Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.87 MB, 74 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

PHÁP LUẬT VỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã sô: 60 38 50

LUẬN VÃN THẠC SỸ LUẬT HỌC








NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THỊ GIANG THU

THƯ VI ỆN
TRƯỜNG ĐẠI HOC LỮẬT HÀ NỘI
PHONG G V ~j(~ Ơ


HÀ NỘI -2006


MỤC LỤC
LỊI NĨI ĐẦU
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN c ơ BẢN VỀ TRANH CHẤP VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHAP t r ê n

th ị trư ờng chúng kh oá n

1.1 Tranh chấp trên thị trường chứng khoán
1.1.1 Quan niệm về tranh chấp trên thị trường chứng khoán.................................4
1.1.2 Phân loại tranh chấp trên thị trường chứng khoán......................................... 9
1.1.3 Những ảnh hưởng của tranh chấp trên thị trường chứng khoán................. 13
1.2 Giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
1.2.1 Khái niệm giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán................ 14
1.2.2 Yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
CHƯƠNG 2 THựC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT

tr a n h chấp

TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÚNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1 Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
2.1.1 Cơ chế giải quyết tranh chấp trên thị trườngchứng khoán........................ 18
2.1.2 Vai trò trung gian hòa giải của Sở giao dich chứng khoán, Trung tâm giao
dịch chứng khoán............................................................................................ 21
2.1.3 Pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán theo thủ tục
trọng tài.............................................................................................................25
2.1.4 Pháp luật về giải quyết tranh chấp ưên thị trường chứng khoán theo thủ tục tòa án 50
2.2 Một số hạn chế của pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán M

CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHAP t r ê n

th ị truồng chúng k h o á n v ệ t na m

3.1 Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khốn.................................................................................................. 51
3.2 Mục tiêu xây dựng và hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khốn.................................................................................................. 53
3.3 Một số giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán...................................................................................................55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT

TC

tranh chấp

CK

chứng khoán

TTCK

thị trường chứng khoán


1


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta bắt đầu bước vào thời kì đổi mới
cơ chế quản lí kinh tế từ kế hoạch hố tập trung sang nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN có sự quản lí của nhà nước. Đã trịn 20 năm kể từ thời điểm đáng
nhớ trên, chúng ta đã đạt được những thành cơng đáng khích lệ mà sự ra đời của
TTCK Việt Nam là một minh chứng rõ ràng. Để đảm bảo cho sự vận hành có hiệu
quả của thị trường chứng khoán, một bộ khung pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán đã được xây dựng trong đó quy định tương đối đầy đủ những
nội dung có liên quan. Tuy nhiên khơng thể phủ nhận một thực tế, đây là bộ khung
chưa thật sự hoàn chỉnh, có đơi chỗ mức độ quan tâm cịn mờ nhạt mà mảng pháp
luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khốn ià ví dụ điển hình.
Thị trường chứng khốn được coi là một mơi trường đầu tư kinh doanh vô
cùng phức tạp và nhạy cảm với số lượng người tham gia đông đảo, giá trị đầu tư lớn
cùng độ rủi 10 cao kéo theo tính cạnh tranh gay gắt trong các mối quan hệ lợi ích
được thiết lập trên thị trường. Do vậy, tranh chấp là hiện tượng tất yếu xảy ra đối với
mọi thị trường chứng khốn, bao gồm cả thị trưịng chứng khốn Việt Nam. Yêu cầu
đặt ra là cần phải có cơ sở pháp lý hoàn thiện để giải quyết thỏa đáng loại tranh chấp
chuyên biệt này. Trong khi đó, pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức. Dường như các nhà
làm luật chỉ chú ý đến các quy định về điều kiện để đảm bảo thị trường chứng khoán
bước đầu vận hành được trơn tru mà không thấy được những vấn đề mới sẽ phát sinh
cần có sự điều chỉnh cụ thể. Còn trong khoa học pháp lý, các nhà khoa học đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu về pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán
nhưng thật đáng tiếc khi mảng pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này
vẫn còn bị bỏ ngổ. Cho tới nay, mới chỉ có 2 cơng trình khoa học của cùng một tác
giả là TS Phạm Thị Giang Thu nghiên cứu đến, bao gồm: “Một số vấn đề pháp lý về
giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán Việt Nam” - Đề tài khoa học cấp
Bô- 2001 và bài viết “Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường

chứng khốn Việt Nam”- Tạp chí Luật học số 6-2003. Nhìn chung, hai cơng trình
nói trên đã đề cập đến nhiểu vấn đề của pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị


2

trường chứng khoán. Tuy nhiên, các quy định pháp luật được tác giả nghiên cứu đã
khơng cịn phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Cần thừa nhận rằng, pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng
khoán chưa được kiểm nghiệm nhiều trong thực tiễn (do số lượng các vụ tranh chấp
xảy ra cịn rất ít) nên phản ứng về tính bất cập của pháp luật trong q trình áp dụng để
giải quyết tranh chấp chưa có cơ hội thể hiện rõ ràng. Đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
chưa nhận được sự quan tâm đúng mức từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về chứng
khoán và thị trường chứng khốn cũng như sự quan tâm nghiên cứu từ phía các nhà
khoa học. Nhưng điều đó khơng có nghĩa, pháp luật về giải quyết tranh chấp ữên thị
trường chứng khoán không tồn tại những bất cập nhất định. Sự kiện Việt Nam gia
nhập WTO có tác động tích cực vào sự phát triển của thị trường chứng khốn nói
riêng và nền kinh tế nói chung, dự báo số lượng, chất lượng hàng hóa cũng như các
chủ thể tham gia ngày càng nhiều làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường và tranh
chấp xảy ra nhiều là hiện tượng không tránh khỏi. Khi đó, thực trạng pháp luật
hiện nay khơng đủ điều kiện để đảm bảo cơ sở pháp lý thỏa đáng cho việc giải
quyết các tranh chấp xảy ra trên thị trường chứng khoán. Nghiên cứu pháp luật
hiện hành về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán để tìm ra những
điểm hạn chế và giải pháp hồn thiện là việc làm cần thiết hiện nay.
Xuất phát từ lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về giải
quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay” với mong muốn
thông qua việc nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành để đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện mảng pháp luật này.


2. Phạm vi nghiên cứu
- Không xem xét các tranh chấp có liên quan đến trái phiếu Chính phủ
- Tập trung nghiên các quy định tố tụng về giải quyết tranh chấp trên thị trường
chứng khoán, bao gồm những quy định riêng, mang tính chuyên ngành và chỉ một
số quy định chung về tố tụng trọng tài và tố tụng tịa án có vai trị quan trọng đối với
việc giải quyết loại tranh chấp chuyên biệt này, như vấn đề xác định thẩm quyền
giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khốn của trọng tài và tịa án...Luận văn
khơng mở rộng nghiên cứu các quy định thuộc pháp luật nội dung được áp dụng để
giái quyết tranh chấp trên, vì dung lượng của một luận văn thạc sĩ khơng cho phép.


3

Do vậy, các giải pháp đưa ra chỉ nhằm hoàn thiện các quy định hiện hành thuộc
pháp luật hình thức.

3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lenin đồng thời kết hợp sử dụng các phương
pháp nghiên cứu: phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp và khái quát hoá để giải
quyết những nội dung đưa ra.

4. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Làm sáng tỏ được một số vấn đề lí luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp
trên thị trường chứng khoán như: đưa ra khái niệm chung và đặc điểm riêng của
tranh chấp trên thị trường chứng khoán, chỉ ra một số loại tranh chấp chủ yếu và
nguyên nhân nảy sinh tranh chấp trên thị trường chứng khoán, đánh giá mức độ ảnh
hưởng của tranh chấp gây ra từ đó đặt ra nhu cầu cần phải giải quyết, đồng thời cũng
xác định rõ một số yêu cầu riêng biệt đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán cần đáp ứng...

