Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.37 KB, 25 trang )

TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Ngân hàng và tín dụng Ngân hàng:
1. Khái quát về ngân hàng thương mại:
1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại:
Khi nghiên cứu về Ngân hàng thương mại , các nhà kinh tế học đưa ra rất
nhiều những quan niệm khác nhau về NHTM. Người thì cho rằng" NHTM là tổ
chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền ". Người khác lại nhận định: " NHTM
là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và
mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc...". Sở dĩ có tình
trạng này là do hoạt động NHTM rất đa dạng , các thao tác trong từng nghiệp vụ
Ngân hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của
nền kinh tế . Mặt khác , do tập quán , luật pháp của mỗi quốc gia , mỗi vùng khác
nhau đã dẫn đến những quan niệm về NHTM không đồng nhất giữa các nước trên
thế giới .
Theo pháp lệnh:" Ngân hàng , hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính" ban
hành ngày 24/5/1990:" NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán".
Như vậy , NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ
thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện
các nghiệp vụ tài chính khác.
1.2. Các chức năng nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại:
- Chức năng huy động vốn : Đây là chức năng cơ bản đầu tiên của NHTM.
Nó quyết định quy mô cũng như hiệu quả các hoạt động khác của NHTM. NHTM
có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá
nhân , các tổ chức kinh tế qua các hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì
hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, NHTM
có thể huy động vốn qua các biện pháp chủ động như phát hành kì phiếu ngân
hàng, phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức


tín dụng khác.
Tuy nhiên, NHTM phải huy động vốn trên cơ sở vốn tự có như một ràng
buộc về trách nhiệm nhằm hạn chế rủi ro trong các hoạt động của Ngân hàng. Theo
quy định của Việt Nam, các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn
tự có.
- Chức năng cung cấp tín dụng và đầu tư : Đây là hoạt động kinh doanh
mang lại lợi nhuận chủ yếu cho NHTM. Thực hiện nghiệp vụ này, NHTM sử dụng
phần lớn số vốn đã huy động để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế qua các
hình thức như cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, đầu tư chứng
khoán, góp vốn tham gia hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận.
Qua các chức năng này NHTM đã thực hiện nhiệm vụ quan trọng là tạo tiền,
trở thành nguồn tích luỹ vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện làm tăng tổng sản phẩm
xã hội, mở rộng vốn đầu tư góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Có thể thấy hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó
liên quan đến tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động
lại chứa đựng rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành các lĩnh vực đó. Chính vì vậy việc
nghiên cứu rủi ro tín dụng là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm.
- Cung cấp các hoạt động dịch vụ:
Ngoài các chức năng cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch
vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng nhằm thu hút khách hàng đồng thời
đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Các hoạt động dịch vụ của NHTM
gồm có:
+ Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền
+ Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán.
+ Dịch vụ tư vấn đầu tư
+ Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá.
Thông qua các hoạt động này, NHTM nhận được các khoản thu nhập dưới
hình thức lệ phí hoặc hoa hồng.
Có thể nói, các chức năng của NHTM đều rất quan trọng và liên quan chặt
chẽ với nhau. Chức năng huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ cho các

hoạt động nghiệp vụ. Hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại nguồn thu nhập cho
NHTM. Còn các hoạt động dịch vụ thu hút thêm khách hàng, tạo điều kiện cho
việc mở rộng hoạt động huy động tiền gửi và kinh doanh của NHTM.
2. Tín dụng Ngân hàng:
2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển
giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời
bên nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thuận.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức
kinh tế và cá nhân thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách
hàng vay, tài trợ thuê mua, bảo hành hay chiết khấu....
Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng của NHTM thì hoạt động cho vay là
hoạt động phức tạp nhất. Trong bài viết này tôi chỉ xin được đề cập đến khía cạnh
cho vay của hoạt động tín dụng Ngân hàng.
2.2. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động của NHTM:
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh
nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước mà
còn tác động đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tín dụng
thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo mục tiêu phát triển của đất
nước.
Tín dụng Ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông hàng
hoá, ngay cả những hoạt động dịch vụ cũng không thể tách ly sự hỗ trợ của tín
dụng ngân hàng.
Với các nghành sản xuất, chế biến, khai thác... để đảm bảo sản xuất ổn định
cần thiết phải có vốn để dự trữ nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm bù đắp các chi
phí sản xuất... Đồng thời để không ngừng nâng cao năng xuất lao động, chất lượng
sản phẩm, tìm kiếm lợi thế trong cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải thường
xuyên cải tiến máy móc, thiết bị , đổi mới công nghệ đặc biệt trong thời đại khoa
học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Tất cả những công việc đó sẽ không
thể thực hiện được nếu thiếu sự hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động tín

