Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN Phân tích vị trí, vai trò của thành phần kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay và giải pháp thúc đẩy thành phần kinh tế này phát triển dựa trên đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường của Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.28 KB, 27 trang )

Mục Lục
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1.

Lí do chọn đề tài............................................................................................1

2.

Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận..............................................................1

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận............................................2

4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu....................................................2

5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận.................................................3

6.

Kết cấu của tiểu luận.....................................................................................3

CHƯƠNG 1. THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY....................4
1.1. Khái niệm chung về thành phần kinh tế nhà nước:......................................4
1.1.1. Phân loại kinh tế nhà nước:......................................................................5
1.2. Sự hình thành và phát triển kinh tế nhà nước ở Việt Nam...........................6
1.2.1. Giai đoạn 1945-1960..................................................................................7


1.2.2. Giai đoạn từ 1960-1975..............................................................................8
1.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến đầu những năm 80.................................................9
1.2.4. Giai đoạn từ 1980-1985..............................................................................9
1.2.5. Giai đoạn từ 1985-1990............................................................................10
1.2.6. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay................................................................10
CHƯƠNG 2. VỊ TRÍ THEN CHỐT, VAI TRỊ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH
PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.......................................................12
2.1. Vị trí, vai trị................................................................................................12
2.2. Tính tất yếu của vai trị, vị trí......................................................................13
2.3. Những biểu hiện vai trị chủ đạo của Nhà nước.........................................14
2.3.1. Làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng Nhà nước và
quản lí vĩ mơ........................................................................................................14
2.3.2. Làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vẫn đề xã hội......15
2.3.3. Mở đường hướng dẫn và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển......................................................................................................................16


Chương 3. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
DỰA TRÊN ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA
ĐẢNG.................................................................................................................17
3.1. Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 03/6/2017 “về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”:................................................................17
3.1.1. Nhận thức về quan điểm:...........................................................................17
3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp...............................................................18
3.2. Giải pháp thúc đẩy phát triển thành phần kinh tế nhà nước.........................18
3.2.1. Kinh tế.......................................................................................................18
3.2.2. Chính trị, pháp luật....................................................................................20
3.2.3. Xã hội........................................................................................................21
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….25
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...26



3


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế
nhiều thành phần. Đó là một tất yếu khách quan và cần thiết. Đại hội XII đã có
bước phát triển mới rất rõ nét, xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau: "Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".Trong khi khẳng định nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế thì cũng xác định: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Kinh tế nhà nước gồm nguồn lực nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Doanh
nghiệp nhà nước, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo
pháp luật.Và để tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường này, Nhà nước cần đưa
ra các giải pháp thúc đẩy nền kinh tế thị trường là việc cần thiết. Vì vậy, chúng
tơi đã chọn đề tài: “Phân tích vị trí, vai trị của thành phần kinh tế nhà nước
ở Việt Nam hiện nay và giải pháp thúc đẩy thành phần kinh tế này phát
triển dựa trên đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường của Đảng.” để làm
tiểu luận kết thúc môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
Mục đích:

- Tìm hiểu về thành phần kinh tế nhà nước hiện nay.
- Tìm hiểu và phân tích vị trí, vai trị của các thành phần kinh tế nhà nước
hiện nay.


Từ việc tìm hiểu và phân tích đó, nghiên cứu và đưa ra giải pháp thúc đẩy
các thành phần kinh tế này phát triển theo đường lối xây dựng nền kinh tế thị
trường .
Nhiệm vụ:
Để đạt được những mục đích nêu trên, tiểu luận cần thực hiện một số
nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Trình bày được thành phần kinh tế nhà nước
- Trình bày, làm rõ được vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế nhà nước
hiện nay
- Đưa ra giải pháp thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế này
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Đối tượng nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu về những nội dung cơ bản về thành phần kinh tế nhà
nước ở Việt Nam, tiểu luận đi sâu nghiên cứu và phân tích vị trí, vai trị của của
các thành phần kinh tế đó cùng với giải pháp thúc đẩy phát triển
Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận tâp trung nghiên cứu vào sự phát triển của các thành phần kinh tế
nhà nước dựa trên đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc; các quan điểm, chủ trương, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng hai phương pháp nghiên

cứu chủ yếu là phương pháp lôgic. Bên cạnh đó, chúng tơi cịn sử dụng các
phương pháp khác như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp.


