vững môi trường sinh thái. Đây là một vùng sinh thái đặc biệt, tính đa dạng sinh
học cao và có tính đặc hữu; hệ thống vật rừng điển hình và phong phú về lồi, nhiều loại
cây gỗ, cây dược liệu quý hiếm có giá trị kinh tế, giá trị khoa học cao. Tài nguyên rừng
của Tây Bắc không chỉ cung cấp nguyên liệu giấy, chất đốt, phát triển vùng dược liệu,
phát triển công nghệ sinh học (bảo tồn nguồn gen ) mà cịn có vai trị quan trọng với du
lịch sinh thái và vùng nguyên liệu gỗ, sản phẩm đặc sản của cả vùng Bắc Bộ; vai trị


quyết định đối với bảo vệ mơi trường sinh thái đầu nguồn và nguồn nước của đồng bằng.
Tây Bắc cũng là vùng trung chuyển của tất cả các con sơng có dịng chảy lưu lượng lớn
ở phía Bắc bắt nguồn từ các đỉnh núi cao ở khu vực Trung Quốc chảy về Việt Nam cùng
với hàng nghìn sơng, suối lớn nhỏ ghềnh thác dày đặc nên tiềm năng điện rất lớn. Tài
nguyên nước dồi dào, không chỉ đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh tế và dân sinh của tồn
vùng mà cịn chi phối sự phát triển tự nhiên của các vùng đồng bằng Bắc Bộ và Trung
Bộ [2]. Tài nguyên đất đai, khoáng sản giàu và phong phú: đất đai tương đối rộng, thổ
nhưỡng đa dạng, chứa đựng một số loại khống sản quan trọng như sắt (apatít), bơxít,
chì, kẽm, đa kim, đất hiếm, đá q, than đá...với trữ lượng khá lớn1<sub>. </sub>


<i><b>(3). Là địa bàn vùng núi cao, địa hình chia cắt nhiều tầng trên một nền địa chất</b></i>
phức tạp và sự phân hố khí hậu sâu sắc nên thiên nhiên Tây Bắc khá đa dạng với nhiều
tiểu vùng với các đặc trưng về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn (Tây Bắc Bộ, Tây
Thanh Hóa, Nghệ An)... Khí hậu vùng Tây Bắc mang tính lục địa rõ rệt và khá phức tạp,
<i>được chia làm hai mùa theo độ ẩm là: Mùa khô hạn kéo dài cộng với lượng gió Tây khơ</i>
<i>nóng gây khó khăn cho cây trồng và vật ni. Mùa mưa thường có gió lốc, mưa đá và lũ</i>
ống, lũ quét vào đầu mùa gây ra sự tàn phá bất thường đối với đất đai, sản xuất và đời
sống; từ tháng 12 đến tháng 1 thường xuyên có sương muối và băng giá. Khu vực này
cũng chịu tác động của những biến cố khí hậu ở miền núi mang tính chất cực đoan, trong
năm xuất hiện những hiện tượng, như: lạnh có tuyết, sương mù vào mùa Đông (Sa Pa,
Mẫu Sơn) và hiện tượng “phơn” mùa hạ làm nhiệt độ có khi lên trên 40o<sub>C. Biên độ nhiệt</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

độ trong ngày khá lớn, nhiều nơi khí hậu mang nhiều sắc thái ơn đới; bị phân hóa mạnh
theo khơng gian dưới tác động của các hệ thống hồn lưu gió mùa, nhiễu động nhiệt đới
và sự tương tác của địa hình. Sự phân hóa đó được thể hiện bởi sự khác biệt giữa phía
tây và đơng dãy Hồng Liên Sơn và Trường Sơn Bắc. Các hiện tượng mưa lớn tập trung
khi kết hợp với một số điều kiện thì xuất hiện lũ, lũ quét. Mùa khô thường xảy ra hạn
hoặc hạn hán kéo dài ngoài sức chịu đựng của cây cối [3].


<i><b>1.2. Tình hình kinh tế xã hội</b></i>



<i><b>(1). Về mặt hành chính, vùng Tây Bắc theo phạm vi chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Tây</b></i>
<i>Bắc gồm vùng diện tích của 12 tỉnh miền núi và trung du miền núi, gồm: Hà Giang, Lào</i>


<i>Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn,</i>
<i>Phú Thọ, Tuyên Quang và 22 huyện/thị phía tây của hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An</i>2<sub> (gồm</sub>
144 huyện/thị, 2564 xã/phường với tổng diện tích 107,761 km2<sub> chiếm 32,16% diện tích</sub>
phần đất liền với dân số trên 15 triệu người chiếm 17% dân số cả nước (trong đó chủ yếu
là dân số ở nơng thơn chiếm 83,7%). Đây là vùng rộng lớn, đất rộng người thưa nhưng
có vị trí địa - chính trị hết sức quan trọng, đóng vai trị “phên dậu” đối với an ninh quốc
gia. Trong lịch sử, Tây Bắc được xem là vùng đất có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng
“địa đầu” biên cương của Tổ quốc, che chắn cho trấn như “giậu” như “phên” án ngữ cho
châu làm “then” làm “chốt” và nơi đây cũng được coi là vùng đất “Tam Mãnh” qua Lào
vào Vân Nam và Hưng Hóa [4].


Hiện nay Tây Bắc có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh,
quốc phòng và trong quan hệ giao lưu quốc tế; là địa bàn chiến lược, vùng biên cương
trọng yếu của đất nước với gần 2600 km đường biên giới quốc gia tiếp giáp với Trung
Quốc và Lào với nhiều cửa khẩu thông thương giữa Việt Nam với các nước trong khu
vực và nhiều lối mở tiểu ngạch buôn bán giao thương nhỏ trên tuyến đường mòn xuyên
biên giới3<sub>. Khu vực biên giới Việt-Trung có cấu trúc địa hình tương đối phức tạp, độ</sub>
chia cắt lớn, thấp dần từ Tây sang Đông dẫn đến hệ thống sông suối nơi đây phần lớn có
xu hướng chảy từ Tây Bắc xuống Đơng Nam, ít có giá trị đối với giao thơng đường thủy.
Tùy theo mùa và từng đoạn, mực nước biến đổi thất thường (có khi xuống thấp hoặc
dâng cao), chảy mạnh gây bồi lở và đổi dịng dẫn đến biến đổi địa hình lịng sơng và ảnh


2 <i><sub> Các huyện phía tây Thanh Hóa là: Quan Hóa, Mường Lát, Thường Xuân, Như Thanh, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy,</sub></i>


<i>Quan Sơn, Bá Thước, Như Xuân, Lang Chánh, Thạch Thành. Các huyện phía Tây Nghệ An gồm: Quỳ Châu, Nghĩa</i>
<i>Đàn, Thị xã Thái Hòa, Tương Dương, Tân Kỳ, Thanh Chương, Quỳ Hợp, Kỳ Sơn, Con Cuông, Anh Sơn, Quế Phong</i>.



