TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ.
1.1 Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ chủ yếu của nó.
1.1.1 Định nghĩa Ngân hàng thương mại.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM, theo luật Ngân hàng của
Pháp năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng được coi là những xí nghiệp hay cơ sở
hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình
thức khác những khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết
khấu, tín dụng hoặc nghiệp vụ tài chính”. Theo luật Ngân hàng của Ấn Độ: “Ngân
hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư”. Ở Việt
Nam, để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các Ngân hàng và Tổ chức
tín dụng tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp
pháp của các cá nhân. Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam có nêu: “Tổ
chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quyết định của luật này và các
quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ Ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
Mặc dù, có nhiều cách thể hiện khác nhau nhưng khai thác nội dung ta có
thể nhận thấy các ngân hàng đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký
thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác của ngân hàng.
1.1.2. Đặc trưng của Ngân hàng thương mại.
Khác với doanh nghiệp, NHTM không trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hoá nhưng nó góp phần phát triển nền kinh tế xã hội thông
qua việc cung ứng nguồn tín dụng cho nền kinh tế, thực hiện chức năng là trung
gian thanh toán và dịch vụ Ngân hàng. Đặc trưng hoạt động của NHTM bao gồm:
- Là chủ thể thường xuyên nhận tiền và kinh doanh tiền gửi.
- Hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và
hoạt động thanh toán của mối quốc gia.
- Hoạt động của NHTM đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn.
1.1.3.Các nghiệp vụ thanh toán quốc tế của NHTM.
Bên cạnh những nghiệp vụ truyền thống của một ngân hàng, NHTM còn có
những nghiệp vụ thanh toán quốc tế của một ngân hàng hiện đại:
- Nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong ngoại thương.
Thanh toán quốc tế trong ngoại thương là việc chi trả tiền, hàng hoá, dịch vụ
đối với nước ngoài phát sinh từ các hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ theo hệ
thống giá cả quốc tế, được thực hiện theo những quy tắc nhất định hoặc theo tập
quán thương mại quốc tế. Các hoạt động thanh toán quốc tế đều được thực hiện
thông qua các hình thức thanh toán cụ thể do các chủ thể thanh toán lựa chọn và
có sự tham gia thanh toán của các ngân hàng ở các nước.
- Nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu và tín dụng quốc tế của NHTM.
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu về thị
trường tiêu thụ hàng hoá và thị trường đầu tư ngày càng mở rộng, xuất nhập khẩu
trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng của mỗi một quốc gia. Do khả năng tài chính
là có hạn nên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng có đủ khả
năng để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc có đủ vốn để thu mua hàng xuất khẩu. Từ
đó nảy sinh hình thức tài trợ của ngân hàng đối với hoạt động XNK.
- Các nghiệp vụ thanh toán khác.
Ngoài hai nghiệp vụ thanh toán chủ yếu trên các ngân hàng còn thực hiện
các nghiệp vụ thanh toán khác nhằm đa dạng hoá các hoạt động, phân tán rủi ro,
tăng lãi suất, tận dụng lợi thế là một trung gian tài chính. Các hoạt động này được
thực hiện trên thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán và trong nhiều lĩnh vực
khác.
1.2 Phương thức thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, nảy sinh trên cơ
sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với
tổ chức cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua
quan hệ giữa các ngân hàng có liên hệ.
1.2.2 Vai trò của thanh toán quốc tế.
Các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ không bao giờ tách rời
nhau mà chúng thường có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Xuất khẩu là hành vi nội
tệ biến thành hàng nhập khẩu để lấy ngoại tệ và nhập khẩu lại hành vi ngoại tệ
chuyển hoá thành hàng nhập khẩu. Toàn bộ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
của một nước tạo thành một chu kỳ khép kín, chu kỳ có dạng: “Nội tệ - Ngoại tệ -
Hàng nhập khẩu”. Đó là mối quan hệ giữa hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá nhập
khẩu, giữa nội tệ và ngoại tệ. Các quan hệ hàng hoá và tiền tệ nói trên chỉ có thể
được thực hiên thông qua trao đổi quốc tế.
Để đảm bảo việc thu chi ngoại tệ có kết quả tốt, các nhà kinh doanh đều
phải thành thạo phương thức thanh toán quốc tế vì thanh toán quốc tế là việc chi trả
tiền tệ giữa các đối tác thuộc các nước khác nhau trong quan hệ mua bán quốc tế.
Trong buôn bán, dù tồn tại dưới bất kì hình thức nào cũng luôn tồn tại một
mâu thuẫn đó là người nhập khẩu muốn nhận được hàng hoá trước khi trả tiền, còn
người xuất khẩu lại muốn có tiền rồi mới giao hàng. Vì vậy trong buôn bán quốc tế
cũng vậy việc giải quyết mâu thuẫn này càng cần thiết hơn vì khoảng cách về địa
lý, thông tin, không gian giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.
Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ còn có một ưu điểm là cả
các doanh nghiệp mới bước vào kinh doanh xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp
đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực này đều có thể sử dụng một cách hiệu quả.
1.2.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu.
Trên thực tế có rất nhiều phương thức thanh toán quốc tế khác nhau. Dưới
đây là một số phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu mà các NHTM Việt Nam
đang áp dụng:
- Phương thức chuyển tiền - Remittance
Chuyển tiền là phương thức thanh toán quốc tế đơn giản nhất, thanh toán
trực tiếp giữa hai bên, ngân hàng đóng vai trò trung gian. Đó là việc người trả
tiền yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người
nhận theo giấy ủy nhiệm. Phương thức chuyển tiền bao gồm : Điện báo, thư
chuyển tiền. Hình thức thanh toán này có thời gian thực hiện và độ an toàn khác
nhau nên chi phí cũng khác nhau.
• Các bên tham gia trong hình thức chuyển tiền:
Người chuyển tiền là người yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển tiền ra
nước ngoài.
Người thụ hưởng là người nhận tiền do người chuyển tiền chỉ định.
Ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng thực hiện yêu cầu chuyển tiền, thường
là ngân hàng ở nước người chuyển tiền.
Ngân hàng trung gian (nếu có) là ngân hàng chỉ định giữa ngân hàng
chuyển tiền và ngân hàng nhận tiền.
Ngân hàng nhận tiền là ngân hàng phục vụ người thụ hưởng.
Nhược điểm của phương thức chuyển tiền là việc chi trả tiền cho người bán
phụ thuộc hoàn toàn vào người mua.Do đó, quyền lợi của bên bán không được bảo
đảm. Ngược lại, bên bán nhận được tiền trước thì bên mua lại phải chịu rủi ro là
không nhận được hàng hoặc hàng không đúng theo hợp đồng. Ở phương thức
thanh toán này, ngân hàng chỉ là người trung gian thực hiện việc thanh toán để
hưởng thủ tục phí (hoa hồng) và không bị ràng buộc gì cả. Người ta thường áp
dụng phương thức thanh toán này trong thanh toán các khoản tương đối nhỏ như
thanh toán chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu: chi phí vận chuyển, bảo hiểm,
bồi thường thiệt hại hoặc trong thanh toán phi mậu dịch, chuyển vốn, chuyển lợi
nhuận đầu tư về nước...
- Phương thức nhờ thu - Collection.
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán mà người bán hoàn
thành xong nghĩa vụ giao hàng thì lập hối phiếu gửi đến ngân hàng nhờ thu hộ số
tiền ghi trên hối phiếu. Trong trường hợp này ngân hàng đóng vai trò trung gian
giúp thu hộ tiền và được hưởng tỉ lệ phần trăm trên số tiền thu được. Có hai loại
nhờ thu: nhờ thu phiếu trơn (Clean collection) và nhờ thu kèm chứng từ
(Documentary collection).
Nhờ thu trơn là phương pháp mà người bán nhờ ngân hàng thu hộ số tiền hối
phiếu ở người mua nhưng không kèm theo điều kiện gì cả. Phương thức này không
đảm bảo quyền lợi cho bên bán bởi vì giữa việc nhận hàng và thanh toán của người
mua không có một sự ràng buộc nào. Người mua có thể nhận hàng rồi không chịu
thanh toán hoặc kéo dài thời gian thanh toán.
Nhờ thu kèm chứng từ khác với nhờ thu trơn là phương thức thanh toán mà
người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng thì lập bộ chứng từ thanh toán
nhờ thu (chứng từ gửi hàng và hối phiếu) và nhờ ngân hàng thu hộ tiền tờ hối
phiếu đó, với điều kiện là người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền thì ngân hàng
mới trao toàn bộ chứng từ gủi hàng cho người mua để họ nhận hàng, (nếu là
phương thức D/P, Documentary against Payment - Trả tiền trao chứng từ) hoặc ký
chấp nhận trả tiền (nếu là phương thức D/A, Documentary against Acceptance -
Chấp nhận trả tiền trao chứng từ). Như vậy, so với nhờ thu trơn, phương thức này
đảm bảo quyền lợi cho bên bán hơn vì đã có sự ràng buộc chặt chẽ giữa việc thanh
toán tiền và việc nhận hàng của người mua.