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
Tiểu luận góp phần làm rõ các nội dung cơ bản của thành phần kinh tế nhà
nước về vị trí, vai trò.
Đánh giá các thành phần kinh tế nhà nước nay, đề ra các giải pháp thúc đẩy
sự phát triển của thành phần kinh tế.
Ngồi ra, tiểu luận cịn có thể là tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về
thành phần kinh tế nhà nước hiên nay.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được
chia làm 3 chương.
Chương 1: Thành phần kinh tế nhà nước hiện nay
Chương 2: Vị trí then chốt, vai trị chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
hiện nay.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy thành phần kinh tế nhà nước dựa trên đường
lối xây dựng nền kinh tế thị trường của Đảng.


1.1.

CHƯƠNG 1
THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
Khái niệm chung về thành phần kinh tế nhà nước:
Để hiểu đầy đủ về thành phần kinh tế nhà nước, trước hết ta phải tìm hiểu

thành phần kinh tế nhà nước là gì và thành phần kinh tế nhà nước xuất hiện ở
nước ta khi nào. Là một nước đi sau trong tiến trình xây dựng Chủ Nghĩa Xã

Hội, chúng ta được học hỏi rất nhiều kinh nghiệm từ những nước đi trước mà
tiên phong là Nga (Liên Xô cũ). Từ luận điển Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ - đó phải là nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và nhà nước ta đã áp
dụng vào thực tiển ở nước ta và đưa ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa
phần mang tính đặc trưng của thời kỳ giao thời giữa kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa
và Xã Hội Chủ Nghĩa.
Trước hết ta hiểu thế nào là một thành phần kinh tế? Thành phần kinh tế
hay đơn vị kinh tế hay đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân là một kiểu
tổ chức kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định có quan hệ quản lý và
quan hệ phân phối riêng của nó. Trong nền kinh tế nước ta có ba hình thức sở
hữu cơ bản là: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ đó mà
hình thành nên các thành phần kinh tế khác nhau. Thành phần kinh tế nhà nước
đã xuất hiện như thế nào trong nền kinh tế Việt Nam? Ta sẽ trở lại từ những
ngày đầu giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào xã hội mới với
một nền kinh tế mới. Đảng ta đã lãnh đạo nhân xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh”. Để xây dựng nền chính trị xã hội chủ nghĩa thì địi
hỏi phải có nền kinh tế đặc trưng cho hình thái chính trị ấy - một nền kinh tế có
thành phần chính hình thành trên chế độ cơng hữu. Trong lúc bấy giờ, nền kinh
tế Việt Nam dựa trên chế độ tư hữu, đó là sở hữu tư nhân của những người sản
xuất nhỏ và sở hữu tư nhân của chủ nghĩa tư bản. Đối với hình thức này, Nhà
nước đã tiến hành cải tổ, sắp xếp để phát triển thành phần kinh tế cá thể tiểu thủ
công nghiệp và thành phần kinh tế tư bản tư nhân - là đại diện của quan hệ sản
xuất cũ chủ nghĩa tư bản. Vậy để xây dựng một nền kinh tế mới xã hội chủ


nghĩa, nhà nước đã đầu tư xây dựng các doanh nghiệp của mình trong các
nghành kinh tế, kết quả là hình thành nên một thành phần kinh tế mới – kinh tế
nhà nước. Từ đó ta khái niệm được thành phần kinh tế nhà nước là gì? Đó là
thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước). Việc tổ chức

kinh doanh tiến hành theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế và thực hiện phân phối
theo lao động. Như vậy, đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế nhà nước với
các thành phần kinh tế khác đó là hình thức sở hữu và nguồn vốn hình thành. Có
thể tồn bộ vốn đều thuộc sở hữu nhà nước hoặc có thể phần vốn đóng góp của
nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế (>50% vốn).
1.1.1. Phân loại kinh tế nhà nước:
Kinh tế nhà nước bao gồm ba thành phần cơ bản đó là: các doanh nghiệp
nhà nước, các tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
*Về Doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước hoặc
Doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ trọng chi
phối. Trong ba nhân tố cấu thành kinh tế nhà nước ở trên thì doanh nghiệp nhà
nước là nhân tố (hay thành phần) giữ tỷ lệ cao nhất và vai trò quan trọng nhất
trong việc đảm bảo cho kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi đề cập đến vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước
thì người ta thường đề cập đến doanh nghiệp nhà nước là chủ yếu. Ngay trong
nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX về tiếp
tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Hội nghị đã khẳng định rõ quan điểm “kinh tế nhà nước có vai trị quan trọng
trong việc giữ vững định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. doanh nghiệp nhà nước giữ
vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nịng cốt, góp phần quan trọng để
kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Doanh nghiệp nhà nước cũng được chia ra làm hai
loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và hoạt động cơng ích. Cả hai loại