3 <sub> Đường biên giới Việt-Trung dài 1375/1494km gồm 6/7 tỉnh giáp biên của Việt Nam [Hà Giang (274 km), Lai</sub>
Châu (273 km), Lào Cai (203,5 km), Điện Biên (38,5km), Lạng Sơn (253 km), Cao Bằng (333.403 km)] với tỉnh Vân
Nam, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung Quốc. Đường biên giới Việt-Lào dài 1221/2340km trải dài suốt
4/10 tỉnh của Việt Nam [Điện Biên (360km), Sơn La (250 km), Thanh Hóa (192 km), Nghệ An (419,5km), tiếp giáp với
5 tỉnh Phông Sa Lỳ, Luông Pha Băng, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm Xay của Lào. Khu vực Tây Bắc có nhiều
<i>cửa ngõ thơng thương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực như: 1/ Cửa khẩu quốc tế có, Đường bộ: </i>Tà Lùng,


Móng Cái, Hữu Nghị, Lào Cai, Thanh Thủy, Tây Trang, Na Mèo, Nậm Cắn<i>. Đường sắt: </i>Đồng Đăng, Lào Cai. 2/ Cửa
khẩu quốc gia: Hồnh Mơ, Bình Nghi, Chi Ma, Lý Vạn, Hạ Lang, Pị Peo, Trà Lĩnh, Sóc Giang, Săm Pun, Phó Bảng,


Xín Mần, Mường Khương, Ma Lù Thàng, Huổi Pơc, A Pa Chải, U Ma Tu Khồng, Chiềng Khương- Sông Mã, Nà Cài,


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

hưởng đến việc lưu thông qua lại [5]. Phần lớn tuyến biên giới Việt-Lào đều đi qua đỉnh
hoặc triền núi và qua rừng rậm nhiệt đới với độ cao trung bình hoặc cao (nơi thấp nhất
khoảng 300m, cao nhất khoảng 2700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung bình
khoảng 500m, có nơi trên 1000m so với mực nước biển). Dãy núi cao Pu Xam Sẩu từ A
Pa Chải trải dài hình thành một đường biên giới tự nhiên giữa hai nước; một số đèo đã
trở thành các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên các đoạn biên giới khác, hầu hết là núi
non hiểm trở, giao thông đi lại rất khó khăn [6].


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trên vùng Tây Bắc, đồng bào các dân tộc anh em cùng sinh sống gắn bó lâu đời,
có truyền thống u nước, đồn kết, kiên cường chống ngoại xâm; có ý thức trong lao
động, sản xuất, vươn lên thốt khỏi đói nghèo và quyết tâm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc;
sáng tạo và lưu giữ nhiều giá trị văn hóa. Văn hóa các tộc người vùng Tây Bắc khá
phong phú, đa dạng và giàu bản sắc, gắn liền với quá trình tụ cư lâu đời của cư dân từ
nhiều nguồn và thời điểm khác nhau, được thể hiện trên các khía cạnh về nhà cửa, trang
phục, ẩm thực, quan hệ gia đình và cộng đồng, các hình thức tổ chức xã hội, phong tục
tập quán, lễ hội, trang phục, nhạc cụ, các điệu dân ca, dân vũ...Mỗi nhóm dân tộc đều có
nền văn hố riêng biệt, giàu có và độc đáo và hợp thành một khơng gian văn hóa rộng


lớn với nguồn tài ngun văn hóa nhân văn to lớn và phong phú, đặc biệt là kho tàng tri
thức bản địa và tiềm năng văn hóa phi vật thể đặc sắc của đồng bào các dân tộc.


Sản xuất nơng nghiệp mang tính tự cung tự cấp và tương đối khép kín là hoạt
động kinh tế chủ yếu của hầu hết đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc với nghề
trồng lúa nương (刀 刀 刀 刀 đao canh hỏa chủng) và ruộng nước (刀 刀 刀 刀 đao canh thủy


<i>nậu), ngoài ra họ còn trồng rau màu hoặc săn bắn, đánh cá, hái lượm và sống bán du</i>


mục, thực hiện nhiều hình thức chiếm đoạt các nguồn lợi tự nhiên sẵn có trong rừng
quanh khu vực cư trú. Mặc dù nông cụ sản xuất thô sơ nhưng họ đã sớm canh tác lúa
trên ruộng ngập nước và tiến hành tưới tiêu, một số dân tộc biết các kỹ thuật canh tác
tiến bộ và khá thành thục (Mường, Thái, Dao..). Ngoài ra, họ cịn chăn ni gia súc, gia
cầm hoặc thủy sản theo hộ gia đình, làm một số nghề thủ cơng gia đình (như dệt vải, đan
lát, làm mộc, làm rèn, chế tác kim loại làm trang sức, làm giấy dó, ép dầu); một bộ phận
đồng bào cư trú suốt dọc tuyến biên giới buôn bán tiểu ngạch. Tập quán trồng trọt ở mỗi
tộc người tại các vùng thung lũng, vùng rẻo giữa và vùng cao vẫn có những nét riêng
biệt bởi những cách làm ăn này đã tồn tại qua hàng nghìn năm canh tác của họ. Trao đổi
hàng hố là nhu cầu thiết yếu đã có từ lâu đời của các dân tộc thiểu số: họ thường cùng
nhau họp chợ tại trung tâm xã, huyện hoặc ngay ven đường cái. Do các tộc người đều cư
trú ở vùng sâu vùng xa nên họ chỉ họp chợ 5 ngày (hoặc 1 tuần)/1 lần (chợ phiên), là một
nét đặc trưng văn hóa vùng cao[3].


Ngồi ra, Tây Bắc cịn được đặc trưng bởi một địa bàn dân cư và khu vực hành
chính đặc biệt của vùng biên giới Việt-Trung và Việt-Lào. Đây cũng là địa bàn cư trú
chủ yếu của người dân tộc thiểu số thuộc các nhóm ngơn ngữ Tày-Thái, Tạng-Miến,
H’Mông-Dao và Hán. Một trong những đặc điểm nổi bật của dân cư vùng biên giới4<sub> là</sub>
sự cư trú xen kẽ cài răng lược của nhiều tộc người cùng cộng cư trong q trình lịch sử
lâu dài; có mối quan hệ gần gũi về thân tộc, kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

quán lâu đời. Các làng bản cư trú sát biên giới và tạo thành các quần thể dân cư đông
đúc (nhất là dọc các triền núi hoặc các con sơng lớn) có chung nguồn gốc, tương đồng về
ngôn ngữ, phong tục tập quán và đặc biệt là cư trú trong một khu vực địa lý cận kề,
người dân sống thưa thớt tại các làng bản rất xa nhau ở khu vực biên giới, đời sống vật
chất và tinh thần còn nhiều thiếu thốn và lạc hậu. Đặc biệt, nhiều dân tộc sinh sống trên
đất nước ta có nguồn gốc từ Trung Quốc tới cư trú ở Việt Nam vào những thời kỳ lịch sử
khác nhau nên phần lớn các dân tộc thiểu số của cả hai nước đều có những mối quan hệ
khá sâu sắc về lịch sử, văn hóa (kể cả nguồn gốc tộc người)5<sub>. Với nhiều tộc người, quan</sub>
hệ tộc người xuyên biên giới đã trở nên một hiện tượng dân tộc học lịch sử rõ rệt và có
sức sống lâu bền cho đến hơm nay.


Do đặc điểm văn hóa, điều kiện lịch sử, phần lớn các tộc người cư trú xen kẽ dọc
các tuyến biên giới Việt-Trung đều có mối quan hệ thân tộc khá mật thiết, gần gũi và
gắn bó với đồng tộc của họ ở bên kia biên giới6<sub>. Do khoảng cách địa lý tại khu vực biên</sub>
giới chỉ cách nhau một cây cầu, một con suối hay lối mòn nên họ dễ dàng qua lại thăm
thân, cùng tham dự các nghi lễ tộc người hoặc mua bán, trao đổi hàng hóa với nhau từ
đó mạng lưới xã hội ln được mở rộng [8, 98-99]. Trong đó, những hoạt động thăm
thân diễn ra thường xuyên và là tập quán quen thuộc của đồng bào các dân tộc vùng biên
(phổ biến nhất là đi dự các đám cưới, đám tang, các nghi lễ cúng của gia đình và dịng
họ). Văn hóa vùng biên gần như đã vượt qua giới hạn của nhà nước, của biên giới về
lãnh thổ, địa lý, không chỉ kết nối con người và các thiết chế trong nội bộ một đất nước
mà còn gắn kết với những đất nước khác. Vì vậy, hiện tượng hôn nhân xuyên biên giới
(HNXBG) xảy ra khá phổ biến ở khu vực biên giới Tây Bắc, nhất là ở các vùng biên giới
có dân số đơng, cư trú liền sát với đường biên giới [9, tr.49].


