Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NHNO VÀ PTNT CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.21 KB, 16 trang )

NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI
NHNO VÀ PTNT CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI
3.1. ĐỊNH HƯỚNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CHI
NHÁNH.
Hoạt động kinh doanh Ngân hàng luôn đúng trước những nguy cơ rủi ro và
tín dụng là một trong những lĩnh vực rủi ro cao nhất. Đối với các Ngân hàng
thương mại Việt Nam hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo chiếm tỷ trọng
từ 85 – 95% doanh thu nên việc đảm bảo tín dụng sẽ là vấn đề có tính quyết định
đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy mà việc nghiên
cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu
và là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi Ngân hàng
thương mại.
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH
Thông qua việc phân tích thực trạng tín dụng của chi nhánh Nam Hà Nội
trong chương 2 chúng ta thấy rằng tình trạng tín dụng tại chi nhánh trong thời gian
tới thực sự hiệu quả thì chi nhánh cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây:
3.2.1. Đối với công tác cho vay và thu nợ.
Đây là công tác quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của các khoản tín
dụng và sự tồn tại của Ngân hàng do vậy mục tiêu của chi nhánh Đống Đa ở đây
không chỉ là mở rộng doanh số cho vay mà phải thực hiện các khoản vay có hiệu
quả công tác này chi nhánh cần phải áp dụng các biện pháp như:
3.2.1.1. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngân hàng.
Trong hoạt động tín dụng có vô số các rủi ro khác nhau có thể dẫn đến việc
không trả được nợ khi đến hạn của khách hàng. Đều có thể đưa ra được quyết định
cho vay các nhà lãnh đạo ngân hàng phải cố gắng ước lượng những rủi ro không
hoàn trả. Rủi ro này có thể dự đoán được trong quá trình phân tích tín dụng hay
thẩm định tín dụng.
Thẩm định tín dụng là xác định khả năng hay ý muốn của người vay trong
việc hoàn trả tiền vay. Có rất nhiều yếu tố mà các Ngân hàng cần phải xem xét về
khả năng và sự sẵn lòng hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản trong hợp
đồng tín dụng. Trong đó còn chú ý tới 5 nhân tố quan trọng đó là: Năng lực, uy tín,


vốn, tài sản thế chấp, điều kiện hoạt động. Trong các nhân tố này uy tín nổi lên là
nhân tố quan trọng nhất bởi nhiều khoản tín dụng được cấp với hi vọng sẽ được
hoàn trả như thoả thuận.
Nếu như khâu thẩm định được thực hiện tốt thì các nhà quản trị ngân hàng
sẽ đưa ra được những quyết định đúng đắn. Tuy nhiên để làm được việc này các
nhà ngân hàng phải.
a. Thực hiện thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác.
- Về việc cho vay các doanh nghiệp
Đối với NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội hay bất kỳ Ngân hàng
thương mại nào thì việc thu thập, phân tích xử lý kịp thời chính xác các thông tin
về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp,
các thông tin về thị trường trước khi đưa ra quyết định cho vay luôn được coi trọng
hàng đầu trong công tác thẩm định. Các thông tin thu thập được dùng để đánh giá
chi phí tài sản, khả năng kiếm lời của người xin vay. Trong điều tra về đơn xin vay
của Doanh nghiệp. Ngân hàng cần phải biết về lịch sử của doanh nghiệp, sổ sách
kế toán. Mối quan hệ của người lao động, kinh nghiệm trong việc phát triển và đưa
vào thị trường các sản phẩm mới, nguồn gốc của doanh thu và lợi nhuận.
Ngân hàng cũng cần phải biết về bản chất của hoạt động của doanh nghiệp
những sản phẩm nào được buôn bán, sản xuất, những loại dịch vụ nào được đưa ra,
hàng hoá nào là chính, là phụ, phục vụ tiêu dùng hay sản xuất, xa xỉ hay thiết yếu -
đó sẽ là những thông tin có giá trị. Ngoài ra Ngân hàng cũng cần thu thập các
thông tin về tính ổn định của nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường nơi doanh
nghiệp cung ứng sản phẩm. Các điều khoản mua bán, phương pháp phân phối lợi
nhuận v.v…
- Về cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất:
Nguồn thông tin thu thập chủ yếu ở đây là: Tên tuổi, địa chỉ của chủ hộ (cá
nhân), trình độ học vấn, đạo đức, tính thật thà siêng năng, các tệ nạn như nghiện
rượu, nghiện hút… kinh nghiệm quản lý, tài sản hiện có, tình trạng gia đình (số lao
động, số nhân khẩu), đối tượng xin vay vốn, diện tích canh tác, mức thu nhập bình
quân/ tháng và một số tình hình khác…