- Chỉ ra được một số bất cập còn tổn tại của pháp luật về giải quyết tranh chấp
trên Ihị trường chứng khoán Việt Nam như thiếu các quy định chuyên ngành về giải
quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán trong khi một số quy định chung về
trọng tài và tòa án chưa được cụ thể hóa...Từ đó, khẳng định tính đúng đắn và cấp
thiết cần phải hoàn thiện mảng pháp luật này.
- Đưa ra được một số giải pháp hợp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là giải pháp cần phải ban hành quy
định riêng về giải quyết loại tranh chấp chuyên biệt này trong một số vấn đề như
thời hiệu khởi kiện, hồ giải và vai trị trung gian hịa giải của một số tổ chức, tiêu
chuẩn trọng tài viên chuyên biệt...

5. Cơ cấu của luận văn


4

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÍ LUẬN c ơ BẢN VỂ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 TRANH CHẤP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1.1 Quan niệm về tranh chấp trên thị trường chứng khốn
Sự hình thành và phát triển TTCK là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị
trường. Đây là thể chế tài chính bậc cao với những thiết chế phức tạp và riêng biệt,
ảnh hưởng đến thực trạng phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia khi có những
biến động. Về phía nhà nước, TTCK được xem như phong vũ biểu của nền kinh tế,
là công cu quan trọng để thực hiện chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. Trong khi
đó, dưới góc nhìn của các chủ thể tham gia thị trường, TTCK đơn giản là một loại
môi trường kinh doanh, nơi diễn ra hoạt động mua bán loại hàng hố đặc biệt có tên
gọi CK. Các chủ thể tham gia TTCK với mục đích khác nhau, có thể nhằm thu hút

vốn đầu tư, hưởng chênh lệch giá, nhận cổ tức hoặc thực hiện các dịch vụ để thu phí
nhưng đều mang tính chất chung là lợi ích vật chất. Để đạt mục đích của mình, các
chủ thể phải thiết lập quan hệ với nhau. Mối quan hệ này được duy trì trên nền tảng
sự tơn trọng lợi ích riêng và lợi ích chung. Tuy nhiên, lợi ích là yếu tố mang tính hai
mặt, vừa tạo tiền đề cho sự hợp tác vừa là nguyên nhân dẫn đến xung đột khi một
bơn q đề cao quyền lợi của mình. Trong trường hợp đó, TC xảy ra trên TTCK là
điều khó tránh khỏi.
Vậy, TC trên TTCK được quan niệm như th ế nào?
Pháp luật thực định của Việt Nam hiện chưa đưa ra định nghĩa hoặc giải thích
về thuật ngữ “TC trên TTCK” nhưng trong một số văn bản pháp luật có gián tiếp đề
cập đến. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 79 Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11-7-1998
- cơ sở pháp lý đầu tiên và cao nhất đặt nền móng cho sự ra đời của TTCK Việt
Nam quy định “Các TC phát sinh trong hoạt động phát hành, kinh doanh và giao
dịch CK trước hết phải được giải quyết trên cơ sở thương lượng và hồ giải....”. Có
thể nhận thấy rằng, nhà làm luật đã sử dụng phương pháp liệt kê trong khi xây dựng
điều luật này nhằm quy định cụ thể các loại TC có thể xảy ra trên TTCK. Tuy
nhiên, đối chiếu với phạm vi điều chỉnh của Nghị định cũng như nội dung thể hiện
tại Điều 79 trong Nghị định thì các TC được đề cập chỉ bao gồm 3 loại mang tính


5

chất điển hình xảy ra trên TTCK tập trung. Tiếp đến, khoản 1 Điều 113 Nghị định số
144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 thay thế văn bản trên có quy định “Các TC phát
sinh trong hoạt động CK và TTCK phải được giải quyết trên cơ sở thương lượng và
hoà giải

Việc quy định trên đã khắc phục hạn chế về tính thiếu đầy đủ của

phương pháp liệt kê nhưng vấn đề ở chỗ, thế nào là hoạt động CK và TTCK lại

khơng có sự giải thích cụ thể. Cách quy định như vậy tiếp tục được thể hiện trong
Luật chứng khoán 2007 mà khơng có sự bổ sung hợp lí (khoản 1 điều 137).
Tóm lại, nếu chỉ dựa vào các quy định pháp luật hiện hành thì rất khó để đưa ra
một quan niệm chính xác về TC trên TTCK. Xung quanh vấn đề này, chúng tôi nhận
thấy trước hết cần phải làm rõ hai khái niệm “TTCK” và “TC”.
Theo cách hiểu chung nhất, TTCK là nơi các giao dịch CK được tiến hành bởi
những đồi tượng khác nhau. Đây là “thị trường đặc biệt, lưu hành loại hàng hoá đặc
biệt là CK ”(l7, trl5). Dựa theo phương thức tổ chức và giao dịch, người ta phân TTCK
thành 3 loại: TTCK tập trung là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán CK được
thực hiện tại một điểm tập trung gọi là trung tâm giao dịch CK hay sở giao dịch giao
dịch CK; thị trường OTC là thị trường trong đó việc giao dịch không diễn ra tại một
điểm tâp trung mà thông qua hệ thống nối mạng giữa các thành viên. Loại hàng hóa
giao dịch thường là những CK khơng đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường tập
trung và TTCK riêng lẻ (trao tay- chợ đen) là thị trường mà hoạt động mua bán diễn
ra tự do, phân tán, không qua thị trường giao dịch tập trung và OTC. Việc mua bán
diễn ra trực tiếp, trao tay giữa người mua và người bán. Lịch sử phát triển TTCK cho
thấy, TTCK riêng ỉẻ xuất hiện sớm nhất và là tiền đề cho sự ra đời thị trường OTC
và thị trường tập trung nhưng trên thực tế, một quốc gia chỉ được thừa nhận có
TTCK khi và chỉ khi quốc gia đó có TTCK tập trung. Điều này thể hiện qua việc
quốc gia cho phép thành lập và hoạt động Trung tâm Giao dịch CK hoặc Sở giao
dịch CK. Song, không thể dựa vào đây để đồng nhất hai khái niệm “TTCK” và
“TTCK tập trung”. Nói đến TTCK phải bao hàm cả 3 loại, thị trường tập trung, thị
trường OTC và thị trường riêng lề. Tuy nhiên trên thực tế, không phải quốc gia nào
có TTCK cũng có đầy đủ cả ba loại trên. Việt Nam là một minh chứng rõ nhất.
Tính đến thời điểm này, Việt Nam chưa có thị trường OTC trong khi thị
trường tập trung mới chính thức đi vào hoạt động từ 7/2000 còn thị trường riêng lẻ