dụng.
Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản xuất
đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá
cần thiết trang trải các chi phí lưu thông, thuế... Hơn nữa, để mở rộng sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn với chủng loại
phong phú, nhưng thông thường các doanh nghiệp này không có nhiều vốn lưu
động. Vì vậy, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp này cần đến sự hỗ trợ của
tín dụng ngân hàng.
Với các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, khách sạn, du lịch... sẽ hoạt động
ra sao khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng trang thiết bị
vật chất, phương tiện vận tải... Khi bước vào kinh doanh trong lĩnh vực này đòi hỏi
vốn đầu tư rất lớn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần đến tín dụng ngân hàng và
xem nó như là một trong những nguồn vốn có thể huy động cho mục đích kinh
doanh của doanh nghiệp.
Nói chung, một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ sung vốn lưu động
và vốn cố định cho các chủ doanh nghiệp là vốn tín dụng ngân hàng vì nếu chỉ dựa
vào vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nến kinh tế
thị trường. Tín dụng ngân hàng sẽ là nguồn vốn tài trợ quan trọng cho các dự án
kinh doanh của doanh nghiệp mới.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở
rộng, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và hiệu
quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Ngân
hàng với chức năng huy động vốn, tập trung mọi nguồn vốn trong và ngoài nước
đã phần nào đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng trở thành
đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất giúp các nhà sản xuất kinh doanh thực hiện quá
trình tái sản xuất mở rộng và ứng dụng công nghệ để cạnh tranh thắng lợi trên thị
trường.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm,
tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, và các chương trình, dự án
mang tính xã hội khác.

Muốn nâng dần thu nhập bình quân đầu người, giải quyết việc làm không
thể chỉ dựa vào quỹ ngân sách nhà nước hoặc trông chờ vào các khoản vay nước
ngoài. Tín dụng ngân hàng thực sự giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư cho các
dự án có ý nghĩa kinh tế và xã hội để giải quyết những việc như vậy.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất
mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước và
quốc tế. Các doanh nghiệp, các công ty làm ăn có hiệu quả và uy tín được ngân
hàng tập trung đầu tư vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ.
Tín dụng ngân hàng sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích luỹ vốn,
tạo cho các doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế
nước ngoài đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm
soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp
chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Nhà nước có thể điều chỉnh cơ cấu
kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về tín
dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho
các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của
Nhà nước.
Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một
nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách. Song song với việc này là phải đảm bảo an toàn
tín dụng và đó là mục tiêu lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nói
chung và của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân nói riêng.
2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại :
2.1. Khái niệm rủi ro:
Rất có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và
hoạt động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường.
Tuy nhiên , các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc
không mong đợi , gây ra thiệt hại và có thể đo lường được .
Như vậy , trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động Ngân hàng
nói riêng thì vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế , các nhà quản trị không

thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ
động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, các
nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trước các rủi ro để sớm đưa ra các giải
pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó.
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại:
Rủi ro tồn tại trong hoạt động kinh doanh dưới các hình thức khác nhau. Do
đặc điểm đặc thù của hoạt động Ngân hàng làm cho hoạt động này có độ rủi ro rất
lớn. Có các loại rủi ro chủ yếu sau trong hoạt động của NHTM.
.2.1. Rủi ro tín dụng:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng
luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng và đem lại phần lớn
lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng lại là hoạt động có nhiều
rủi ro nhất và phức tạp nhất. Hoạt động tín dụng liên quan chặt chẽ đến mọi lĩnh
vực của nền kinh tế . Mỗi rủi ro trong các lĩnh vực này đều tiềm ẩn rủi ro trong
hoạt động tín dụng của NHTM. Trong hoạt động tín dụng, NHTM luôn đặt ra mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận , đồng thời tối thiểu hoá rủi ro. Để đạt được mục tiêu đó
đòi hỏi NHTM phải có những giải pháp thích hợp để quản lý và phòng ngừa rủi ro
tín dụng.
2.2. Rủi ro lãi suất:
Đây là loại rủi ro mang tính xã hội, nó ảnh hưởng đến hầu hết các tổ chức
kinh tế , các cá nhân trong nền kinh tế quốc dân. Người ta quan niệm lãi suất là chi
phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó . Trong cơ chế
thị trường, lãi suất luôn biến động và điều này có thể gây ra rủi ro cho hoạt động
của NHTM. Chẳng hạn, ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay một kỳ hạn với lãi suất
cố định, sự thiệt hại của ngân hàng sẽ diễn ra khi lãi suất trên thị trường tăng lên.
Ngược lại, khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất ấn định, ngân hàng sẽ bị thiệt
hại khi lãi suất thị trường giảm xuống.
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Rủi ro lãi suất
nảy sinh trong những trường hợp sau:
+ Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng làm chi

phí của ngân hàng phải bỏ ra cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân
hàng. Khi lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi cho người
cho vay.
+ Do cơ cấu tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng không hợp lý. Ngân hàng
dùng tài sản nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản có dài hạn. Nếu lãi suất ngắn hạn
tăng, chi phí ngân hàng phải bỏ ra cũng sẽ tăng lên, trong khi thu nhập ở tài sản có
dài hạn vẫn giữ nguyên, như vậy thu nhập của ngân hàng không đủ bù đắp chi phí
kinh doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn.
+ Ngoài ra, rủi ro lãi suất cũng có thể xảy ra do trình độ thấp kém bị thua
thiệt trong việc cạnh tranh lãi suất trên thị trường. Hoặc do yếu tố của nền kinh tế
tác động đến lãi suất như cung, cầu, yếu tố thị trường... Khi Nhà nước có quyết
định điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa
đến hạn trả. Như vậy, lãi suất cho vay bị giảm thấp, nhưng phần trả lãi cho những
khoản tiền gửi có kỳ hạn lại không giảm tương ứng dẫn đến rủi ro lãi suất.
2.3. Rủi ro nguồn vốn:
2.3.1. Rủi ro do thừa vốn:
Như ta biết, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHTM là nguồn vốn huy
động. Để huy động được vốn Ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Nếu số
vốn này bị ứ đọng, không thể cho vay hoặc đầu tư vào các loại tài sản có thể sinh
lời trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động thì có nghĩa là các
thiệt hại của ngân hàng đang diễn ra. Nếu quá trình này kéo dài ở mức độ lớn có
thể dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Giải quyết vấn đề này, NHTM cần phải tăng
cường công tác kế hoạch hoá, đảm bảo cân đối giữa vốn huy động và vốn cho vay.
2.3.2. Rủi ro do thiếu vốn:
Loại rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu cho
vay và đầu tư, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho người gửi tiền khi đến
hạn. Rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và
nguồn vốn của ngân hàng, thông thường các kỳ hạn sử dụng vốn dài hơn kỳ hạn
các nguồn vốn, hoặc do mất lòng tin mà các hàng loạt khách hàng đến rút tiền,
khiến cho ngân hàng không có đủ tiền để chi trả cùng một lúc. Trong bối cảnh đó,