doanh nghiệp này đều mang các đặc điểm của các thành phần của kinh tế nhà
nước và thông thường chúng được chia làm hai loại nhỏ: các doanh nghiệp do
nhà nước giữ 100% và một loại doanh nghiệp do nhà nước giữ cổ phần chi

phối.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là
nhằm thu lợi nhuận.Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phối hoặc
100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mà
nhà nước cần nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh thơng thường là những doanh nghiệp có quy mơ lớn có đóng
góp lớn cho ngân sách nhà nước, phải ln luôn đi đầu trong ứng dụng kỹ thuật
- công nghệ

hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân.

Còn các doanh nghiệp hoạt động cơng ích là những doanh nghiệp hoạt động
khơng vì mục đích lợi nhuận, có thể khơng có thu mà nhà nước cấp kinh phí - đó
là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hố cơng cộng, dịch vụ cơng như : An
ninh, quốc phịng, giao thông, giáo dục, y tế…
*Về các tổ chức kinh tế nhà nước:
Các tổ chức kinh tế nhà nước là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng
quản lý (kiểm tra, kiểm sốt) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà
nước, các quỹ dự trữ quốc gia…các tổ chức này có thể do nhà nước cung cấp
100% vốn hoặc giữ một phần vốn cố định để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho
các tổ chức này. Thành phần này cũng có nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
*Về các tài sản thuộc sở hữu nhà nước:
Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là
thành phần của kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do
quuền sở mang lại như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên,…
1.2. Sự hình thành và phát triển kinh tế nhà nước ở Việt Nam



Sau cách mạng tháng tám nước ta quá độ từ chế độ nửa phong kiến thực
dân lên XHCN bỏ qua giai đoạn TBCN. Với chủ nghĩa Mác Lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh là kim chỉ nam.
Cùng với cơng cuộc xây dựng đất nước. Kinh tế nhà nước đã được ra đời
với mục đích:
- Quốc hữu hố Xã Hội Chủ Nghĩa. Xố bỏ tồn diện triệt để chế độ tư hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tịch thu, quốc
hữu hố đất đai tài sản của địa chủ, tư bản. Thực nguyên tắc tài sản thuộc về giai
cấp công dân và nhân dân lao động.
- Cải tạo XHCN: cải tạo, xoá bỏ tàn dư của chế độ cũ xây dựng một Nhà
nước của dân do dân và vì dân.
- Đầu tư xây dựng mới: trong giai đoạn qua độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội thì
kinh tế nhà nước là lực lượng lịng cốt chủ lực đi đầu trong công cuộc công
nghiệp háo hiện đại hoá đất nước, xây dưng cơ sở vật chất cho XHCN.
Từ đó đến nay kinh tế nhà nước ở Việt Nam đã được hình thành và phát
triển qua các giai đoạn:
1.2.1. Giai đoạn 1945-1960
Sau khi hồ bình lặp lại ở miền Băc, Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn con
đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng
miền Nam. Theo chủ trương đó cơng cuộc cải tạo XHCN bắt đầu được thực hiện
ở miền Bắc với nhiệm vụ thủ tiêu kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể.điều đó đã dẫn đễn việc thu hẹp và xoá bỏ kinh tế tư nhân và
chuyển sang hình thức sở hữu tồn dân, xây dựng các xí nghiệp quốc doanh, tiến
hành hợp tác hố nơng nghiệp và sản xuất nhỏ ở thành thị. Kết quả đến năm
1960 đã có:
-Trong cơng nghiệp:
+ Số xí nghiệp quốc doanh thuộc kinh tế nhà nước: 1012