6


đã tồn tại trước đó một thời gian. Do vậy, có thể khẳng định TTCK Việt Nam đến
nay chỉ gồm hai loại, thị trường tập trung và thị trường riêng lẻ, trong đó sự điều
chỉnh cúa pháp luật tập trung chủ yếu vào hoạt động của thị trường tập trung còn thị
trường riêng lẻ vẫn bị bỏ ngỏ. Đây là lí do cơ bản giải thích vì sao khi nghiên cứu
pháp luật về giải quyết TC trên TTCK Việt Nam, chúng tơi chỉ có thể đưa ra một số
quy định riêng về giải quyết TC trên thị trường tập trung.
Đối với khái niệm “tranh chấp”, Từ điển Tiếng Việt giải thích “TC là giành
nhau một cách giằng co cái khơng rõ thuộc về bên nào hoặc đấu tranh giằng co khi
có ý kiến bất đồng thường ở trong vấn đề quyền lợi giữa các bên ”<18',r989>. Dưới góc
độ thuật ngữ pháp lý, cần có cách hiểu chuẩn xác hơn về khái niệm này. TC luôn bắt
nguồn từ xung đột về quyền và lợi ích nhưng khơng có nghĩa, mọi xung đột đều dẫn
đến TC. Sự xung đột về quyền và lợi ích giữa các bên trong quan hệ chỉ trở thành TC
khi nó được thể hiện ra bên ngồi dưới dạng nhu cầu cần phải giải quyết. Các bên
không thống nhất ý kiến về một vấn đề và cùng muốn đưa vấn đề đang tranh luận ra
giải quyết bằng hình thức nhất định trên cơ sở quy định của pháp luật. Nếu chỉ một
bên tự cảm thấy bất đổng, xung đột với bên kia hoặc sự xung đột chỉ diễn ra âm ỉ,
được các bên che giấu thì coi như chưa phải là TC. Bên cạnh đó, cần phải phân biệt
rõ TC và khiếu kiện hành chính. TC thường xảy ra trong quan hệ giữa các chủ thể
bình đẳng VỚI nhau về địa vị pháp lí, khơng có sự chi phối của yếu tố quyền lực nhà
nước, không bên nào có quyền áp đặt ý chí của mình lên đối phương. Trong khi đó,
việc khiếu kiện hành chính ln phản ánh mối quan hệ khơng bình đẳng giữa bên
khiếu kiện và bên bị khiếu kiện (thường là các chủ thể có quyền sử dụng quyền lực
nhà nước thực hiện hành vi hành chính hoặc ra quyết định hành chính, khơng nhân
danh mình mà nhân danh nhà nước). Do vậy, TC khơng bao gồm việc khiếu kiện
hành chính. Quan hộ giữa các bên bị yếu tố quản lý nhà nước chi phối nên xung đột
xảy ra có tính chất hồn tồn khác và được giải quyết theo trình tự thủ tục riêng.
Từ những phân tích trên có thể rút ra một số kết luận sau: Thứ nhất, định
nghĩa khái quát về TC trên TTCK. Theo đó, TC trên TTCK là những xung đột về
quyền và lợi ích phát sinh giữa các chủ thể khi tham gia TTCK và được thể hiện ra
bên ngồi dưới dạng nhu cầu cần giải quyết thơng qua hình thức nhất định theo quy

định của pháp luật. Thứ hai, TC trên TTCK không bao gồm việc khiếu kiện hành


7

chính trên TTCK. Thứ ba, hiện nay TC trên TTCK Việt Nam chỉ bao gồm TC trên
thị trường tập trung và TC trên thị trường riêng lẻ.
Để nhận diện chính xác hơn và giúp phân biệt với các loại TCkhác, có thể chỉ
ra đây một số dấu hiệu mang tính đặc trưng của TC trên TTCK:
* Vê phạm vi chủ thẻ: Chủ thể của TC trên TTCK phải là các tổ chức, cá nhân
tham gia TTCK. Tổ chức, cá nhân được coi là tham gia TTCK khi họ thực hiện một
hoặc một số hoạt động mà theo quy định của pháp luật những hoạt động đó chỉ được
phép diễn ra trên TTCK. Các chủ thể này bao gồm:
1. Tổ chức phát hành thực hiên hoạt động phát hành CK ra cơng chúng hoặc phát
hành riêng lẻ: có thể là cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
2. Tổ chức kinh doanh CK (công ty CK, công ty quản lý quỹ đầu tư CK) thực hiện
một hoặc một số hoạt động kinh doanh CK gồm: tư vấn, môi giới, tự doanh,
bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ đầu tư CK.
3. Nhà đầu tư gồm các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư vào TTCK
thông qua việc mua và bán CK nhằm mục đích kiếm lời. Điều này khơng có
nghĩa, hoạt động mua hoặc bán CK phải diễn ra trên thực tế mới được cơng nhận
là nhà đầu tư vì cân cứ theo khoản 7 Điều 2 Luật đầu tư thì hoạt động đầu tư bao
gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Theo tinh thần
đó, pháp luật CK và TTCK đã ghi nhận “nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt
Nam và tổ chức cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên TTCK” (khoản 10 điều
6 Luật chứng khoán). Như vậy, chỉ cần tổ chức hoặc cá nhân thực hiện hoạt
động như mở tài khoản, ký hợp đồng tư vấn hoặc môi giới với một công ty CK
cũng được coi là nhà đầu tư mặc dù họ chưa quyết định mua hoặc bán một loại
CK nào.
4. Ngân hàng giám sát, Ngân hàng chỉ định thanh toán

5. Tổ chức lưu ký CK gồm Trung tâm lưu ký CK và các thành viên (là các NHTM
Việt Nam, chi nhánh NHTM nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được UBCK
Nhà nước cấp Giấy phép lưu ký và các công ty CK) cung cấp dịch vụ đãng ký,
lưu ký, bù trừ và thanh toán các CK.
6. Trung tâm (Sở) giao dịch CK và các thành viên (là các công ty CK được Trung
tâm hoặc Sở chấp thuận giao dịch CK qua hộ thống giao dịch của trung tâm hoặc
Sở).


8

Trên TTCK Việt Nam, Trung tâm giao dịch CK và Trung tâm lưu ký CK theo
quy định hiện hành là các đơn vị sự nghiệp có thu, kinh phí hoạt động do ngân sách
nhà nước cấp. Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ cho TTCK, hai tổ
chức này phải thực hiện một số hoạt động mang tính quản lí nhà nước. Do vậy, khi
phát sinh TC giữa một trong hai tổ chức trên với các chủ thể khác của thị trường rất
khó xác định đó là TC trên TTCK hay khiếu kiện hành chính trên TTCK. Việc xác
định trở nên rõ ràng hơn khi hai trung tâm chuyển sang hoạt động theo mơ hình
thành viên hoặc công ty cổ phần theo quy định tại Luật CK và Chiến lược phát triển
TTCK Việt nam đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
* Vê đối tượng TC: Đối tượng của TC trên TTCK là quyền và lợi ích giữa các chủ
thể có được do tham gia TTCK. Nói cách khác, các quyền và lợi ích này phát sinh
trên cơ sở sự tham gia của các bên vào TTCK. Do vậy, trường hợp hai bên TC đều là
chủ thể tham gia TTCK nhưng quyền và lợi ích TC giữa họ khơng phát sinh từ quan
hệ thiết lập trên TTCK thì khơng được xác định là TC trên TTCK. Ví dụ, cơng ty CK
A nhận bảo lãnh đợt phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp B đồng thời ký hợp đồng
mua một số thiết bị văn phòng do B sản xuất, xung đột xảy ra giữa A và B liên quan
đến việc thực hiện bản hợp đồng thứ hai. Đây khơng phải TC trên TTCK.
Có thể chia đối tượng của TC trên TTCK thành 2 nhóm. Thứ nhất, nhóm các
quyền và lợi ích phát sinh trên TTCK dựa trên cơ sở sự thoả thuận của các bên,

ihirờng được ghi nhận trong các bản hợp đồng do các bên ký kết như hợp đồng bảo
lãnh phát hành CK, hợp đồng tư vấn CK, hợp đồng môi giới C K ... Khi các bên đưa
TC ra giải quyết tại trọng tài hoặc tồ án, bản hợp đổng đóng vai trò là cơ sở để xác
định hành vi vi phạm và trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Thứ hai, nhóm các quyền và
lợi ích mặc nhiên phát sinh giữa các chủ thể tham gia TTCK trên cơ sở quy định của
pháp luật. Điều này có nghĩa, ngay khi một chủ thể tham gia TTCK thì theo quy định
của pháp luật đã phát sinh quan hệ chứa đựng những quyền và nghĩa vụ nhất định giữa
chủ thể đó với các chủ thể khác của thị trường. Các chủ thể phải mặc nhiên chấp nhận
sự làng buộc này. Khi đó, quyền và lợi ích của các chủ thể phát sinh từ quan hệ trên sẽ
trở thành đối tượng của TC trên TTCK nếu giữa họ xảy ra sự xung đột cần giải quyết.
Chẳng hạn, quyền được cơng bố thơng tin chính xác từ tổ chức phát hành, tổ chức niêm
yết...