Trên cơ sở thông tin đã thu thập được tiến hành xử lý và phân tích các thông
tin đó một cách chính xác và khoa học để từ đó đưa ra những quyết định chính xác.
b. Phân tích tài chính đơn vị vay vốn.
Việc thường xuyên phân tích tài chính đơn vị (cá nhân) vay vốn, để hiểu rõ
về năng lực tài chính của đơn vị (cá nhân) đó từ đó làm cơ sở đưa ra những phán
quyết tín dụng là việc làm hết sức cần thiết. Đặc biệt đối với các đơn vị vay vốn thì
phải phân tích tình hình hoạt động của đơn vị từ đó biết được tình hình tài chính,
khả năng trả nợ của người xin vay, các khoản thu, chi của đơn vị đó có hợp lý
không, biết được các khoản phải trả, các khoản phải thu để có thể tính được các
khoản mà đơn vị có thể trả trong tương lai cho Ngân hàng … Chính vì vậy các cán
bộ tín dụng cần đi sâu phân tích các khoản phải trả, doanh thu, chi phí, lợi nhuận,
khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Đồng thời tính toán được hệ thống các chỉ
số, đặc biệt chú trọng các chỉ số đánh giá khả năng thanh toán, hệ thống tài trợ
vốn…
Nên duy trì phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của đơn vị
vay vốn 6 tháng một lần để kịp thời phân loại khách hàng cho từng thời kỳ, từ đó
có định hướng đầu tư và có cơ chế ưu đãi phù hợp.
c. Đánh giá tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và trình độ của
người điều hành.
Dựa vào hồ sơ xin vay của khách hàng và các thông tin thu thập được từ các
nguồn khác nhau Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá phương án sản xuất mà khách
hàng sử dụng vốn vay để đầu tư. Bởi phương thức kinh doanh có khả thi, có triển
vọng tốt sẽ phần nào đảm bảo vốn vay của Ngân hàng chắc chắn được hoàn trả.
Hơn nữa sự thành công hay thất bại của phương thức kinh doanh có khả thi, có
triển vọng tốt sẽ phần nào đảm bảo vốn vay của Ngân hàng chắc chắn được hoàn
trả. Hơn nữa sự thành công hay thất bại của phương án sản xuất phụ thuộc rất
nhiều vào kỹ năng, trình độ và kinh nghiệm của người quản lý. Trong bất kỳ tình
huống khó khăn nào xẩy ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với một
người quản lý năng động, sáng tạo và có kinh nghiệm sẽ có thể giải quyết một cách
nhanh chóng, có hiệu quả. Đây có thể coi là một yếu tố quan trọng không thể thiếu