ngân hàng khó lòng huy động được nguồn vốn dồi dào, từ đó kinh doanh có thể bị
thu hẹp và vỡ nợ rất có thể xảy ra. Rủi ro này còn có thể do ngân hàng chưa thực
hiện tốt công tác huy động vốn thể hiện ở việc không thu hút đủ vốn để cho vay
hoặc do sự mất cân đối trong cơ cấu vốn huy động , thiếu các nguồn vốn trung dài
hạn trong khi nhu cầu vay vốn trung dài hạn lại ở mức cao. Điều này đã làm cho
Ngân hàng mất cơ hội đầu tư vào những dự án an toàn và có thể đem lại lợi nhuận
cao.
2.4. Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá
hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị
lỗ. Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối, cụ thể:
+ Nếu ngân hàng có dư dật về ngoại tệ (vị thế trường - net long position):
Nếu ngoại tệ đó lên giá thì ngân hàng sẽ có lãi khi đánh giá lại và ngược lại ngân
hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá.
+ Nếu ngân hàng ở vị thế đoản (net short position) về loại ngoại tệ nào đó,
khi ngoại tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi khi ngoại
tệ đó xuống giá.
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ gây ra
tổn thất cho ngân hàng. Dư dật về ngoại tệ (vị thế trrường) càng lớn thì rủi ro càng
cao khi tỷ giá giảm, ngược lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì rủi ro cũng
không ít khi tỷ giá tăng.
Khi phân biệt tình hình lãi lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, người ta so
sánh lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng
quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một ngân hàng.
2.5. Rủi ro trong thanh toán:
Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh
toán. Khả năng thanh toán tức là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện tại, đột
xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong tương lai.
Khi ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải quyết một cách kịp
thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa khả năng thanh

toán sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng
giảm.
Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau:
+ Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá
lớn, trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp nên một số ngân hàng đã dùng vốn huy
động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng
thanh toán cuối cùng.
+ Đến hạn các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng giảm
sút, người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của
ngân hàng bằng cách rút hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những như
cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Tất cả những
khía cạnh trên đều dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của ngân hàng.
+ Loại rủi ro này còn có thể phát sinh trong quá trình thanh toán của ngân
hàng, có thể do ngân hàng bị lợi dụng trong thanh toán điện tử, thanh toán séc chấp
nhận thanh toán các chứng từ giả mạo hoặc do nhầm lẫn, sai sót trong hoạt động
nghiệp vụ... dẫn đến sự thiệt hại của ngân hàng.
2.6. Rủi ro thuần tuý:
Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tai gây ra như: lụt lội, động đất, hoả
hoạn hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng... làm thiệt hại hay phá huỷ các
tài sản của ngân hàng. Các rủi ro này xảy ra cũng gây mất mát, thiệt hại không nhỏ
cho ngân hàng.
2.7. Rủi ro mất khả năng thanh toán;
Đây là loại rủi ro đặc trưng của NHTM liên quan đến sự sống còn của ngân
hàng, nó là hậu quả của một hoặc nhiều loại rủi ro kể trên dẫn đến việc NHTM bị
thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc không có đủ
tiền nhất thời để chi trả cho nhu cầu rút tiền ồ ạt của khách hàng tại một thời điểm.
Đây là loại rủi ro nghiêm trọng nhất, nó không những làm sụp đổ chính NHTM đó
mà còn là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của hàng loạt các ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác có liên quan.
Bài học thực tiễn của loại rủi ro này có thể kể đến như sự sụp đổ của hàng

trăm tổ chức tín dụng ỏ Mỹ từ năm 1985 đến năm 1992 hay sự đổ vỡ hàng loạt quỹ
tín dụng nhân dân ở nước ta trong những năm cuối của thập kỷ 80.
3. Rủi ro tín dụng:
3.1. Các hình thức của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc đúng
hạn, đầy đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi
ro tín dụng thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro.
3.1.1. Không thu được lãi đúng hạn:
Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó Ngân
hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này
được xếp vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ ,
chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn thu
nợ và trả nợ cuả khách hàng.
3.1.2. Không thu được vốn đúng hạn:
Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn,
một phần do một lượng vốn cho vay lớn bị mất . Khi đó, Ngân hàng sẽ chuyển số
nợ vốn đó sang mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian
đáo hạn của hợp đồng tín dụng . Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mất mát hiện
thực của Ngân hàng vì có thể tiến độ hoạt động kinh doanh cuả khách hàng bị
chậm so với kế hoạch đã đề ra trình Ngân hàng.

×