9

* Vê' giá trị của TC: Thường rất khó xác định chính xác giá trị của TC trên TTCK
bởi giá của loại hàng hoá CK lưu hành trong thị trường khơng chỉ phụ thuộc vào
chất lượng của nó mà cịn chịu sự tác động mạnh từ nhiều yếu tố khác như thông tin
thị trường, tâm lý của nhà đầu tư, tình hình kinh tế, chính trị... Trong một số trường
hợp, chất lượng thật của CK không cao nhưng chỉ cần một thơng tin chưa được kiểm
chứng cũng có thể đẩy giá CK đó lên ngang bằng với giá của CK “chất lượng cao”.
Nhìn chung, các TC xảy ra trên TTCK thường liên quan đến việc một bên bị thiệt
hại do sự biến động giá CK có chủ ý từ bên kia. Chẳng hạn, trong lúc tư vấn cho
khách hàng, nhân viên của công ty CK khuyên khách hàng nên mua CK A đồng thời
đưa ra những thơng tin có liên quan để chứng minh. Thực tế, lượng thơng tin đó
khơng chính xác và giá của CK A trên thị trường giao dịch ngày càng giảm. Giả sử nếu
xảy ra TC giữa khách hàng và công ty CK liên quan đến hành vi tư vấn của nhân viên
công ty, việc xác định mức độ thiệt hại khách hàng phải gánh chịu dựa trên cơ sở nào?
giá trị bao nhiêu?

Trên đây là ba dấu hiệu chính để nhận dạng TC trên TTCK. Tại Việt Nam,
việc giải quyết các TC xảy ra trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau của nền kinh
tế thị trường hiện nay tuân theo một thủ tục pháp lý chung, nhưng pháp luật chun
ngành ln có những quy định riêng điều chỉnh phù hợp. Pháp luật về CK và TTCK
không phải ngoại lệ. Do vậy, việc nhận diện đúng TC trên TTCK sẽ góp phần đảm
bảo tính thống nhất trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết
TC sau này.

1.1.2 Phân loại tranh chấp trên thị trường chứng khoán
TC xảy ra trên TTCK rất đa dạng và phức tạp. Để tìm hiểu cụ thể, rõ ràng hơn
về loại TC này, thường phải tiến hành phân loại chúng theo những tiêu chí nhất định.
Theo đó, có nhiều cách phân loại khác nhau.
Nếu xét theo tiêu chí các loại TTCK, TC trên TTCK gồm TC trên thị trường
sơ cấp và TC trên thị trường thứ cấp.
* TC trên thị trường sơ cấp là TC về quyền và lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị
trường giao dịch CK mới phát hành. Thị trường sơ cấp là nơi luân chuyển vốn từ nhà
đầu tư sang tổ chức phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua CK của tổ chức phát
hành. Nhưng TC trên thị trường sơ cấp không chỉ xảy ra giữa nhà đầu tư và tổ chức
phát hành trong quá trình chào bán CK. Thực chất, thị trường sơ cấp ngoài hai chủ


10

thê chính trên cịn xuất hiện nhiều chủ thể trung gian làm nhiệm vụ hỗ trợ đợt phát
hành, tùy theo phương thức bán CK mà tổ chức phát hành lựa chọn. Có thể kể đến
các tổ chức bảo lãnh, các đại lý phân phối CK, tổ chức tài chính trung gian hoặc các
tổ chức tổ chức đấu giá CK. Mối quan hệ giữa tổ chức phát hành và các tổ chức này
được thiết lập ngay tại giai đoạn chuẩn bị phát hành, khi CK chưa hiện diện trên
thực tế. Minh chứng rõ nhất là mối quan hệ giữa tổ chức phát hành và tổ chức bảo
lãnh. Các tổ chức bảo lãnh ngoài nhiệm vụ bao tiêu số CK phát hành còn tham gia tư

vấn, chuẩn bị hồ sơ tài liệu giúp tổ chức phát hành đệ trình lên ủy ban CK nhà nước
và tổ chức các hoạt động giới thiệu về đợt phát hành đến nhà đầu tư. Quá trình các
bên thực hiện hợp đồng bảo lãnh luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra TC về các quyền và
lợi ích có liên quan.
* TC trên thị trường thứ cấp là TC về quyền và lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị
trường giao dịch CK đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thông thường, TC
trên thị trường thứ cấp chia thành bốn nhóm chính sau: Nhóm các TC phát sinh từ
hoạt động giao dịch CK, xảy ra giữa các nhà đầu tư với nhau. Thực tế cho thấy, loại
TC này chủ yếu diễn ra trên thị trường riêng lẻ, nơi CK được phép mua bán trực tiếp
mà khơng địi hỏi phải qua tổ chức trung gian như trên thị trường tập trung; Nhóm
các TC phát sinh từ hoạt động hỗ trợ cho việc giao dịch CK như hoạt động lưu ký,
đăng ký, bù trừ, thanh toán, hoạt động giám sát của ngân hàng giám sát, hoạt động tổ
chức thị trường giao dịch CK; Nhóm các TC phát sinh từ hoạt động kinh doanh CK
như hoạt động tư vấn, môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ đầu
tư CK; Nhóm các TC liên quan đến hoạt động của cơng ty có CK giao dịch trên thị
trường thứ cấp.
Nhìn chung, sự phân loại TC trên TTCK thành TC trên thị trường sơ cấp và
TC trên thị trường thứ cấp có ý nghĩa trong việc nhìn nhận cụ thể và tồn diện loại
TC nhiều hơn là trong việc xác định các quy định pháp luật để áp dụng khi tiến hành
giải quyết TC. Lí do cơ bản bởi, sự khác biệt giữa hai loại TC trên chưa đủ để đặt ra
yêu cầu buộc pháp luật phải có quy định điều chỉnh riêng cho mỗi loại trong quá
trình giải quyết. Pháp luật về giải quyết TC trên TTCK của đa số các nước đều quan
niệm như vậy, trong đó có Việt Nam.
Cũng theo tiêu chí phân loại trên, có thể phân TC trên TTCK thành ba loại khác.


11

Thứ nhất, TC trên thị trường tập trung. Thị trường tập trung là nơi hoạt động
giao dịch CK được thực hiện tại một điểm tập trung dưới hình thức là trung tâm hoặc

sở giao dịch CK. Nguyên tắc trung gian trên thị trường tập trung đòi hỏi việc mua
bán CK phải qua tổ chức trung gian (là các công ty CK). Do vậy, đa số TC xảy ra
giữa khách hàng với công ty CK và thường liên quan đến hoạt động tư vấn, môi giới
CK. Tại Việt Nam, các TC liên quan đến việc phát hành, giao dịch và niêm yết CK
tại Trung tâm giao dịch CK thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm giao dịch CK Hà
Nội thuộc loại trên. Thực tế, số lượng các vụ TC xảy ra ở hai trung tâm này khơng
nhiều do TTCK cịn là lĩnh vực đầu tư tương đối mới với nhiều chủ thể trong khi
chất lượng và số lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường không cao. TC trên thị
trường tập trung có thể xảy ra trên thị trường sơ cấp hoặc thị trường thứ cấp, thể hiện
qua ví dụ sau: Ngày 18/1/2006, Trung tâm giao dịch CK Hà Nội tổ chức cuộc đấu
giá cổ phần của công ty xây dựng số 3. Cơng ty Tài chính dầu khí PVFC từ chối
mua 940.600 cổ phần này tại mức giá 19.800 đổng và 67 nhà đầu tư cá nhân liền kề
trong số 79 người cùng tham dự đấu giá đã được mua số CK này với số tiền thấp hơn
4,5 tỷ đổng so với số tiền PVFC dự tính trả. Giả định 11 nhà đầu tư còn lại cho rằng
PVFC đã thông thầu với 67 nhà đầu tư để cùng nhau chia chác số tiền 4,5 tỷ đồng và
làm đơn khởi kiện PVFC. TC giữa nhóm nhà đầu tư này và PVFC là TC trên thị
trường tập trung và xảy ra trên thị trường sơ cấp. Giả sử sau đó cổ phiếu của công ty
xây dựng số 3 được đăng ký giao dịch tại Trung tâm giao dịch CK Hà Nội. ông A
(là một trong số 67 nhà đầu tư nói trên) mở tài khoản giao dịch CK tại Công ty CK
Sài Gòn và đặt lệnh bán 1000 cổ phiếu tại mức giá 15.000 đồng nhưng nhân viên
của công ty CK đã nhập sai giá đặt bán dẫn đến lệnh của ông A không được khớp.
TC xảy ra giữa ông A và cơng ty CK Sài Gịn là TC trên thị trường tập trung và xảy
ra trên thị trường sơ cấp.
Thứ hai, TC trên thị trường OTC. Khác với thị trường tập trung, CK giao dịch
tại thị trường OTC có độ rủi ro cao hơn nhưng lại thu hút nhiều nhà đầu tư nhờ khả
năng sinh lợi lớn. Mặt khác, sự quản lí nhà nước đối với hoạt động của thị trường
này cũng không chặt chẽ như thị trường tập trung. Đây là những lí do khiến thị
trường OTC ln tiềm ẩn nguy cơ xảy ra nhiều TC. Do cơ chế xác lập giá CK là
(hương lượng giá giữa bên mua và bên bán nên TC có thể phát sinh giữa nhà kinh
doanh CK đóng vai trị nhà mơi giới với khách hàng hoặc giữa nhà kinh doanh CK