<i><b> (3) Tóm lại: Tây Bắc nổi tiếng với đặc trưng về địa hình, khí hậu, địa chất, hệ</b></i>
sinh thái, tài ngun thiên nhiên đa dạng và phong phú; tiềm năng đất đai, rừng, nguồn
nước, hệ sinh thái của Tây Bắc được xếp vào tốp đứng đầu trong 8 vùng kinh tế của cả
nước). Đây là vùng có đặc trưng sắc thái văn hóa của các tộc người riêng biệt và đặc
hữu, sở hữu nguồn tài nguyên văn hóa to lớn, quý báu và kinh tế xã hội rất đặc thù đồng


thời là vùng đất lịch sử thiêng liêng, giàu truyền thống yêu nước và giá trị văn hóa - lịch
sử. Khơng chỉ là nơi có tiềm năng lớn phát triển ngành cơng nghiệp khai thác và chế
biến khống sản, kinh tế nơng - lâm - ngư, dịch vụ - thương mại và kinh tế; Tây Bắc còn
được thiên nhiên ban tặng một vùng cảnh quan kỳ vĩ, hiểm trở với nhiều danh lam thắng


5 <sub>Có khoảng trên 20 dân tộc thuộc các nhóm ngơn ngữ Tày-Thái, H’Mơng-Dao, Tạng-Miến sinh sống tại các</sub>
<b>tỉnh biên giới phía Bắc có quan hệ lịch sử với đồng tộc ở bên kia đường biên. Người H’Mông là một nhóm dân tộc có</b>
<b>địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc tiểu vùng Đông Nam Á là Lào, Việt Nam, Thái</b>
<b>Lan và Myanmar[7].</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cảnh nổi tiếng và điểm nhấn du lịch lý tưởng đối với du khách. Vị trí biên cương với
nhiều của ngõ giao lưu quốc tế là điều kiện và cơ hội lớn để Tây Bắc đẩy mạnh thương
mại quốc tế, tiến tới xây dựng khu vực này thành địa bàn trung chuyển chính trên tuyến
đường xuyên Á phía Bắc, nối liền vùng Tây Bắc Việt Nam với khu vực Bắc Lào-Tây
Nam Trung Quốc, Đông Bắc Myanma và trực tiếp giao lưu với các lục địa rộng lớn phía
tây nam Trung Quốc. Là vùng đất địa đầu có vị trí chiến lược về quốc phịng, an ninh
chính trị và trật tự, tơn giáo tín ngưỡng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia với tiềm
năng, ưu thế to lớn để phát triển triển kinh tế - xã hội cũng như phát triển mọi ngành
nghề, lĩnh vực7 <sub>và sở hữu nguồn tiềm năng có sức hấp dẫn, thu hút rất lớn đối với du</sub>
lịch, Tây Bắc đang là điểm đến làm ăn của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.


Bên cạnh những thuận lợi như trên, điều kiện tự nhiên của Tây Bắc cũng có nhiều
khó khăn, cản trở và tác động bất lợi đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân. Do địa
hình phức tạp, bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu - sinh thái
đặc thù thích hợp với nhiều loại cây trồng và cho phép phát triển một nền sản xuất
nông-lâm nghiệp phong phú, phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng nhiệt đới và ôn đới, các
loại rau, củ, quả vùng cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của điều kiện địa lý tự nhiên (địa
hình sự đa dạng, đất đai chủ yếu là đồi núi cao dốc, diện tích canh tác nhỏ hẹp và chiếm
tỷ lệ rất thấp, khí hậu vùng núi cao thay đổi thường xuyên và chịu tác động trực tiếp của
gió mùa, bão, lũ...) nên sản xuất khu vực này kém phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến


sinh kế của người dân và phát triển kinh tế của vùng...Đặc điểm địa hình nơi đây cũng
tạo ra sự manh mún đất trong sản xuất nông nghiệp và nảy sinh một số hiện tượng tai
biến như: động đất, nứt đất, rửa trơi, xói mịn sạt lở đất và lũ qt trong mùa mưa, có ảnh
hưởng lớn đến việc giao lưu phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư phát triển hệ thống hạ
tầng giao thông. Với điều kiện khí hậu cộng với điều kiện địa hình như trên, Tây Bắc
được xem là vùng có điều kiện cực khó khăn về giao thông, canh tác nông nghiệp (chăn
nuôi và trồng trọt một số loại cây lương thực quan trọng), lâm nghiệm vào loại nhất cả
nước (an ninh lương thực ln trong tình trạng báo động). Sự phân bố dân cư thưa cũng
làm cho hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo, chương trình 30a và các chương
trình mục tiêu quốc gia nói chung. Sự chia cắt của địa hình khơng chỉ làm cho khu vực
này thiếu đất và khơng gian để canh tác mà cịn biến nơi đây thành các tiểu vùng tương
đối độc lập nhau, do đó giao lưu kinh tế, văn hóa liên tiểu vùng và xuyên vùng không
phát triển dẫn đến hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội của tồn vùng được xếp vào loại
thấp nhất cả nước. Đồng thời, những khó khăn về phong tục, cách thức làm ăn truyền
thống, ngôn ngữ, tập qn văn hố đa dạng...cũng là rào cản khơng nhỏ với sự phát triển


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

của Tây Bắc. Là khu vực miền núi có những đặc trưng riêng khơng thấy ở nơi nào khác
trên đất nước nhưng Tây Bắc cũng là địa bàn nghèo, xa xơi, địa hình hiểm trở, nhiều
điểm đến khó tiếp cận, một số địa phương cịn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển
kinh tế-xã hội [2].


<i><b>1.3. Tây Bắc trong tiến trình đổi mới đất nước</b></i>


<i>(1). Những thành tựu chủ yếu</i>


<b>Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong những năm qua, các tỉnh</b>
vùng Tây Bắc đã có bước chuyển biến về mọi mặt. Kinh tế nông - lâm và thủy sản phát
triển ổn định, trở thành điểm nhấn trong bức tranh kinh tế của Tây Bắc. Nhờ đó, đã ổn
định đời sống, an ninh trật tự của vùng với 83% cư dân nông thôn, hơn 80% lao động
trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Cùng với việc khai thác tối đa tiềm năng đất


trồng cây lương thực kết hợp với việc sử dụng giống mới, đẩy mạnh thâm canh, tăng
năng suất, nên an ninh lương thực trong toàn vùng cơ bản đã được đảm bảo. Các vùng
chuyên canh tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm tiếp tục phát triển và mang
lại hiệu quả khá cao. Nông - lâm - ngư nghiệp của vùng đã bắt đầu phát triển theo hướng
sản xuất hàng hoá. Mặc dù thu hút đầu tư nước ngồi cịn khiêm tốn, nhưng đã từng
bước hình thành nên các khu cơng nghiệp ở các địa phương trong vùng, sản xuất công
nghiệp từ các địa phương đang có lợi thế và đi vào chính quy tập trung. Cơng nghiệp
khai khống và chế biến cũng phát triển khá mạnh; công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản gắn với phát triển vùng nguyên liệu phát triển nhanh, đang tạo vị thế mới cho
đầu tư, kinh doanh nông, lâm nghiệp. Lĩnh vực thương mại, dịch vụ của khu vực Tây
Bắc đã có những nét chấm phá, những khởi sắc gắn với kinh tế biên mậu, kinh tế cửa
khẩu phát triển rất nhanh (nhất là các cửa khẩu của Lạng Sơn, Lào Cai); du lịch đã có
những bước đột phá. Tăng trưởng kinh tế hàng năm toàn vùng luôn ở mức 10% trở lên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ, chăm sóc sức khoẻ trẻ em... Việc phát triển giáo dục cho</i>


vùng đồng bào dân tộc ít người đã đạt được nhiều thành tựu về quy mơ, mạng lưới
trường học đã phủ kín đến thơn bản. Chất lượng giáo dục có nhiều chuyền biến tích cực,
góp phần cải thiện đáng kể trong việc nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc thiểu
số. Quy mơ nhân lực của vùng có xu hướng gia tăng cả về số lượng và tỷ trọng trong cơ
<i>cấu lực lượng lao động cả nước, nguồn nhân lực đã qua đào tạo cũng tăng dần. Bình</i>