+ Các xí nghiệp quốc doanh tạo ra 53,3% giá trị tổng sản lượng công

nghiệp.
– Trong nông nghiệp:
+ Số nông trường quốc doanh: 56
+ Sử dụng 74800 ha đất nông nghiệp.
+ Kinh tế quốc doanh tạo ra 2% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp.
– Thương nghiệp quốc doanh chiếm:
+ 93,6% tổng mức bán buôn.
+ 51% tổng mức bán lẻ.
Kinh tế quốc doanh đã thu hút và sử dụng lực lượng lao động gồm 477000
người. Như vậy, kinh tế quốc doanh từ chỗ rất nhỏ bé vươn lên trở thành lực
lượng kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Với chủ trương xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội, vai trò chủ đạo, chủ lực đã
được giao cho kinh tế quốc doanh.
1.2.2. Giai đoạn từ 1960-1975
Với chủ trương cơng nghiệp hố XHCN ở miền Bắc “ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý” nhà nước tiếp tục đầu tư xây dựng kinh tế
quốc doanh ngày càng lớn mạnh về số lượng. Bên cạnh các khu công nghiệp cũ
đã được cải tạo ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, 1 loạt các khu cơng nghiệp
mới ra đời như Thượng Đình, mỏ Minh Khai, Đơng Anh Hà Nội, Việt Trì, Thái
Ngun, Vinh…Trong giai đoạn này KTQD phát triển mạnh mẽ trong các ngành
điện lực, cơ khí, hố chất khai thác. Đến năm 1975 lĩnh vực sản xuất cơng
nghiệp đã có 1357 xí nghiệp quốc doanh, lĩnh vực sản xuất nơng nghiệp có 72
nơng trường quốc doanh, tổng số cán bộ cơng nhân viên là 1753400 người. Lực
lượng kinh tế quốc doanh đã cùng với kinh tế tập thể đã ra 84,4% thu nhập quốc
dân.


Xét trên phương diện kinh tế, vai trò của kinh tế quốc doanh trong giai
đoạn này được thể hiện không chỉ như là một công cụ quan trọng để nhà nước
thực hiện chủ trương cơng nghiệp hố XHCN ở miền Bắc theo hướng ưu tiên

phát triển công nghiệp nặng đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và chiến đấu cho
cả hậu phương và tiền tuyến mà còn như là một tấm gương phản ánh sự thành
cơng của q trình xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta. Còn xét trên phương
diện chính trị, xã hội, kinh tế quốc doanh luôn được quan niệmk là lực lượng
tiến bộ xã hội, là đội quân tiên phong trong việc tăng cường và mở rộng quan hệ
sản xuất mới và quan hệ sản xuất XHCN.
1.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến đầu những năm 80
Cùng với chủ trương tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất XHCN
và cơng nghiệp hố XHCN công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam đã làm cho số
lượng xí nghiệp quốc doanh ở tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp đều tăng lên một cách nhanh chóng, đến năm 1980 nước
ta đã có:
+ Cơng nghiệp: 2627 xí nghiệp quốc doanh.
+ Nông nghiệp: 232 nông trường quốc doanh.
+ Thương nghiệp: 10915 điểm bán hàng của thương nghiệp quốc doanh.
Trong giai đoạn này kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trị quan trọng trong
công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất
mới XHCN, cũng như trong công cuộc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, xét trên
giác độ kinh tế, sức đóng góp của kinh tế quốc doanh đã giảm so với trước. Đến
năm 1980 công nghiệp quốc doanh chỉ tạo ra được 68,6% giá trị tổng sản lượng
công nghiệp, thương nghiệp quốc doanh chiếm 29,8% tổng mức bán lẻ.
1.2.4. Giai đoạn từ 1980-1985
Trong những năm 1980-1985 mặc dù nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó
khăn so với trước, năng lực sản xuất của kinh tế quốc doanh nói riêng và sức sản
xuất xã hội nói chung khơng được sử dụng hết do thiếu vật tư một cách nghiêm


trọng song xuất phát từ quan niệm truyền thống về quan hệ sản xuất XHCN nên
các giải pháp tháo gỡ trong giai đoạn này vẫn tập trung chủ yêu vào cải tiến
quản lý đối với xí nghiệp quốc doanh. ở giai đoạn này cơ chế kế hoạch hoá tập