12

đóng vai trị nhà tạo lập thị trường và tự doanh với khách hàng hoặc giữa những nhà
kinh doanh CK với nhau. TTCK Việt Nam hiện nay chưa xuất hiện loại TC này vì
chúng ta chưa có thị trường OTC.
Thứ ba, TC trên thị trường riêng lẻ. Việc mua bán CK trên thị trường riêng lẻ
diễn ra trực tiếp giữa bên mua và bên bán, khơng có sự kiểm sốt chặt chẽ của nhà
nước. Do vậy, đây là thị trường tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây TC nhất. “Đời sống pháp
lí liên quan đến CK ở TTCK Việt nam đã chỉ ra rằng, TC CK trên TTCK đầu tiên
diễn ra liên quan đến thị trường riêng lẻ mà không phải là thị trường tập trung”(18).
Hiện nay pháp luật về CK và TTCK khơng có quy định riêng nào liên quan đến việc
giải quyết các TC phát sinh trên thị trường riêng lẻ.
Mặc dù xuất hiện sớm với số lượng lớn nhưng mức độ ảnh hưởng của TC trên
thị trường riêng lẻ đến sự ổn định của TTCK không nghiêm trọng bằng những ảnh
hưởng do các TC trên hai thị trường còn lại gây ra, đặc biệt là TC trên thị trường tập
irung. Do vậy, pháp luật về CK và TTCK Việt Nam đã có những quy định riêng ghi
nhận nội dung và nguyên tắc giải quyết TC trên thị trường tập trung trên cơ sở không
trái với pháp luật tố tụng nói chung.
Nếu xét theo tiêu chí chủ thể, TC trên TTCK được phân ra hai loại. Loại
một, TC xảy ra giữa cá nhân và cá nhân hoặc giữa cá nhân và pháp nhân trên TTCK.
Pháp luật hiện hành về CK và TTCK Việt Nam không cho phép cá nhân hành nghề
kinh doanh CK độc lập trong khi pháp luật trọng tài thương mại chỉ áp dụng đối với
các bên TC là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh. Do vậy, bên chủ thể là
cá nhân trong loại TC này chỉ có thể là các nhà đầu tư CK và khi TC xảy ra, các bên
không được lựa chọn phương thức trọng tài để giải quyết. Loại hai, TC xảy ra giữa
các tổ chức là pháp nhân trên TTCK. Đó có thể là tổ chức phát hành, tổ chức niêm
yết, công ty CK, công ty quản lý quỹ đầu tư CK ...Cách phân loại này giúp nhận
diện rõ nét các chủ thể TC trên TTCK đồng thời có ý nghĩa quan trọng trong việc

xác định thẩm quyền giải quyết TC của các cơ quan tài phán trong trường hợp pháp
luật dựa vào dấu hiệu hình thức của chủ thể để xác định.
Ngồi hai tiêu chí trên, việc phân loại TC trên TTCK có thể dựa vào một số
tiêu chí khác như tính chất của TC hoặc nội dung TC. Không thể phủ nhận ưu thế
riêng của mỗi cách phân loại nhưng theo quan điểm của chúng tôi, phân loại TC trên
TTCK dựa theo tiêu chí các loại TTCK là hợp lí và có ý nghĩa hơn cả. Nó cho phép


13

chúng ta xem xét TC xảy ra theo chiều ngang (thị trường tập trung, OTC và riêng lẻ)
và chiều dọc (thị trường sơ cấp và thứ cấp) của TTCK.

1.1.3 Những ảnh hưởng của tranh chấp trên thị trường chứng khoán
TC trên TTCK là hiện tượng mang tính tiêu cực, phản ánh một nhóm quan hệ
khơng ổn định đang diễn ra trên thị trường. Các bên trong quan hệ là chủ thể gây ra
TC đồng thời là đối tượng chịu ảnh hưởng tiêu cực của TC. Trước hết, mục đích các
bên mong muốn khi thiết lập mối quan hệ trên TTCK không đạt được, cản trở các kế
hoạch kinh doanh đã dự tính. Mặt khác, các bên mất nhiều thời gian, cơng sức và chi
phí để “theo đuổi” vụ TC và khi kết thúc quá trình giải quyết, quan hệ giữa các bên
khó trở lại trạng thái ban đầu. Đây khơng chỉ là hậu quả các bên trong TC trên
TTCK phải gánh chịu mà chủ thể của bất kì loại TC nào khác xảy ra trong đời sống
kinh tế cũng vậy. Tuy nhiên, ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do TC trên TTCK gây ra
cho các bên chủ thể là vấn đề thời gian. Thực tế đã cho thấy, yếu tố thời gian có vai
trị rất quan trọng đối với mọi chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường nhưng trên TTCK, vai trò của yếu tố này nổi bật hơn cả. TTCK là
thị trường giá trị của thông tin, khả năng phản ứng trước một thông tin đưa ra càng
nhanh càng có nhiều cơ hội kiếm lợi nhuận, đặc biệt trên thị trường tập trung, nơi
thực hiện nguyên tắc đấu lệnh ưu tiên về giá và thời gian. Trong khi đó, việc mất
nhiều thời gian để giải quyết TC ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng phản ứng của

các chủ thể trước diễn biến trên thị trường, khiến nhiều cơ hội kinh doanh bị bỏ lỡ,
đặc biệt đối với các TC liên quan đến quyền sở hữu CK.
Khơng chỉ vậy, TC trên TTCK cịn ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của
các bên TC khi họ là các tổ chức hoạt động lâu dài trên TTCK với tư cách tổ chức
phát hành, tổ chức niêm yết, công ty CK... TTCK luôn nhạy cảm với các thông tin.
Do vậy, khi thông tin liên quan đến vụ TC của các bên được đưa ra, đúng hay sai,
đều có thể dẫn đến những đánh giá trái chiều từ phía các chủ thể khác của thị trường
về hành động có hợp pháp hay không của một bên TC. Cụ thể, đối với bên TC là
cơng ty CK, uy tín liên quan đến đạo đức nghề nghiệp bị ảnh hưởng dẫn đến sự dao
dộng niềm tin từ phía khách hàng, giảm khả năng cạnh tranh với các công ty CK
khác; đối với bên TC là công ty niêm yết, giá CK trên thị trường giao dịch có thể bị
tụt giảm trong trường hợp hành động “bán tháo” CK của một nhóm các nhà đầu tư
khi tiếp nhận thông tin trên dẫn đến phản ứng dây chuyền từ phía các nhà đầu tư