<i>quân trong khu vực Tây Bắc các xã đã đạt 7,5% tiêu chí nơng thơn mới, tăng 3,8 tiêu chí</i>
<i>so với năm 2010. Số xã đạt 19 tiêu chí là 27 xã, chiếm 1,2% tổng số xã trong vùng,</i>
<i>trong đó có 13 xã được công nhận. Trong số các tỉnh vùng Tây Bắc, Phú Thọ và Hịa</i>
<i>Bình là hai tỉnh có mức đạt tiêu chí bình qn cao nhất, lần lượt đạt 9,72 và 9,38 tiêu</i>
<i>chí. Về lĩnh vực xã hội, xóa đói giảm nghèo các tỉnh vùng Tây Bắc đã đạt được tốc độ</i>
<i>giảm nghèo tương đối cao. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong vùng Tây</i>
<i>Bắc đã được cải thiện hơn: thu nhập bình quân đầu người của cả vùng đã tăng 35%, tỷ</i>
<i>lệ hộ nghèo giảm 8% so với trước[2]. Thực hiện chủ trương phát triển mọi mặt đời sống</i>



người dân, xây dựng nếp sống văn hóa mới, với sự vào cuộc của các cấp/ngành, nhiều
hủ tục lạc hậu đã từng bước bị đẩy lùi ra khỏi đời sống của đồng bào các dân tộc trên địa
bàn miền núi; nhiều nét đẹp văn hóa mang bản sắc của vùng núi Tây Bắc vẫn được tiếp
nối và phát huy. Mặc dù có xuất phát điểm thấp, khó khăn hơn nhiều vùng trong cả nước
nhưng vùng Tây Bắc đã có những chuyển biến quan trọng, bức tranh kinh tế - xã hội của
các tỉnh trong vùng đã có những khởi sắc và thành tựu tích cực và sinh động. Một cuộc
sống mới, tiến bộ, phát triển đang dần hiện hữu ở từng bản làng vùng cao nơi đây.


<i><b>(2). Những tồn tại, hạn chế</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Các chương trình, dự án giảm nghèo triển khai thực hiện chưa đồng bộ, thiếu vốn đầu tư,
chính sách cịn chồng chéo, bất cập, người nghèo còn tập trung chủ yếu tại địa bàn vùng
cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kết cấu hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ
cách mạng vẫn cịn khó khăn, nhiều nơi mơi trường sinh thái tiếp tục bị suy thoái. Vùng
đồng bào dân tộc miền núi, biên giới có địa hình rừng núi hiểm trở, kinh tế chậm phát triển,
khoảng cách chênh lệch về mức sống, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân
tộc và các vùng ngày càng gia tăng. Chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo cịn thấp, tình
hình y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số vẫn cịn nhiều khó khăn,
thiếu thốn (tập trung vào một số lĩnh vực, như: cơ sở hạ tầng còn yếu, nguồn nhân lực y
bác sĩ cịn thiếu). “Ở bậc học phổ thơng, số lượng học sinh theo học của vùng Tây Bắc
có gia tăng qua các năm, song hầu hết tập trung tại bậc tiểu học, số học sinh theo học
trung học cơ sở và trung học phổ thơng ít. Học sinh tiểu học chiếm hơn 50% trong số
lượng học sinh của vùng. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông của các tỉnh Tây Bắc
thuộc nhóm thấp nhất trong cả nước và có xu hướng giảm. Ở các cấp học cao hơn như
đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề, số lượng sinh viên theo học tại vùng Tây Bắc
là rất ít và hầu hết theo học tại các trường công lập. Đây là thực trạng chung của các
vùng khó khăn và có sự cách trở về địa lý như Tây Bắc. Nguồn nhân lực mỏng và ít
được đào tạo, cịn những khoảng cách lớn so với các vùng khác trong cả nước (nhiều
tỉnh Tây Bắc xếp vị trí cuối cùng trong chỉ tiêu về chất lượng lao động so với các tỉnh


khác trong cả nước)[11]8<sub>. Đây là một thách thức lớn đối với các tỉnh vùng Tây Bắc trong</sub>
vấn đề đào tạo nghề và nâng cao chất lượng lao động trong tương lai”. Hệ thống chính trị
cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu, trình độ và năng lực của một
bộ phận cán bộ cơ sở còn hạn chế, yếu kém. Hoạt động của cấp ủy, chính quyền, mặt trận
và đồn thể ở nhiều nơi chưa sát dân, chưa tập hợp được đồng bào. Tình hình kinh tế - xã
hội, an ninh trật tự của khu vực Tây Bắc cũng có những yếu tố phức tạp mới nảy sinh.
Một số bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc thiểu số đang bị mai một, một số
tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển và cuộc đấu tranh xóa bỏ tập
quán lạc hậu, xây dựng văn hóa mới vẫn đang tiếp tục. Vấn đề quản lý các mối quan hệ
dân tộc xuyên biên giới Việt-Trung, trong đó có mối quan hệ thân tộc cũng đang đặt ra
nhiều vấn đề nóng, liên quan chặt chẽ đến sự ổn định phát triển xã hội và an ninh biên
giới; nhất là việc giải quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong
vùng. Do ảnh hưởng của tập quán nên tình hình di cư tự do của người H’Mơng vẫn cịn
dai dẳng, việc di dân theo mùa vụ sang Quảng Tây để tìm kiếm việc làm và thu nhập của
người Tày, Nùng; quan hệ của người Hà nhì ở Bát Xát (Lào Cai) với đồng tộc bên kia
biên giới...nên số lượt người qua lại đường biên giới với tần suất ngày càng gia tăng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Bên cạnh những yếu tố tích cực như tương trợ giúp nhau tìm việc làm, thắt chặt mối
quan hệ gia đình, họ hàng thì các mối quan hệ thân tộc cũng tạo ra một mạng lưới ngầm
của các tội phạm phi truyền thống vùng biên giới (như mua bán, bắt cóc phụ nữ, trẻ em,
lao động vượt biên trái phép, buôn bán hàng cấm…). Nhiều vấn đề xã hội cũng đang nảy
sinh bởi các cuộc kết hôn xuyên biên giới như việc quản lý hôn nhân, vấn đề hỗ trợ pháp
lý; vấn đề tội phạm cưỡng ép, lừa bán người có mục đích hơn nhân xun biên giới.
Hiện tượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với đàn ông Trung Quốc hay các trường hợp kết
hôn qua lại ở các vùng biên giới Việt- Trung, Việt-Lào khá phổ biến. Tuy nhiên, hầu hết
các cuộc hôn nhân “xuyên biên giới” khơng đăng ký với chính quyền địa phương, nhất
là ở vùng biên giới đã dẫn đến những khó khăn, khó kiểm sốt về quản lý xã hội và tạo
ra những bất ổn định về an ninh trật tự và phát triển xã hội vùng biên giới[9, tr.55-56].
Ngồi ra, tình trạng vượt biên trái phép tìm việc làm, đi lại thăm thân không thực hiện
các quy định an ninh biên giới, bn bán, bắt cóc phụ nữ trẻ em, bn bán ma túy, buôn


hàng trốn thuế dựa vào các mối quan hệ đồng tộc, thân tộc, gia đình có người thân kết
hôn ở bên kia biên giới đang là những vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến an ninh
vùng biên giới, đặc biệt là vùng biên giới Việt-Trung.