trung thuần tuý đã được cải tiến dần trên nguyên tắc phi tập trung hoá trong
quản lý kinh tế, song kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò tuyệt đối đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, các xí nghiệp quốc doanh nắm tồn bộ các
nghành then chốt như : điện, luyện kim, khai thác, xi măng, gang thép, hố chất
cơ bản…Tuy nhiên đóng góp của các xí nghiệp quốc doanh vào tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân đã giảm, tính đến năm 1985 kinh tế quốc doanh chỉ
tạo ra được 37% tổng sản phẩm xã hội và 28% thu nhập quốc dân.
1.2.5. Giai đoạn từ 1985-1990
Giai đoạn bắt đầu thực hiện đổi mới kinh tế, tư tưởng xây dựng một nền
kinh tế nhiều thành phần được đưa ra. Trong quá trình hình thành kinh tế nhiều
thành phần công tác quản lý kinh tế quốc doanh vẫn tiệp tục được cải tiến theo
hướng phi tập trung hoá, kế hoạch hoá và quản lý đối với kinh tế quốc doanh.
Điểm nổi bật trong cải tiến quản lý ở giai đoạn này là việc tách bạch giữa quyền
quản lý nhà nước về kinh tế và quyền quản lý sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, quan điểm mới nổi bật ở giai đoạn này là quan niệm không
phải nền kinh tế quá độ nên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta chỉ có kinh tế quốc
doanh, chủ trương của đảng và nhà nước ta không chỉ bó hẹp trong phạm vi cải
tiến quản lý đối với kinh tế quốc doanh mà còn phát huy sức sản xuất của kinh tế
tư nhân, cá thể cũng như các thành phần kinh tế khác. Trong cơ chế kinh tế mới
đó kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trị chủ đạo nhưng không phải độc tôn. Năm
1990, kinh tế quốc doanh tạo ra 66% tổng sản phẩm xã hội.
1.2.6. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Chúng ta khẳng định chủ trương lâu dài là xây dựng nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chủ
trương này được biến thành thực tế bởi q trình ban hành và hồn thiện hệ
thống luật pháp, đặc biệt là pháp luật về kinh tế, nhằm tạo ra hành lang pháp lý


thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là
doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân

thống nhất.
Đến năm 1996, Trong cơng nghiệp cịn 6032 doanh nghiệp nhà nước số
doanh nghiệp này tạo ra 41% GDP (doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo ra
59%). Trong cơ chế kinh tế mới doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo
và chủ lực: Trên giác độ kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nắm giữ toàn bộ những
ngành trọng yếu như điện, than sạch, thép cán, xi măng, dầu thô, giấy…
Như vậy, lịch sử phát triển của kinh tế nhà nước từ sau cách mạng tháng
tám đến nay đã hình thành một hệ thống doanh nghiệp nhà nước trên khắp đất
nước. Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước này nhiều về số lượng, nắm giữ các
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, sử dụng lực lượng lao động kỹ
thuật có trình độ cao, lực lượng doanh nghiệp nhà nước đã đóng vai trị rất quan
trọng, mở đường và hướng dẫn đối với việc phát triển nền kinh tế nước ta trước
đây và ngày nay. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống doanh nghiệp
nhà nước vẫn đóng vài trị chủ đạo đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.


CHƯƠNG 2
VỊ TRÍ THEN CHỐT, VAI TRỊ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH PHẦN KINH
TẾ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
2.1. Vị trí, vai trị
Văn kiện Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) chỉ
rõ: vai trị chủ đạo của khu vực doanh nghiệp Nhà nước “thể hiện ở chỗ mở
đường và hỗ trợ cho các thành phần khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng
nhanh và lâu bền của nền kinh tế, là một cơng cụ có sức mạnh vật chất của Nhà
nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
Văn kiện Đại hội VIII (1996) nêu cụ thể: “tiếp tục đổi mới và phát triển có
hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn,

hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để
Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế
độ xã hội mới”.
Văn kiện Đại hội IX (2001) lại nêu: “kinh tế nhà nước phát huy vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để
Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước
giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu
gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp
luật”.
Văn kiện Đại hội X (2006) một lần nữa khẳng định: “kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng
và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần
kinh tế cùng phát triển”.
Nhìn tổng quát từ sau Đại hội VII đến nay, quan niệm của Đảng ta về kinh
tế Nhà nước và về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường nước ta đã có sự phát triển đáng kể. Hai điểm nổi bật nhất là:


Một là, do có sự phân biệt giữa sở hữu Nhà nước với hình thức doanh
nghiệp Nhà nước và cũng do có sự phân biệt giữa quyền chủ sở hữu với quyền
kinh doanh trong doanh nghiệp Nhà nước mà chúng ta đã chuyển từ khái niệm
kinh tế quốc doanh sang khái niệm kinh tế Nhà nước.
Hai là, để tránh sự lẫn lộn trong nhận thức giữa vai trò chủ đạo của thành
phần kinh tế Nhà nước với vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước, pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, Đảng ta đã khẳng định rõ ràng rằng
thành phần kinh tế Nhà nước không lãnh đạo các thành phần kinh tế khác mà
“là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền
kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát
triển”.
2.2. Tính tất yếu của vai trị, vị trí

Nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng phổ biến của mọi nền
kinh tế thị trường. Khác nhau là ở chỗ trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa,
kinh tế tư nhân nói đúng hơn là kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị; còn
trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, như ở nước ta, thì kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể được
xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Do có sự nhầm lẫn giữa Nhà nước và kinh tế Nhà nước nên có ý kiến cho
rằng chỉ có Nhà nước mới làm chức năng chủ đạo, chứ kinh tế Nhà nước thì
khơng thể giữ vai trị chủ đạo được. Cũng do có sự đồng nhất giữa doanh nghiệp
Nhà nước và kinh tế Nhà nước nói chung, nên ý kiến khác cho rằng doanh
nghiệp Nhà nước khơng thể giữ vai trị chủ đạo được bởi nó có hàng loạt những
khuyết điểm và nhược điểm trong hoạt động. Thật ra, doanh nghiệp Nhà nước là
bộ phận trụ cột nhất của kinh tế Nhà nước chứ khơng phải là tồn bộ kinh tế Nhà
nước. Nói đến kinh tế Nhà nước thì phải nói đến tất cả các sở hữu trong tay Nhà
nước, kể cả tài nguyên, đất đai, ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia... Kinh tế
Nhà nước không làm chức năng quản lý của Nhà nước nhưng chính nó là cơng
cụ quan trọng, là sức mạnh kinh tế mà Nhà nước nắm lấy và đưa vào để làm


chức năng quản lý của mình. Báo cáo Chính trị viết: "Kinh tế Nhà nước phát
huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, doanhnghiệp
Nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,
nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp
luật”.
Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trình độ lực lượng sản xuất
cịn thấp, quan hệ sở hữu cịn tồn tại nhiều hình thức, là nền kinh tế hỗn hợp
nhiều thành phần nhưng cơ chế thị trường chưa hoàn hảo, doanh nghiệp Nhà
nước hạot động cịn nhiều khuyết tật. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới cơ chế, chính
sách đối với doanh nghiệp Nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu

quả hoạt động theo định hướng: xoá bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng
trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh, nộp đủ thuế và có
lãi, thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về
kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp, kinh tế Nhà
nước có giữ được vai trị chủ đạo thì mới có thể đảm bảo được định hướng xã
hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường. Do đó phải có sự quản lý của Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, do đó đầu
tư phát triển kinh tế Nhà nước là tạo ra nền tảng kinh tế cho xã hội chủ nghĩa,
tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết và quản lý thị trường.
Kinh tế Nhà nước các vị trí then chốt nên có khả năng chi phối các thành
phần kinh tế khác.
2.3. Những biểu hiện vai trò chủ đạo của Nhà nước
2.3.1. Làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng Nhà nước
và quản lí vĩ mơ
Nhà nước sử dụng chung tất cả các biện pháp có thể can thiệp vào kinh tế
nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh
doanh lành mạnh, phân bổ nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,