14

khác; đối với bên TC là tổ chức phát hành, thơng tin vê vụ TC có thể ảnh hưởng xấu
đến hình ảnh của cơng ty trong con mắt các nhà đầu tư, giảm sức hấp dẫn của CK dự
định phát hành
TTCK là đối tượng tiếp theo chịu những ảnh hưởng tiêu cực do TC trên TTCK
gây ra. Thực tế cho thấy, đa số các TC trên TTCK bắt nguồn từ những hành vi vi
phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật. Điều này dẫn đến tình trạng, quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể trên thị trường không được đảm bảo, tính cơng bằng, ổn
định trong hoạt động của thị trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi đó, niềm tin và
sức hấp dẫn của TTCK bị suy giảm. Các chủ thể đã, đang và sẽ tham gia thị trường
có xu hướng chuyển sang lĩnh vực đầu tư khác. Không chỉ vậy, sự mất ổn định của
TTCK còn tác động xấu đến tình hình kinh tế của đất nước bởi TTCK luôn được coi
là “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Nhìn nhận vấn đề này trong tình trạng hoạt động
của TTCK Việt Nam có thể thấy, mặc dù TC xảy ra chưa nhiều và chưa phức tạp

nhưng khơng có nghĩa, đây là một thị trường hồn hảo. Lí do cơ bản bởi TTCK Việt
Nam đang trong quá trình xây dựng, những diễn biến trên thị trường chưa đủ sức
phán ánh diễn biến của nền kinh tế nên khơng có khả năng gây tác động mạnh.
Những phân tích trên đã cho thấy nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ TC trên TTCK.
Song, nếu nhìn dưới góc độ khác, những TC này mang một ý nghĩa nhất định. Qua
việc tìm hiểu tình hình TC xảy ra, cơ quan quản lí nhà nước về CK và TTCK nhận
biết được những nhóm lợi ích thường dẫn đến xung đột và “thái độ hoạt động” của
các chủ thể trên thị trường để đưa ra biện pháp giải quyết kịp thời, đảm bảo tính ổn
định của thị trường. Mặt khác, TC luôn gây bất lợi cho bản thân chủ thể có TC
nhưng lại tác động mạnh vào ý thức của các chủ thể khác trên TTCK, thúc đẩy họ
chú ý hơn đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước những hành vi
xâm phạm, đồng thời góp phần ngăn ngừa các chủ thể có ý định gây thiệt hại.
Nhưng vẫn cần khẳng định rằng, TC trong nền kinh tế nói chung và TC trên TTCK
nói riêng là hiện tượng tiêu cực mang tính khách quan, khơng thể loại bỏ nên cần
phải được giải quyết một cách thỏa đáng.
1.2 GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÚNG KHOÁN

1.2.1 Khái niệm giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Sự xung đột về quyền và lợi ích dẫn đến TC là hiện tượng khó tránh khỏi đối
với bất kì TTCK nào. Cùng với sự phát triển của thị trường về quy mô, chiều sâu thì số


15

lượng các TC ngày càng tăng, các dạng, loại và mức độ cũng ngày càng phức tạp. Để
bảo vộ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có TC, đảm bảo hoạt động ổn định của
toàn thị trường, các TC cần được giải quyết một cách kịp thời, đúng đắn. ở đây,
chúng tôi xem xét việc giải quyết TC trên TTCK với hai nội dung cơ bản. Một là, giải
quyết TC trên TTCK được xác định như thế nào; hai là, việc giải quyết đó nhằm
những mục đích gì.

Khái niệm “giải quyết TC trên TTCK” có thể đặt trong mối quan hệ với khái
niệm “giải quyết TC”. Trong khoa học pháp lý, tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về
“giải quyết TC”. Chẳng hạn, giải quyết TC là hoạt động do các bên TC tiến hành
nhằm loại trừ những mâu thuẫn, xung đột phát sinh trong quan hệ hoặc là hoạt động
do người có thẩm quyền tiến hành theo yêu cầu của các bên TC nhằm giúp các bên
loại trừ những bất đổng, xung đột về quyền và lợi ích bằng việc đưa ra quyết định có
tính bắt buộc chung trên cơ sở trình tự nhất định. Điểm chung của hai cách hiểu trên
là xem xét giải quyết TC với tư cách là một hoạt động. Nếu vậy, chủ thể tiến hành
hoạt động giải quyết TC có thể là các bên TC hoặc những người có thẩm quyền và
quá trình giải quyết phải tuân theo quy định của pháp luật. Do đó, hai cách hiểu trên
chưa thể hiện đầy đủ về mặt chủ thể và đặc tính pháp lý của hoạt động giải quyết
TC. Theo quan điểm của chúng tôi, giải quyết TC là tổng hợp các cách thức, biện
pháp do các bên có TC áp dụng để loại bỏ xung đột trên cơ sở quy định pháp luật.
Chú thể tiến hành hoạt động giải quyết TC tuỳ thuộc cách thức, biện pháp được áp
dụng.
Với sự phân tích trên có thể xác định, giải quyết TC trên TTCK là tổng hợp các
cách thức, biện pháp do cấc bên TC áp dụng trên cơ sở quy định của pháp luật
nhằm loại bỏ xung đột về quyền và lợi ích phát sinh trên TTCK.
Muc đích của các bên khi quyết định đưa TC ra giải quyết nhằm loại bỏ
những bất đồng, xung đột đang tổn tại đồng thời khôi phục quyền và lợi ích cho
rằng bị xâm phạm. Trong khi đó, với tư cách là chủ thể có chức năng quản lý mọi
mặt đời sống xã hội, nhà nước đặt ra nhu cầu giải quyết các TC trên TTCK nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị xàm phạm, duy trì trật tự, đảm bảo sự
cơng bằng, ổn định trên thị trường. Mặt khác, nếu cho phép việc giải quyết TC diễn
ra tư do dễ dẫn đến tình trạng một bên lợi dụng thế mạnh, gây áp lực chèn ép bên
kia. Tuy TC đã giải quyết nhưng thực chất, quyền và lợi ích chính đáng bị xâm phạm


16


khơng được bảo vệ, sự cơng bằng khơng có và trật tự trên thị trường bị đảo lộn. Do
vây, nhà nước phải can thiệp vào quá trình giải quyết TC. Bằng những quy định của
pháp luật, nhà nước đưa hoạt động giải quyết TC trên TTCK vào giới hạn nhất định
trên cơ sở đảm bảo hài hồ lợi ích từ hai phía.
Xét trong hồn cảnh TTCK Việt Nam chính thức hoạt động từ 7/2000 đến
nay, số lượng các vụ TC xảy ra trên thị trường tập trung rất ít mà chủ yếu diễn ra
trên thị trường riêng lẻ. Có thể chỉ ra một số nguyên nhân chính như, thị trường kém
sơi động với số lượng hàng hóa ít, chất lượng không cao, khối lượng và tốc độ giao
dịch không lớn làm giảm tính gay gắt trong các mối quan hệ lợi ích. Mặt khác, do sự
hiểu biết hạn chế của một số chủ thể tham gia thị trường nên trong nhiều trường hợp,
quyền và lợi ích chính đáng bị xâm phạm nhưng họ không biết cách tự bảo vệ. Tuy
nhiên, đây chỉ là trạng thái ban đầu. Khi TTCK Việt Nam đã dần đi vào quỹ đạo, TC
xảy ra là điều tất yếu với xu hướng ngày càng đa dạng và phức tạp. Khi đó, nhu cầu
giải quyết TC khơng chỉ là vấn đề xuất hiện trên lý thuyết mà trở thành đòi hỏi cấp
thiết từ thực tiễn cần đáp ứng.
Nhìn chung, pháp luật đa số các nước đều thừa nhận thương lượng, hoà giải,
trọng tài và toà án là bốn hình thức cơ bản để giải quyết TC trên TTCK. Song, khơng
phải mọi TC trên TTCK đều có thể được giải quyết thơng qua bốn hình thức trên.
Việc áp dụng cụ thể tuỳ thuộc quy định pháp luật của mỗi nước. Tại Việt Nam, vấn
đề này tuân theo quy định của pháp luật chuyên ngành về CK và TTCK và pháp luật
tố tụng nói chung.