Đặc biệt, một trong những tệ nạn xã hội điển hình của Tây Bắc là vấn đề trồng
<i>cây thuốc phiện, vấn đề nghiện hút của đồng bào thiểu số và buôn bán ma tuý đang tồn</i>
tại và có chiều hướng gia tăng, là vấn đề nhức nhối của khu vực9<sub>. Các tỉnh có trồng cây</sub>
thuốc phiện có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng
nhưng sản xuất và đời sống, cơ sở hạ tầng còn rất thấp kém và lạc hậu; ở địa bàn đặc biệt
khó khăn giao thơng vận tải rất khó khăn, sản xuất nơng nghiệp mang nặng tính chất tự
cấp, tự túc10<sub>. Vì vậy, việc xóa bỏ cây thuốc phiện, thay thế bằng các giống cây trồng, vật</sub>
nuôi khác được xem là một trong những biện pháp kiểm soát hiệu quả nguồn cung,
chống thất thoát tiền chất để sản xuất ma túy tổng hợp; góp phần phịng chống ma túy và
ngăn chặn nguồn cung ma túy trong nước...Tuy nhiên, với đặc thù địa bàn cùng với
những phong tục tập quán lạc hậu chưa được xóa bỏ triệt để nên mặc dù biết được hành
vi trồng cây thuốc phiện là vi phạm pháp luật nhưng một một bộ phận đồng bào dân tộc
thiểu số (H’Mơng, Dao, Hà nhì...) ở vùng cao hoặc các bản sát biên giới vẫn lén lút tái
trồng và ngày càng mở rộng diện tích cây thuốc phiện ở các đám nương, rẫy. Chính
quyền các tỉnh miền núi, các xã biên giới đã tăng cường vận động, đã bỏ khơng ít cơng


9 <sub>Người dân ở đây có tập quán trồng cây thuốc phiện và hút thuốc phiện từ lâu đời nên đối tượng nghiện truyền</sub>


thống nhiều. Hiện nay các tỉnh Tây Bắc có 29.000 người nghiện có hồ sơ quản lý, ở mức cao so với cả nước (chiếm
14,3% , cũng là nguyên nhân làm tăng lượng cầu về ma túy, gây mất ổn định về trật tự xã hội ; có tỷ lệ người nghiện trên
100.000 dân cao gấp 10 lần bình quân chung của cả nước. Theo số liệu gần đây, trong 10 tỉnh có tỷ lệ người nhiễm HIV cao nhất
nước, thì có tới 5 tỉnh thuộc địa bàn vùng dân tộc và miền núi [12]<i>. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

sức và tiền của cho các đợt ra quân tuyên truyền bà con các dân tộc không trồng cây anh
túc (thuốc phiện), cương quyết phá, nhổ những nương rẫy có trồng lồi hoa độc này,
song tình hình vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp: diện tích phát hiện, phá nhổ hàng năm tuy


có giảm nhưng vẫn cịn nhiều, diện tích tái trồng cây thuốc phiện năm sau vẫn cao hơn
năm trước, “cuộc chiến” phá, nhổ cây thuốc phiện vẫn gian nan.


<i><b>2. Tình hình tội phạm xuyên quốc gia và những tác động, ảnh hưởng của yếu</b></i>
<i><b>tố kinh tế-xã hội ở Tây Bắc </b></i>


Thời gian qua, tình hình tội phạm xuyên quốc gia (TPXQG) tại Tây Bắc diễn biến
rất phức tạp và thậm chí nóng bỏng, tiêu biểu là những loại tội phạm như sau:


<i><b>(1). Tội phạm ma túy</b></i>


Nguồn ma túy (gồm heroin, thuốc phiện và ma túy tổng hợp) chủ yếu từ nước
ngoài nhất là từ khu vực “Tam giác vàng” vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác
nhau và khu vực Tây Bắc được xem là “chảo lửa”, luôn là điểm nóng về hoạt động bn
bán trái phép chất ma túy. Đặc biệt, tuyến đường biên giới Việt-Lào nổi lên là một trong
những địa bàn nóng bỏng, phức tạp nhất về hoạt động tội phạm ma túy. Tại khu vực này,
luôn tồn tại các đường dây lớn buôn bán ma túy xuyên quốc qua từ Lào vào Việt Nam và
tiếp tục vận chuyển sang các nước thứ ba qua các tuyến biên giới đường bộ, hàng không
hoặc đường biển [12]11<sub>. Các đối tượng phạm tội thường cấu kết thành những đường dây</sub>
mua bán, vận chuyển ma tuý lớn tổ chức khép kín do các thành viên trong cùng một gia
đình hoặc dịng tộc (bố mẹ, vợ chồng, con, anh em thân tộc...) ở hai bên biên giới thực
hiện; những đối tượng khác khi tham gia vào đường dây đều được thử thách, kiểm tra rất
kỹ. Hầu hết các đường dây ma túy đều có sự móc nối, câu kết chặt chẽ giữa các đối
tượng người nước ngoài (quốc tịch Lào, Thái, Mỹ, Trung Quốc...), người dân tộc thiểu
số ở khu vực giáp biên giới và các đối tượng ở các tỉnh dưới xi; có sự phân cơng, phân
cấp rõ ràng, tạo thành đường dây khép kín mua bán heroin từ các tỉnh biên giới Việt-Lào
vào các tỉnh nội địa. Các băng nhóm tội phạm ma túy thường chọn địa điểm ở gần biên
giới hoặc thường xuyên qua lại khu vực để hoạt động hoặc chọn rừng sâu hiểm trở nơi
biên giới làm sào huyệt. Các đối tượng ở bên kia biên giới lợi dụng các mối quan hệ dân
tộc, thân tộc, dịng họ... tìm cách móc nối với các đối tượng ở nội biên để vận chuyển ma



11 <sub>Một số địa danh nổi tiếng là điểm nóng trên "bản đồ ma túy" ở phía Bắc thuộc các tỉnh Sơn La, Điện Biên…</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

túy vào Việt Nam tiêu thụ. Trong số các đối tượng phạm tội ma túy tại khu vực giáp biên
giới Việt-Lào, một số đông người dân tộc thiểu số (người H’Mơng, Tày, Dao...) đóng vai
trị là người mơi giới, cảnh giới, vận chuyển, đầu mối tập kết ma túy tại khu vực biên
giới; đưa đường dẫn lối cho các đối tượng người Lào xâm nhập qua biên giới hoặc đứng
ra làm làm đại lý nhằm cung cấp ma túy cho người nghiện tại địa bàn. Các đối tượng
Lào móc nối với người Việt Nam, tổ chức thành các nhóm, tốp có trang bị vũ khí nóng,
vận chuyển ma túy từ Lào và tập kết ở các khu vực biên giới Việt Nam.


Thủ đoạn mua bán, vận chuyển ma tuý của các đối tượng rất tinh vi, lọc lõi, xảo
quyệt và cực kỳ manh động. Chúng triệt để khai thác sự thông thương tại các cửa khẩu
cũng như việc qua lại thuận tiện giữa hai nước qua các đường mòn tiểu ngạch để vận
chuyển ma túy từ Lào vào Việt Nam. Nhiều trường hợp, các đối tượng phạm tội không
đi qua cửa khẩu chính mà lợi dụng địa hình đồi núi hiểm trở, đặc biệt là các đường mòn
tiểu ngạch tuyến biên giới đường bộ để mua bán, vận chuyển và tập kết ma túy tại các
khu vực sát biên giới, móc nối với các đối tượng ở nội địa để tuồn hàng vào nội địa Việt
Nam tiêu thụ với số lượng lớn hay vận chuyển “hàng” đến các vùng phụ cận để cất giấu,
bán lẻ. Các đối tượng phạm tội cũng tìm mọi cách để vơ hiệu hóa vai trị của lực lượng
chức năng ở cơ sở, hoặc lơi kéo cán bộ cơ sở (xã, bản) tham gia mua bán, vận chuyển
ma túy. Ma túy là thứ hàng "siêu lợi nhuận" nên các đối tượng cực kỳ liều lĩnh khi bị tấn
công, sẵn sàng chống trả lực lượng chức năng khi bị phát hiện, bắt giữ, giải cứu đồng
bọn hoặc tự sát để bịt đầu mối.