phát triển xã hội một cách hài hoà phù hợp với giá trị truyền thống và văn hoá
đất nước.
Trong kinh tế, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể kinh tế, trực tiếp đối
mặt với thị trường để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản
xuất như thế nào? sản xuất cho ai? theo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Điều này
tất yếu dẫn đến kết cục là ở đâu, khi nào, đối với mặt hàng nào có thể đem lại lợi
nhuận cao thì ở đó, khi đó các doanh nghiệp có khả năng sẽ đổ xô vào sản xuất
và kinh doanh mặt hàng đó. Ngược lại, nếu ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng
nào khơng có lãi hoặc lỗ vốn thì ở đó, khi đó sẽ có nhiều doanh nghiệp có khả
năng sẽ rút khỏi thị trường sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Do sự hạn chế
của mỗi dịch vụ về việc thu thập cũng như xử lý các thông tin cần thiết về thị

trường để quyết định có tham gia hay rút khỏi một thị trường nào đó, tất cả sẽ
dẫn đến nguy cơ có thể phát sinh mâu thuẫn giữa cung và cầu ở mọi lúc, mọi nơi
và đối với mọi mặt hàng. Để chống lại nguy cơ đó Nhà nước phải thực hiện
chức năng điếu tiết bằng nhiều cơng cụ khác nhau. Trong đó doanh nghiệp Nhà
nước được coi là một công cụ.
Với tư cách là công cụ điều tiết luôn được Nhà nước thực hiện theo phương
châm: ở đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang mở rộng sản xuất kinh doanh
một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc khơng có đủ
sức kinh doanh hoặc từ chối thì ở đó và khi đó cần sự có mặt của doanh nghiệp
Nhà nước. Đến lúc nào đó, khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng
nhu cầu thị trường, doanh nghiệp Nhà nước có thể rút khỏi thị trường đó,
nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh. Quá trình diễn ra liên tục, lặp lại ở
mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân hình thành vai trò điều tiết của doanh
nghiệp Nhà nước. Chức năng này còn thể hiện ở trong phạm vi từng vùng đặc
biệt quan trọng với các vùng xa, vùng sâu.
Như vậy, chức năng điều tiết nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước phải
sử dụng doanh nghiệp Nhà nước như một công cụ cần thiết bảo đảm cho nền
kinh tế hoạt động một cách thơng suốt, đảm bảo lợi ích xã hội.


2.3.2. Làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vẫn đề xã hội
Để nền kinh tế nước ta phát triển một cách nhanh chóng thì cần phải có
những bước tăng trưởng. Do vậy, cần có một lực lượng có sức mạnh kinh tế làm
địn bẩy để thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển. Doanh nghiệp Nhà
nước hiện nay chưa đủ khả năng chi phối toàn bộ nền kinh tế nhưng có một thực
lực to lớn nên chỉ có doanh nghiệp Nhà nước mới có thể thực hiện được chức
năng đòn bẩy.
Những vấn đề xã hội đang là một hạn chế lớn của nước ta. Muốn phát triển
kinh tế - xã hội Nhà nước phải giải quyết triệt để những vấn đề đó. Để thực hiện
được điều này chúng ta cần có thực lực về kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế

nhiều thành phần như hiện nay thì chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước mới có
thể đảm nhận được vai trị làm lực lượng chủ lực cho Nhà nước giải quyết các
vấn đề xã hội.
2.3.3. Mở đường hướng dẫn và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng
phát triển
Kinh tế Nhà nước kiểm soát các thị trường của hoạt động vốn và thị trường
tiền tệ để bảo đảm khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài
chính tiền tệ, tín dụng là các cơng cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh
tế vĩ mô.
Thành phần kinh tế Nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo chi phối các thành
phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của
mình, tạo cơ sở hạ tầng cho mỗi kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành then
chốt và trọng yếu xã hội, làm đòn bảy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn với cơng
bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã
hội.


CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC DỰA
TRÊN ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA
ĐẢNG
3.1. Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 03/6/2017 “về hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”:
3.1.1. Nhận thức về quan điểm:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn,
có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập; kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành. Hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách ngày càng hồn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế,
đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế
độ sở hữu, các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng.

Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày
càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh; thu hút vốn
đầu tư nước ngoài đạt được kết quả tích cực. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản
được thể chế hóa tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
được nâng lên. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thơng thống
hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.
Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị
trường. Tuy nhiên, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính
sách cịn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất qn; cịn có biểu hiện lợi
ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực phát triển. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp
giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho
người dân tham gia và nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế.
Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi


mới phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
* Mục tiêu:
Xây dựng hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN góp phần huy động
và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy KT-XH phát
triển nhanh và bền vững vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh". Tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và vận hành
đồng bộ, thông suốt nền KTTT định hướng XHCN.
* Nhiệm vụ và giải pháp:

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể
chế kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Thống nhất nhận
thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp. Hồn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo
đảm phát triển bền vững, tiến bộ và cơng bằng xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo
vệ mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện thể chế phát triển
đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Hoàn thiện thể chế đẩy
mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Giải pháp thúc đẩy phát triển thành phần kinh tế nhà nước
3.2.1. Kinh tế
a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ là một trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát
triển.


Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, việc
thừa nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân phát triển là
nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa. Tất cả các thành phần kinh tế đều
bình đẳng trươc pháp luật, tùy vị trí, quy mơ, tỷ trọng, trình độ có khác nhau
nhưng tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
b) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và cơng nghệ, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh
tranh nếu thường xuyên đổi mới cơng nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng
sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành
tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ vào qua trình sản xuất và

lưu thơng hang hóa. So với thế giới, trình độ cơng nghệ sản xuất của Việt nam
cịn thấp kém, khơng đồng bộ. Do đó, khả năng cạnh ranh của hàng hóa nước ta
so với nước ngồi trên cả thị trường nội địa và thế giới còn kém. Bởi vậy, để
phát triển kinh tế hang hóa, chúng ta phải thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Hệ thống kết cấu cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng vai trị quan
trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống ở nước ta đã quá lạc hậu, không
đồng bộ, mất cân đối nghiệm trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết tâm của nhà
đầu tư cả trong nước lẫn nước ngoài, cản trở phát triển kinh tế hàng hóa ở mọi
miền đất nước. Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống
kết cấu đó. Trước mắt, Nhà nước cần tập trung ưu tiên xây xây dựng, nâng cấp
một số yếu tố thiết yếu như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện, nước,
hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng, …
c) Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại, chúng ta phải đa dạng hóa hình
thức, đa phương hóa đối tác, khơng can thiệp vào nội bộ của nhâu và không


phân biệt chế độ chính trị, xã hội, cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu
hút mạnh vốn và đầu tư nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm
quản lý của các nước phát triển.
d) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi
Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mơ phải được kiện tồn phù hợp với nhu cầu
kinh tế thị trường, bao gồm: điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế, pháp
luật, chính sách và các địn bẩy kinh tế, hành chính, giáo dục, khuyến khích, hỗ
trợ và cả bằng răn đe, trừng phạt, ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ
máy nhà nước…
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh tế (ở tầm vĩ mô

và vi mô) tương ứng. Chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh sự
nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh doanh
cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó phải
có năng lực chun mơn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu
trachs nhiệm, chấp nhận rủi ro và trung thành với con đường chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta đã chọn. Song song với đào tạo và đào tạo lại, cần phải có
phương hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm kích
thích hơn nữa việc khơng ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý,
tài năng kinh doanh của họ. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải được chú ý bảo
đảm cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô.
3.2.2. Chính trị, pháp luật
Giữ vững ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các
chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó
là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm
đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh


đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao vai trò hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần. Nó tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Với hệ
thống pháp luật đông bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh nghiệp chỉ có thể
làm giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật
Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc
đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo
đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp
phần khống chế và kiểm sốt lạm phát; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ

và tiêu dùng.
3.2.3. Xã hội
Mở rộng phân công lao động xã hội, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường
Phân công lao động xã hội là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để
đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, cần phải mở rộng phân công lao động xã
hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương, từng vùng theo hướng chun mơn hóa, hợp tác hố nhằm khai thác
mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất–
kỹ thuật hiện có và tạo ra việc làm cho người lao động. Cùng với mở rộng phân
công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước
ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động
quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. Nhờ đó mà thị trường
trong nước từng bước được mở rộng, tiềm năng về lao động, tài nguyên, cơ sở
vật chất hiện có được khai thác có hiệu quả.
Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh: Phát triển thị trường hàng hoá
và dịch vụ; phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và
thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hồn chỉnh; phát triển thị


trường bất động sản bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn
liền với đất; phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế; phát
triển thị trường khoa học và công nghệ… Điều này sẽ bảo đảm cho việc
phân bố và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp
với nhu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


×