1.2.2 Yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng
khoán
TC trên TTCK phải được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hơp pháp của các bên, duy trì sự cơng bằng, ổn định trên thị trường, góp phần bảo
đảm trật tự pháp luật, ngăn ngừa các hành vi vi phạm. Để đạt mục đích này, việc giải
quyết TC trên TTCK phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định. Trước hết là những
yêu cầu đạt ra cho việc giải quyết TC nói chung trong nền kinh tế thị trường. Theo
đó, việc giải quyết TC phải nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật; quyết định giải

quyết có hiệu lực thi hành cao; quá trình giải quyết phải đảm bảo tính dân chủ,
quyền tự định đoạt của các bên; chi phí giải quyết thấp. K ế tiếp là một số yêu cầu


17

mang tính riêng biệt nhằm đảm bảo việc giải quyết TC xảy ra trong lĩnh vực đặc biệt
là TTCK đạt hiệu quả cao.
Yêu cầu thứ nhất đòi hỏi mọi TC trên TTCK phải được giải quyết theo cơ chế
chung, không phân biệt TC đó xảy ra tại bộ phận thị trường nào và chủ thể TC là tổ
chức hay cá nhân. Như vậy sẽ đảm bảo cách đối xử thống nhất cho cùng một loại
Thứ hai, xuất phát từ vai trò đặc biệt quan trọng của yếu tố thời gian trong
TTCK mà yêu cầu tiếp theo đòi hỏi việc giải quyết TC phải diễn ra trong thời gian
ngắn nhất có thể, giúp các bên nhanh chóng trở lại trạng thái hoạt động bình thường
trên thị trường. Muốn vậy, các bên cần được tạo điều kiện thuận lợi tối đa khi lựa
chọn thương lượng và hoà giải để giải quyết TC.
Thứ ba, yêu cầu đảm bảo sự tham gia của một số tổ chức hoạt động chuyên
nghiệp trên TTCK vào quá trình giải quyết TC với tư cách là trung gian hồ giải như
Uỷ ban chứng khốn Nhà nước, các Trung tâm giao dịch chứng CK hoặc Sở giao
dịch CK, các Hiệp hội CK. Nhìn chung, bộ máy nhân viên làm việc trong các tổ
chức này là những người có uy tín, có trình độ chun mơn trong lĩnh vực CK và am
hiểu tình hình thị trường. Họ đủ điều kiện để trở thành những hoà giải viên đáng tin
cậy, qua đó góp phần khuyến khích các bên lựa chọn hình thức hoà giải để giải
quyết TC.
Để giải quyết các TC xảy ra trong một lĩnh vực chuyên sâu và phức tạp như
TTCK đạt hiệu quả cao, yêu cầu cuối cùng đòi hỏi việc giải quyết TC phải do những
người vừa am hiểu pháp luật tố tụng vừa có trình độ chuyên môn về lĩnh vực CK và
TTCK tiến hành. Thông thường, các TTCK mới nổi không đáp ứng được yêu cầu này.
Như chúng tơi đã phân tích ở trên, nhà nước can thiệp vào quá trình giải
quyết TC trên TTCK bằng các quy định của pháp luật. Do vậy, nội dung các quy

định của pháp luật cũng phải đảm bảo việc giải quyết đáp ứng được các yêu cầu
trên. Có như vậy, pháp luật mới khả thi và được tôn trọng. Tuy nhiên, những yêu cầu
mang tính riêng biệt trên khơng đủ là lí do buộc pháp luật phải có cách điều chỉnh
dộc lập, hoàn toàn riêng biệt với việc giải quyết các loại TC khác. Không phải pháp
luật tố tụng nói chung mà pháp luật về CK và TTCK phải có quy định đáp ứng yêu
cầu riêng này trên cơ sở phù hợp với những quy định chung./
TH Ư VIỆ N
ĨRƯƠNG ĐAIHOCLŨÂTHA NỔI
PHÒNG GV


18

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHÚNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1 NỘI DƯNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT

tranh

chấp trên thị

TRƯỜNG CHÚNG KHOÁN
Giao dịch CK là một giao dịch thương mại đặc thù. Hoạt động diễn ra trên
TTCK không chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại mà do luật chuyên ngành về
CK và TTCK quy định. Theo nguyên tắc áp dụng pháp luật, việc giải quyết các TC
xảy ra trên TTCK, trước tiên, phải tuân theo các quy định của pháp luật chuyên
ngành. Tuy nhiên, về cơ bản, TC xảy ra trên TTCK cũng như TC xảy ra trong các
lĩnh vực thương mại đặc thù khác ở nước ta hiện nay đều được giải quyết thông qua
các phương thức giải quyết TC trong hoạt động thương mại nói chung (hoạt động

thương mại hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi) như thương
lượng, hồ giải, trọng tài, tịa án nên phải tn theo quy định chung của pháp luật về
các phương thức này. Như vậy, pháp luật về giải quyết TC trên TTCK bao gồm các
quy định chung trong pháp luật giải quyết TC thương mại và một số quy định riêng
cua pháp luật chuyên ngành về CK và TTCK. Hiện nay, các quy định pháp luật
chuyên ngành rất ít và chú yếu liên quan đến phương thức giải quyết TC ngoài tố
tụng là hịa giải. Đây cũng chính là những quy định tạo nên nét khác biệt của pháp
luật về giải quyết TC trên TTCK so với các mảng pháp luật về giải quyết TC trong
các lĩnh vực khác.

2.1.1CƠ chê giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Ngày 29 tháng 6 năm 2006, Luật chứng khốn được Quốc hội khóa XI kỳ
họp thứ 9 thơng qua, góp phần hồn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở nước ta
đồng thời khắc phục những khiếm khuyết và bất cập trong khn khổ pháp luật CK
và TTCK nhằm hồn thiện mơ hình hoạt động của thị trường và thúc đẩy TTCK phát
triển. Luật CK chỉ dành một điều để quy định về cơ chế giải quyết TC nhưng đã thể
hiện quan điểm đổi mới so với quy định trước đây. Tuy nhiên, trong thời gian Luật
chứng khốn chưa có hiệu lực (trước ngày 1/1/2007), cơ chế giải quyết TC trên
TTCK vẫn phải tuân theo quy định trong Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày
23/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Theo Điều 79 của Nghị định


19

này, “Các TC phát sinh trong hoạt động CK và TTCK phải được giải quyết trên cơ
sở thương lượng và hồ giải.. .Trường hợp hồ giải khơng thành, các bên có thể u
cầu trọng tài hoặc tồ án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với TC có liên
quan tới bên nước ngồi, nếu các bên khơng thoả thuận hồ giải được thì TC được
giải quyết theo pháp luật Việt Nam; nếu có điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia thì giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế”. Do phạm vi điều