<i><b>(2). Tội buôn người</b></i>


Những năm qua, tình hình mua bán người qua biên giới diễn ra rất phức tạp, xảy
ra ở vùng Tây Bắc và hầu hết trên các địa phương trong cả nước12<sub>. Ở vùng biên giới Việt</sub>
-Trung, bọn tội phạm đã tổ chức nhiều đường dây mua bán người, đưa phụ nữ, trẻ em từ


các tỉnh phía Bắc lừa bán sang Trung Quốc. Ở nhiều địa phương (Lạng Sơn, Cao Bằng,
Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Nghệ An...) đã hình thành các đường dây chiếm
đoạt, bắt cóc lừa bán phụ nữ, trẻ em, mua bán trẻ sơ sinh, trẻ trong bào thai, mua bán đàn
ông... để đưa người sang Trung Quốc để bán nội tạng, đẻ thuê hoặc cưỡng bức lao động.
Do nắm bắt được nhu cầu của một bộ phận nam giới ở nước ngồi có nhu cầu kết hôn,
một số đối tượng tội phạm (người Việt Nam, Trung Quốc) lợi dụng các cuộc hôn nhân
xuyên biên giới để buôn bán phụ nữ và trẻ em gái (có hồn cảnh kinh tế, gia đình khó
khăn), thực hiện các hành vi cưỡng ép, lừa bán các cô gái bán dâm hoặc làm vợ bất hợp
pháp[8, 99]. Một số người do khó khăn về kinh tế đã móc nối với bên kia để đưa con,
cháu, thậm chí cả vợ sang Trung Quốc. Vì lợi nhuận bất chính nên nhiều người sau khi
sang lấy chồng ở Trung Quốc đã trở về địa phương dụ dỗ, lợi dụng những người quen
biết, người thân trong gia đình, dịng tộc để vận chuyển, phụ nữ và trẻ em gái qua đường


12 <sub>Theo thống kê, tình hình tội phạm mua bán người ở Việt Nam chủ yếu để đưa ra nước ngoài bán chiếm 85%,</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

biên giới để bán cho các gia đình Trung Quốc lấy làm vợ. Nguy hiểm hơn, ở một số nơi
miền núi, giáp biên giới, dân cư thưa thớt, đối tượng còn đột nhập vào nhà dân chiếm
đoạt, bắt cóc trẻ em, phụ nữ đưa sang Trung Quốc bán[14].


<i><b> (3). Tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản </b></i>


Thời gian qua, một số đối tượng người nước ngoài (người Trung Quốc) thực hiện
hành vi lừa đảo với hàng loạt chiêu thức, thủ đoạn (như: gọi điện thoại giả danh, kết bạn
qua mạng xã hội rồi lừa đảo, giả chương trình khuyến mãi nạp thẻ,…) để chiếm đoạt tài
sản (tiền) của bị hại là người Việt Nam. Để có tài khoản ép buộc nạn nhân chuyển tiền
vào, các đối tượng chủ mưu thường thuê những người lao động (“cửu vạn”) ở khu vực
biên giới về các vùng quê (nơi người dân ít giao dịch với ngân hàng) để mua thơng tin
thẻ tín dụng bằng cách hướng dẫn họ tới ngân hàng mở tài khoản thẻ tín dụng, sau đó
bàn giao thẻ và tồn bộ thơng tin tài khoản cho các đối tượng (mỗi thẻ tín dụng được bán
với giá từ 1-2 triệu đồng/thẻ). Khi có nạn nhân chuyển tiền, các đối tượng sử dụng thẻ


tín dụng mua được trực tiếp đi rút tiền. Gần đây, các đối tượng tội phạm đã thay đổi thủ
đoạn lừa đảo bằng cách thuê một số người Việt (chủ yếu là người dân tộc thiểu số sống ở
khu vực biên giới) mở tài khoản cá nhân để các bị hại chuyển tiền vào rồi chiếm đoạt.
Mỗi khi có nạn nhân chuyển tiền vào tài khoản, các đối tượng chủ mưu thuê người
Trung Quốc sang Việt Nam qua đường tiểu ngạch, “ốp” chủ tài khoản người Việt Nam
ra ngân hàng làm thủ tục rút tiền rồi nhanh chóng mang về nước hoặc thuê người Việt
Nam làm ăn, buôn bán tại khu vực biên giới đi nhận tiền rồi mang sang Trung Quốc cho
chúng hoặc hẹn chủ tài khoản mang tiền đến các khu vực giáp ranh biên giới 2 nước để
giao nhận (tiền công mà các chủ tài khoản nhận được khoảng 1% trên tổng số tiền của
các nạn nhân chuyển vào). Ngồi ra, bọn tội phạm cịn sử dụng những thủ đoạn khác
như: giả danh các cơ quan pháp luật gọi điện thoại đe dọa, lừa đảo người dân chuyển
tiền vào tài khoản để lừa đảo, chiếm đoạt tiền của người bị hại; hoặc tung thông tin giả
nhằm lừa gạt một số người nhẹ dạ để chiếm đoạt tiền…


<i><b> (4). Tội sản xuất, buôn bán tiền giả; buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất</b></i>
<i><b>và vận chuyển hàng giả</b></i>


<i><b>- Tội sản xuất, buôn bán tiền giả, hàng giả: gồm các hành vi sản xuất, tàng trữ,</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

vào Việt Nam để rút tiền)13<sub>. Các đối tượng người Trung Quốc thường móc nối với đối</sub>
tượng người Việt Nam ở khu vực biên giới để tạo đường dây vận chuyển, lưu hành tiền
giả, sử dụng tiền giả đi mua bán hàng hóa hoặc đánh bạc để đổi lấy tiền thật. Các đối
tượng mua bán, vận chuyển tiền giả cũng mua tiền giả của nhiều đối tượng người Trung
Quốc khác nhau, là người không quen biết, không biết tên và địa chỉ, giao dịch và nhận
“hàng” qua các đối tượng khác nhau14<sub>. Lợi dụng các đường mòn, lối tắt trên biên giới,</sub>
bọn tội phạm thường xuyên vận chuyển, mua bán tiền Việt Nam giả từ Trung Quốc rồi
<b>vận chuyển về Việt Nam (thậm chí chúng chuyển thẳng qua biên giới Việt-Lào để về</b>
Nghệ An) tiêu thụ với rất nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm che giấu hành vi vi phạm pháp
<b>luật. Do nhận thức được hành vi phạm tội và sợ bị phát hiện, bắt giữ nên các đối tượng</b>
thường lôi kéo người thân vào đường dây tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả. Đặc


biệt, vào những thời điểm cuối năm và Tết Nguyên đán, hoạt động của các đối tượng sản
xuất, vận chuyển, tiêu thụ các loại tiền giả (tiền Việt Nam, ngoại tệ giả) ở khu vực Tây
Bắc càng phức tạp hơn và có chiều hướng gia tăng. Tại đây, chúng bán lại cho một số
đối tượng để “xé nhỏ”, tiêu thụ ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi dân tộc
(nơi có trình độ dân trí thấp).