Nhược điểm của phương thức nhờ thu là người bán thông qua ngân hàng
mới chỉ khống chế được quyền định đoạt hàng hoá của người mua chứ chưa khống
chế được việc trả tiền của người mua, người mua có thể kéo dài thời gian thanh
toán bằng việc chưa nhận chứng từ sớm hoặc người mua gặp những khó khăn về
tài chính chưa thể thanh toán ngay hoặc người mua có thể không trả tiền nếu tình
hình thị trường bất lợi cho họ. Ngoài ra, việc trả tiền còn quá chậm, kể từ khi giao
hàng đến khi được thanh toán có thể kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng năm. Ở
phương thức thanh toán này, ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian thu
tiền hộ.
- Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ - Documentary credit.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một
ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu
cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người
hưởng số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát
trong phạm vi số tiền đó, khi người này xuất trình cho Ngân hàng một bộ chứng từ
thanh toán, phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.( giáo trình kĩ
thuật kinh doanh xuất nhập khẩu, KTQD).
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức phổ biến nhất
được các bên tham gia hợp đồng ngoại thương ưa chuộng vì đây là phương thức
thanh toán đảm bảo quyền lợi cho cả người bán và người mua. Hiện nay ở Việt
Nam và các nước đang phát triển, tỷ trọng thanh toán bằng L/C chiếm khoảng 80%
trong tổng kim ngạch hàng hoá XNK.
2. NỘI DUNG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA
NHTM.
2.1. Khái niệm, đặc điểm phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
2.1.1. Khái niệm.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận mà trong
đó, một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng
(người xin mở thư tín dụng) cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho một người
thứ ba (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do
người thứ ba ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người thứ ba này xuất trình
cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp những quy định đề ra trong
thư tín dụng.( giáo trình kĩ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu).
2.1.2. Đặc điểm.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary Credit - D/C) được
thực hiện thông qua một công cụ hết sức quan trọng đó là thư tín dụng (Letter of
Credit - L/C) nó quyết định đến sự ra đời tồn tại và phát triển của phương thức
thanh toán này. Trong “Quy tắc và thống nhất về tín dụng chứng từ” bản sửa đổi
năm 2006 số 600 của Phòng thương mại quốc tế (UCP 600) L/C có những đặc
điểm như sau:
- Hợp đồng mua bán là cơ sở để thiết lập thư tín dụng.
- Sau khi ra đời, thư tín dụng hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán.
Các bên tham gia trong Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
- Người xin mở thư tín dụng “The appicant for the credit” là nhà nhập khẩu,
người mua.
- Người hưởng lợi thư tín dụng (the beneficiary) là người bán, người xuất
khẩu do người xuất khẩu, người bán chỉ định.
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng (The Issuring Bank, The Opening
Bank) là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, cung cấp tín dụng cho người
nhập khẩu. Ngân hàng phát hành thường có địa điểm tại nước người nhập khẩu.
Nó chịu trách nhiệm phát hành L/C và chịu trách nhiệm trả tiền cho người thụ
hưởng
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng (The Advising Bank) là ngân hàng ở tại
nước người thụ hưởng. Nó đảm bảo quyền lợi và đại diện quyền lợi cho người bán.
Ngoài ra trong qúa trình thương lượng, phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ còn xuất hiện các bên:
+ Ngân hàng xác nhận L/C (The Confirming Bank) là ngân hàng đứng ra
xác nhận L/C do ngân hàng phát hành mở ra, xác nhận khả năng thanh toán của
ngân hàng phát hành hoặc xác nhận theo yêu cầu của người bán.
+ Ngân hàng thanh toán (The Paying Bank) xuất hiện khi ngân hàng phát
hành uỷ quyền cho nó và trách nhiệm của ngân hàng này cũng giống ngân hàng
phát hành.
+ Ngân hàng chiết khấu bộ chứng từ (The Negotiating Bank) là ngân hàng
có thể được thoả thuận hoặc không trong L/C, có nhiệm vụ đứng ra chiết khấu
hoặc mua lại tất cả các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát.
Trong thực tế, ngân hàng phát hành thường là ngân hàng thanh toán, ngân
hàng thông báo thường cũng đảm nhận việc chiết khấu và xác nhận (nếu có yêu
cầu của người thụ hưởng thông qua Ngân hàng phát hành).
2.2. Phương tiện được sử dụng trong thanh toán tín dụng chứng từ.
2.2.1 Các loại thư tín dụng.
Dưới đây là một số L/C đang được sử dụng rộng rãi hiện nay:
* L/C có thể huỷ ngang: Là loại L/C mà người mở (nhà nhập khẩu) có quyền
đề nghị ngân hàng phát hành sửa đổi, bổ sung, hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà
không cần có sự chấp thuận và thông báo trước của người thụ hưởng (nhà xuất
khẩu).
* L/C không thể huỷ ngang: Là loại L/C mà sau khi đã mở và nhà xuất khẩu
đã chấp nhận, thì ngân hàng phát hành không được sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