chỉnh của Nghị định bó hẹp ở thị trường tập trung nên quy định trên chỉ áp dụng đối
với các TC xảy ra trên TTCK tập trung. Theo đó, thương lượng hồ giải là phương
thức giải quyết mang tính bắt buộc đối với TC trên thị trường tập trung. Nếu hồ giải
khơng thành, các bên mói có quyền đưa TC ra trọng tài hoặc tồ án. Trong khi đó,
pháp luật khơng có quy định điều chỉnh cụ thể việc giải quyết các TC xảy ra trên thị
trường riêng lẻ. TC trên thị trường riêng lẻ được giải quyết như một loại TC dân sự
thông thường. Các bên TC được phép lựa chọn phương thức giải quyết thích hợp, tuỳ
theo sự thoả thuận của hai bên và điều kiện áp dụng của từng phương thức. Như vậy,
trước thời điểm ban hành Luật CK, tồn tại hai quy trình giải quyết TC trên TTCK
khác nhau, tùy thuộc TC đó xảy ra tại bộ phận thị trường nào. Quy định này xuất
phái từ hai lý do cơ bản. Thứ nhất, thị trường tập trung đang trong giai đoạn mới
hình thành, các mâu thuẫn, xung đột phát sinh cần được giải quyết nhanh chóng trên
tinh thần hợp tác để tránh ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường. Thứ hai, thực
trạng đội ngũ làm công tác xét xử chưa đủ năng lực để giải quyết các TC trên thị
trường do họ không am hiểu về lĩnh vực thương mại đặc thù này. Tuy vậy, quy định
trên của pháp luật chỉ là giải pháp mang tính tình thế, thể hiện sự đối xử bất bình
đắng đối với các chủ thể tham gia TTCK trong quá trình họ lựa chọn biện pháp bảo
vệ quyền và lợi ích của mình.
Luật chứng khốn ra đời, đã thống nhất quy trình giải quyết TC trên TTCK.
Điều 131 quy định: “ TC phát sinh trong hoạt động CK và TTCK tại Việt Nam có
thể được giải quyết thơng qua thương lượng, hoà giải hoặc yêu cầu trọng tài hoặc toà
án giải quyết theo quy định của pháp luật”. Ở đây có hai điểm mới cần phải thừa
nhân. Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của Luật chứng khốn khơng chỉ bó hẹp ở thị
trường tập trung mà mở rộng sang cả thị trường phi tập trung (OTC) nên quy định về f
quy trình giải quyết TC tại điều luật trên được áp dụng thống nhất trên cả hai loại thị
trường. Thứ hai, thương lượng hồ giải khơng phải là phương thức giải quyết mang


20


tính bắt buộc đối với bất kỳ TC nào xảy ra trên TTCK. Các bên có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết thích hợp mà khơng phải tn theo quy trình định sẵn của
pháp luật. Như vậy, cơ chế giải quyết TC trên cả ba loại TTCK (tập trung, OTC,
riêng lẻ) đã có sự tương đồng với nhau. Có thể nói, đây là cơ chế giải quyết TC hợp
lý, vừa thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các chủ thể TC trong việc lựa
chọn biện pháp giải quyết, vừa phù hợp với thông lệ giải quyết TC thương mại trong
nền kinh tế thị trường.
Thương lượng trong TC trên TTCK về cơ bản cũng giống như hình thức
thương lượng nói chung trong TC thương mại. Khơng có sự tham gia của bất kỳ
trung gian nào, các bên trực tiếp gặp nhau, nêu ra quan điểm, yêu cầu của mình, tìm
hiện pháp thích hợp để đi đến thống nhất cách giải quyết cùng chấp nhận được. Hiện
nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về thương lượng, các bên thường phải dựa
vào kinh nghiệm để tiến hành. Trong thực tiễn hoạt động của TTCK, các bên thường
giải quyết bất đổng thông qua thương lượng trong trường hợp TC phát sinh từ việc
đặt lệnh sai của nhân viên công ty CK cho khách hàng như nhầm lệnh bán thành
lênh mua hoặc sai giá đặt mua hoặc bán CK. Có thể chỉ ra đây một trường hợp
thường xảy ra trên thị trường giao dịch tập trung mà biện pháp thương lượng được sử
dụng rất hiệu quả: ông A đặt lệnh mua CK Hapaco (niêm yết tại Trung tâm giao
dịch CK HCM) tại Cơng ty CK Hải Phịng với giá 65.000đ/cp nhưng nhân viên của
công ty đã nhập lệnh nhầm thành 56.000đ/cp. Tại phiên giao dịch, lệnh mua của ông
A không được khớp do mức giá đặt mua quá thấp, kể cả trong trường hợp lệnh đặt
mua không bị nhầm. Mâu thuẫn phát sinh khi ông A cho rằng công ty đã không thực
hiện đúng nghĩa vụ giao kết trong hợp đồng môi giới CK. Trong trường hợp này, hai
bên đều mong muốn TC được giải quyết trong hịa bình nên thương lượng là biện
pháp phù hợp nhất, bởi lẽ bên bị vi phạm chưa bị thiệt hại đáng kể còn bên vi phạm
muốn tiếp tục duy trì quan hệ và bảo vệ uy tín của mình. Theo đó, cơng ty CK có thể
thỏa thuận dành cho ơng A mức phí dịch vụ ưu đãi trong khoảng thời gian nhất định
như một cách bồi thường. Nhìn chung, thương lượng phù hợp để giải quyết các TC
không phức tạp, giá trị TC thấp và các bên đều có thiện chí muốn duy trì mối quan hệ
hợp tác sẵn có.

Hồ giải là một trong những phương thức được ưa chuộng, có thể áp dụng khi
các bên khỏng đồng ý thương krợng hoặc quá trình thương lượng khơng đạt kết quả.


21

Hình thức hồ giải phải có sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian, có nhiệm vụ
giúp đỡ, hỗ trợ các bên trong quá trình đàm phán để nhanh chóng tìm ra giải pháp
thích hợp. Xem xét các văn bản pháp lý cao nhất về CK và TTCK từ trước đến nay
cho thấy, pháp luật luôn ghi nhận vai trị trung gian hồ giải của Sở giao dịch CK,
Trung tâm giao dịch CK đối với những TC liên quan đến hoạt động giao dịch CK.
Đây là điểm đặc thù trong pháp luật về giải quyết TC trên TTCK ở Việt Nam nói
riêng và pháp luật các nước nói chung.
Trên thế giới, tuỳ theo điều kiện cụ thể mỗi nước mà pháp luật có sự điều
chỉnh khác nhau nhưng xu hướng chung đều ghi nhận thương lượng, hoà giải là
phương thức giải quyết mang tính tự nguyện. Mỹ được coi là nước có TTCK lâu đời
và phát triển nhất hiện nay, trong đó phải kể đến thị trường giao dịch tập trung
NYSE và thị trường giao dịch OTC NASD. Quy tắc giải quyết TC tại hai thị trường
này đều thừa nhận thương lượng, hoà giải là cách giải quyết hồn tồn tự ngun,
khơng bắt buộc đồng thời mỗi sở đều đưa ra chương trình hồ giải riêng, phù hợp
với điều kiện của mình. Thương lượng, hồ giải được đề cập ở trên với tư cách là
biện pháp ngoài tố tụng, tức là được thực hiện trước khi các bên đưa đơn kiện ra
trọng tài hoặc toà án. Bên cạnh đó, pháp luật một số nước lại nhìn nhận hồ giải với
tư cách biện pháp bắt buộc trong thủ tục tố tụng. Quy chế Sở giao dịch CK Kuala
Lumpur (Malayxia) quy định, “khi Sở giao dịch chấp nhận giải quyết TC giữa các
bên liên quan thì các bên phải tự hồ giải trong vịng 30 ngày kể từ ngày có thông
báo chấp thuận giải quyết TC của Sở giao dịch. Chỉ sau khi các bên khơng thể thoả
thuận được thì Sở giao dịch mới chỉ định trọng tài viên để giải quyết”07, ,rl74).

2.1.2 Vai trị trung gian hồ giải của sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm

giao dịch chứng khoán
TTCK là sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường. Để đảm bảo chất lượng
hòa giải các TC phát sinh trên thị trường, địi hỏi đội ngũ hồ giải viên ngoài kinh
nghiệm đàm phán, nghệ thuật thuyết phục, sự nhiệt tình, trung thực phải có sự am
hiểu nhất định về lĩnh vực CK và TTCK. Xuất phát từ yêu cầu này, pháp luật đã ghi
nhận vai trò trung gian hòa giải của một số tổ chức hoạt động trên TTCK, bao gồm
Trung tâm giao dịch CK và Sở giao dịch CK, tại các văn bản có hiệu lực pháp lý cao
nhất về TTCK. Nghị định số 144/2003/NĐ-CP quy định một trong những nhiệm vụ,
quyền hạn của Trung tâm giao dịch CK là làm trung gian hòa giải theo yêu cầu khi


×