<i>- Tội bn lậu, gian lận thương mại: Với lợi thế địa lý có chung đường biên giới</i>
trên bộ dài đến hàng ngàn km, hệ thống giao thông đường sắt, đường bộ, đường thủy
tương đối thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa, hạ giá thành sản phẩm, hoạt động buôn
bán qua biên giới giữa hai nước Việt - Trung ngày càng phát triển và gắn bó khăng khít.
Hình thức tiểu ngạch lại phát huy ưu điểm khi vận chuyển những mặt hàng nhỏ, số
lượng ít và bằng đường bộ15<sub>. Trên tuyến đường bộ, đã nổi lên tình trạng bn lậu hàng</sub>
Trung Quốc nhập lậu, vận chuyển pháo lậu qua các đường mòn, lối mở ở các tỉnh biên
giới (Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh) vận chuyển về tập kết tại các chợ lớn ở Hà Nội
để đưa đi tiêu thụ tại các tỉnh phía Bắc và cả nước. Các đối tượng bn lậu, gian lận
thương mại chủ yếu vận chuyển hàng hóa (chủ yếu là hàng tiêu dùng của các nước) vào


13 <sub> Hầu hết tiền giả được các đối tượng tiêu thụ ở vùng sâu, vùng xa bằng hình thức mua bán nông sản. Nạn nhân</sub>
chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú dọc biên giới, thiếu sự hiểu biết để phân biệt giữa tiền giả và tiền thật.
Tại đây, người dân do ít giao dịch và thiếu công cụ nhận biết nên rất dễ bị lừa. Họ chỉ biết là tiền giả sau khi đi mua
hàng hóa ở khu vực trung tâm hoặc gửi tiền ở ngân hàng. Một thủ đoạn hoạt động khá phổ biến mà các đối tượng
thường áp dụng là lợi dụng trời tối, nơi thiếu ánh sáng, chỗ vắng người ở nông thô n, thông qua trao đổi, mua bán hàng
hóa để lừa gạt tiêu thụ tiền giả; dùng tiền giả mệnh giá cao mua hàng có giá trị thấp để được trả lại bằng tiền thật hoăc
kẹp lẫn tiền giả vào tiền thật (một số đối tượng ở các tỉnh nội địa lên làm ăn buôn bán ở khu vực biên giới mua hàng
hóa của đồng bào khi thanh toán đan xen giữa tiền thật và tiền giả để che mắt bà con).


14 <sub> Để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng, các đối tượng làm tiền giả có nhiều thủ đoạn đối phó rất tinh</sub>
vi và thường không trực tiếp thực hiện tội phạm. Chúng mua bán, giao nhận tiền giả theo phương thức một người với
một người, chủ yếu sử dụng điện thoại di động để liên lạc, hạn chế gặp mặt nên khơng biết nhau. Những đặc điểm này
càng gây khó khăn cho công tác truy bắt đối tượng làm tiền giả, nhất là khi chúng ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Được


xem là "hàng hóa" siêu lợi nhuận, giá mua tiền giả tại khu vực giáp biên giới Trung Quốc (Lũng Vài, Lũng Nghịu)
khoảng từ 15 - 30% giá trị tiền thật, mua ở phía sâu trong nội địa Trung Quốc từ 10-15%.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Việt Nam tiêu thụ và vận chuyển xăng dầu, lâm thổ sản quý hiếm từ Việt Nam ra nước
ngoài. Hàng năm, càng gần Tết Ngun đán, tình hình bn lậu, gian lận thương mại
trên tuyến biên giới các tỉnh khu vực Tây Bắc càng gia tăng số vụ và số lượng hàng. Các
đối tượng buôn lậu thường dùng mọi thủ đoạn xé lẻ hàng hóa, vận chuyển qua đường
mịn, lối tắt đưa hàng vào nội địa, rồi làm giả giấy tờ, con dấu, nhãn mác, mua hóa đơn
nhằm hợp pháp hóa hàng lậu, đưa ra thị trường tiêu thụ…Hoạt động của tội phạm buôn
lậu ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là trên các các tuyến, địa bàn trọng điểm, nhất
là tuyến biên giới, tuyến đường bộ và trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, kho ngoại quan,
tạm nhập-tái xuất...16<sub>. Trên tuyến đường bộ, đã nổi lên tình trạng bn lậu hàng Trung</sub>
Quốc nhập lậu, vận chuyển pháo lậu qua các đường mòn, lối mở ở các tỉnh biên giới
(Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh) vận chuyển về tập kết tại các chợ lớn ở Hà Nội để
đưa đi tiêu thụ tại các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam (bằng đường bộ, đường sắt,
đường hàng không).


<i><b>(5). Tội phạm do người Việt Nam ở nước ngoài gây ra rồi trốn về Việt Nam</b></i>
<i><b>hoặc tội phạm do người Việt Nam gây ra ở trong nước rồi trốn ra nước ngoài </b></i>


<i>- Tội phạm do người Việt Nam ở nước ngoài gây ra rồi trốn về Việt Nam hoặc do</i>
<i><b>người Việt Nam gây ra ở trong nước rồi trốn ra nước ngồi: Trong những năm qua, xuất</b></i>


hiện nhiều băng nhóm tội phạm người Việt Nam ở nước ngoài (Trung Quốc, Lào) tổ
chức các hoạt động bn lậu (ma túy, vũ khí...), lừa đảo, bắt cóc tống tiền, giết người
cướp tài sản, rửa tiền, buôn bán phụ nữ, trẻ em...Nhiều đối tượng tội phạm người Việt
nước ngoài câu kết với bọn tội phạm trong nước tiến hành các hoạt động buôn lậu,
chuyển tiền bất hợp pháp, bắt cóc, địi nợ th, hình thành các đường dây buôn lậu, buôn
người...Hầu hết các băng nhóm tội phạm người Việt ở nước ngồi đều câu kết với các
băng nhóm tội phạm ở Việt Nam và các nước khác để tiến hành các hoạt động phạm tội


xuyên quốc gia. Đồng thời, một số đối tượng tội phạm trong nước cũng tìm cách trốn ra
nước ngồi để trốn tránh pháp luật: một số đối tượng phạm tội buôn bán phụ nữ, trẻ em,
đánh bạc...thường lẩn trốn tại các khu vực giáp biên giới hoặc trốn sang Trung Quốc;
một số đối tượng phạm tội ma túy (nhất là các đối tượng chủ mưu) thường bỏ trốn sang
Lào để tiếp tục chỉ đạo hoạt động buôn lậu ma túy ở trong nước17<sub>. </sub>


<i><b>Tóm lại: Do tác động ảnh hưởng của tình hình TPXQG trên thế giới, khu Đơng</b></i>
Nam Á và tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn, tình hình TPXQG tại khu vực Tây Bắc
trong thời gian qua diễn biến hết sức phức tạp và có chiều hướng gia tăng về số vụ việc,
đối tượng lẫn tính chất, thủ đoạn, phạm vi và địa bàn hoạt động. Do đặc thù về địa lý,


16 <sub> Do nhiều quy định của pháp luật còn bất cập, dẫn đến việc phát hiện, điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ về</sub>
hành vi bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới gặp nhiều khó khăn, nhất là chứng minh yếu tố qua biên
giới của tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

các tỉnh Tây Bắc chịu tác động trực tiếp của tình hình tệ nạn ma t, bn người của các
nước trong khu vực và đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp18<sub>. Đặc biệt,</sub>
tình hình tội phạm ma túy (nhất là tội phạm ma túy có tổ chức, sử dụng vũ khí “nóng”)
trên tuyến Tây Bắc được đánh giá là phức tạp nhất cả nước cả về quy mơ lẫn tính chất
nguy hiểm và xu hướng phức tạp gia tăng. Để đạt được lợi nhuận bất hợp pháp, các đối
tượng tội phạm trong, ngoài biên giới đã móc nối, câu kết giữa người nước ngồi với các
đối tượng người dân tộc thiểu số ở khu vực giáp biên giới và đối tượng ở các tỉnh ở miền
xuôi thiết lập các đường dây TPXQG với thủ đoạn tinh vi, liều lĩnh. TPXQG đã lợi dụng
<i>triệt để điều kiện địa hình khu vực Tây Bắc cực kỳ phức tạp, hiểm trở, rừng sâu, bị chia</i>
cắt bởi núi cao, sông suối, hang động, vùng sâu, vùng xa dân cư sống thưa thớt và hẻo
lánh, giao thông hạn chế, xa trung tâm đơ thị, khí hậu khắc nghiệt của các địa phương
biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào. Địa bàn Tây Bắc với đường biên giới dài
và các cửa khẩu thông thương quốc tế, hệ thống lối mòn tiểu ngạch biên giới và địa bàn
cư trú phức tạp, giao thơng khó khăn là điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế và
giao lưu văn hóa, khó khăn trong việc tuần tra, kiểm soát điều tra truy bắt tội phạm của