được trước khi xem xét có cho vay hay không.
3.2.1.2. Xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý.
Khi quyết định cho vay đối với các doanh nghiệp, cán bộ tín dụng cùng với
doanh nghiệp cần phải xác định kỳ hạn trả nợ hợp lý phù hợp với đặc điểm sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Về nguyên tắc; Kỳ hạn nợ phải được xác định theo thời gian luân chuyển
vốn. Nếu kỳ hạn nợ nhỏ hơn thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra sự gấp gáp cho
khách hàng trong việc trả nợ, khiến cho doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn vốn
ngắn hạn hoặc dài hạn của đối tượng khách để hoàn trả, tạo nên sự rối loạn trong
cơ cấu vốn của doanh nghiệp, nhiều khi làm tăng chi phí vốn. Ngược lại xác định
kỳ hạn nợ quá thời gian luân chuyển vốn sẽ tạo ra khả năng sử dụng vốn vào mục
đích khác, vận động của vốn tín dụng sẽ thoát ra khỏi chu kỳ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và sự kiểm soát của Ngân hàng. Do đó việc xác định kỳ hạn nợ
hợp lý là yếu tố quyết định đến việc khách hàng có trả nợ Ngân hàng khi đến hạn
hay không.
• Đối với các khoản vay ngắn hạn:
Kỳ hạn nợ ban đầu: Được xây dựng trên cơ sở chu kỳ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Ngân hàng căn cứ vào một năm doanh nghiệp quay được mấy
vòng vốn tức là xác định một vòng quay vốn của doanh nghiệp là mấy tháng và lấy
số tháng đó để định ra kỳ hạn trả nợ. Muốn làm được điều này một mặt các doanh
nghiệp phải cung ứng đầy đủ số liệu để cùng với Ngân hàng xác định kỳ hạn trả nợ
chính xác hoặc bản thân doanh nghiệp phải tự tính các khoản và thu được trong
tương lai để lên kế hoạch trảnợ Ngân hàng vì nếu không trả đúng hạn. Do đó
không chỉ Ngân hàng bị rủi ro là không thu được vốn mà doanh nghiệp đương
nhiên bị tăng chi phí do phải trả lãi suất cao hơn cho Ngân hàng.
Kỳ gia hạn nợ: Không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng được gia hạn nợ
mà Ngân hàng chỉ nên gia hạn cho các doanh nghiệp thực sự khó khăn hoặc doanh
nghiệp phải chứng minh cho Ngân hàng thấy được là có những khoản thu mà
doanh nghiệp chắc chắn sẽ thu được trong tương lai và Ngân hàng phải đàm phán
với doanh nghiệp chắc chắn về kỳ hạn tới. Tuy nhiên việc làm này đòi hỏi cán bộ

tín dụng phải khéo léo trong quan hệ với khách hàng làm sao cho khách hàng phải
thành thực với những yêu cầu của Ngân hàng nhiều lần không trả được nợ thì
chuyển sang nợ quá hạn để có biện pháp xử lý.
• Đối với những khoản vay trung và dài hạn:
Khi tính toán thời hạn trả nợ cuối cùng mà chưa hết thời hạn tối đa cho phép,
thì thời gian gia hạn được phép tối đa bằng thời gian còn lại.
VD: Thời gian cho vay dài hạn tối đa 10 năm. Nhưng khi tính toán dự án
cho vay thời gian thu hồi vốn là 7 năm. Nếu thực tế khách hàng cần gia hạn nợ
Ngân hàng có thể xem xét kéo dài thêm 3 năm nữa.
3.2.1.3. Thực hiện nghiêm túc các thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành và giải quyết
cho vay theo đúng quy trình công việc.
• Quy chế, thể lệ tín dụng:
Trong những năm gần đây thể lệ, chế độ tín dụng của NHNN luôn luôn được
bổ sung, thay đổi để phù hợp với chính sách đổi mới và nền kinh tế thị trường. Vì
vậy trong thực tiễn giải quyết công việc cán bộ làm công tác tín dụng khó có thể
nắm vững được hết những văn bản pháp quy trong lĩnh vực này đang còn hiệu lực
hoặc các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến công tác tín dụng và
khó lường trước được những nội dung trong văn bản pháp quy mâu thuẫn hoặc phủ
nhận lẫn nhau. Thực trạng này đang là một trong những khó khăn, lúng túng cho
cán bộ làm công tác tín dụng.
Chính vì vậy trong điều kiện kinh tế xã hội và pháp luật hiện nay, cần phải
coi trọng việc vận dụng các văn bản pháp quy vào thực tiễn cho phù hợp với tình
hình từng khách hàng. Ngoài ra cần phải giữ vững phó phòng tín dụng tái thẩm
định, lãnh đạo quyết định. Giải quyết công việc theo quy trình này sẽ đảm bảo thực
hiện được dân chủ, phân định rõ ràng trách nhiệm và kiểm tra, kiểm soát đảm bảo
an toàn tín dụng.
Song để thực hiện nghiêm túc các thể lệ chế độ tín dụng thì ngoài việc giáo
dục đào tạo ý thức cho cán bộ tín dụng, cần phải nâng cao công tác kiểm tra, kiểm
soát việc chấp hành thể lệ, chế độ từ đó quy trách nhiệm thưởng phạt nghiêm minh,
rõ ràng.

• Quy chế, thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản:

×