các lực lượng chức năng trên tuyến biên giới nhưng cũng là cơ hội thuận lợi, “đất vàng”
cho tội phạm hoạt động. Các thế lực tội phạm thường lợi dụng sự quen biết hoặc thiếu
hiểu biết pháp luật, hồn cảnh khóa khăn, sự nhẹ dạ và lịng tham của một bộ phận đồng
bào dân tộc thiểu số sống cạnh biên giới cùng với những "kẽ hở" của pháp luật, những
hạn chế trong công tác quản lý, kiểm soát của cơ quan chức năng; triệt để khai thác sự
thông thương tại các cửa khẩu, việc qua lại thuận tiện giữa hai nước thơng qua các
đường mịn, đường tiểu ngạch để móc nối qua lại, vận chuyển ma túy, đưa người hàng
và tiền tệ (là những đối tượng và tang vật phạm tội) qua biên giới. Do đặc điểm cư trú ở
hai vùng biên giới là có khá nhiều đồng tộc của các dân tộc cư trú sát vùng biên, bọn tội
phạm đã lợi dụng những phong tục tập quán, văn hóa tộc người và các mối quan hệ thân
tộc để tổ chức mạng lưới vận chuyển, buôn bán ma túy, hàng hóa, đưa người ra nước
ngồi với mục đích thu lợi nhuận bất hợp pháp. Các mắt xích của đường dây đều là
những người trong dòng tộc nên mức gắn kết rất chặt chẽ, khó phát hiện. “Thuộc tính
lịch sử” của các “dân tộc vùng biên cương” với tập quán sinh hoạt văn hóa lạc hậu,
quan hệ đồng tộc, dòng họ mối quan hệ xuyên biên giới, trình độ dân trí thấp, cuộc sống
khó khăn và lạc hậu của một bộ phận đồng bào dân tộc vùng miền núi, vùng sâu, vùng
xa biên giới; chính sách mở hội nhập quốc tế và tình hình giao lưu phát triển kinh tế


18 <sub>Do đặc thù về địa lý, các tỉnh Tây Bắc chịu tác động trực tiếp của tình hình tệ nạn ma tuý các nước trong khu</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

của khu vực biên giới cửa khẩu cũng được tội phạm khai thác để thực hiện các hành vi
phạm tội. Tội phạm xuyên quốc gia ở Tây Bắc thể hiện đầy đủ và đậm nét đặc điểm
“biên giới” với các hành vi liên quan đến chất ma túy; buôn bán người; lừa đảo, chiếm
đoạt tài sản; sản xuất, buôn bán tiền giả, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế xuất
nhập khẩu, sản xuất và vận chuyển hàng giả....Địa bàn biên giới trở thành những điểm
“tập kết”, “giao hàng” của những mạng lưới buôn bán ma túy, bn người, bn lậu
hàng hóa với nhiều thủ đoạn với ngày càng tinh vi, lọc lõi và khó kiểm soát để thực hiện
hành vi phạm tội hoặc che giấu, trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cơng tác truy bắt đối
tượng. Sự phát sinh, phát triển của các loại TPXQG nói chung, tội phạm ma tuý nói
riêng ở khu vực Tây Bắc đã gây tác hại đặc biệt nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống,


thực sự một hiểm họa đối với sự phát triển của vùng và đất nước; gây rối loạn thị trường,
làm thiệt hại lớn về kinh tế - xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự ổn định an ninh, trật tự trên
địa bàn; trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người
mà đối tượng tác động chủ yếu là một bộ phận nhân dân ở khu vực miền núi, vùng biên
cương đời sống cịn khó khăn và lạc hậu, phụ nữ và trẻ em. Vì vậy, nghiên cứu những
tác động, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội đến việc phát sinh và phát triển của
TPXQG vùng Tây Bắc góp phần nhận diện đầy đủ thực trạng, đặc điểm, yêu cầu, khó
khăn và thách thức trong cơng tác đấu tranh phịng chống loại tội phạm nguy hiểm này
trên địa bàn chiến lược Tây Bắc nói riêng và cả nước nói chung.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


<i>1. Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2009.</i>


<i>2. Thực trạng phát triển kinh tế-xã hội 14 tỉnh vùng Tây Bắc (Báo cáo trích xuất </i>


<i>từ Báo cáo Tổng hợp đề tài “Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu liên ngành </i>
<i>phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc, mã số KHCN-TB.01C/13-18 thuộc Chương </i>
<i>trình Tây Bắc).</i>


<i>3. Nguyễn Thị Thanh Nga, Một số vấn đề cơ bản của các dân tộc vùng Tây Bắc</i>


/>


4. <i>Vấn đề biên giới tiếp giáp giữa Tây Bắc Việt Nam và Trung Quốc</i>


/>


5. <i><b>Tổng quan về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<b>6. </b><i><b>Tổng quan chung về đường biên giới Việt Nam - Lào</b></i>



7. GS.TS Đỗ Quang Hưng, Tơn giáo, tín ngưỡng trong các dân tộc thiểu số


<i><b>dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc</b></i>



<b></b>
<b> />


<i>8. Đặng Thị Hoa, Đậu Tuấn Nam, Quan hệ thân tộc vùng biên giới Việt Nam </i>


<i>-Trung Quốc, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(105)/2016.</i>


<i>9. Đặng Thị Hoa, Nguyễn Hà Đông, Hôn nhân xuyên biên giới ở các tỉnh miền</i>


<i>núi Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã gội Việt Nam, số 8(93)/2015]. </i>


<i>10. Ban Chỉ đạo Tây Bắc sơ kết công tác 6 tháng đầu năm,</i>


<b></b>
<b> />


<i>11. Thực trạng nguồn nhân lực Tây Bắc và những vấn đề đặt ra cho sự phát</i>



<i>triển bền vững, Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2015.</i>



<i>12. Tây Bắc: Địa bàn nóng về tội phạm ma túy </i>




/>


<i>13. Thực trạng phát triển kinh tế-xã hội 14 tỉnh Vùng Tây Bắc (Báo cáo trích</i>


xuất từ Báo cáo Tổng hợp đề tài “Nghiên cứu, xây dựng hệ thống


cơ sở dữ liệu liên ngành phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc,


mã số KHCN-TB.01C/13-18 thuộc Chương trình Tây Bắc).




<i>14. Tội phạm mua bán người vẫn gia tăng</i>



/>


THE INFLUENCES OF SOCIAL-ECONOMIC FACTORS TO THE OCCURANCE
AND DEVELOPMENT OF TRANSNATIONAL CRIMES IN THE NORTHWEST


<i><b>Dr. Do Duc Minh</b></i>


<i><b> VNU, Isnpection and Legislation Department, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy,</b></i>
<b>Hà Nội, Việt Nam</b>


<i>Summary: Northwest has the geopolitical position is extremely important, closely</i>


related to the existence and prosperity of the country. Research the impacts, the effect of
economic factors - social to the incurring and development of transnational type of crime
in the Northwest region contributed identify, clarify the characteristics, requirements,
advantages and challenges in the fight against them on strategic areas in particular
Northwest and the country generally.


</div>

<!--links-->


<a href=' /><a href=' /> Ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế kỹ thuật đến tăng năng suất lao động ở Công ty dệt Minh Khai
  • 43
  • 610
  • 1
  • ×