Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.43 KB, 68 trang )

Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
MỤC LỤC
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
1
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và trong hoạt động cho vay nói
riêng được biết đến như một đăc thù, là yếu tố tất yếu khách quan của kinh doanh
tiền tệ của ngân hàng. Rủi ro thường gây ra những tổn thât thiệt hại cho ngân hàng,
tuỳ theo cấp độ rủi ro mà hoạt động kinh doanh phải chịu tổn thất lớn hay nhỏ.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nươc ta, đảng ta đã đinh hướng cho
nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Lợi nhuận là
vấn đề đặt lên hàng đầu cùng với sự phát triển của chính mình. Cơ chế thị trường
cũng tạo điều kiện cho các hoạt động có hiệu quả. Nhưng để tồn tại và phát triển các
doanh nghiệp càng phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì thế trong
nền kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp đều phải hết sức thận trọng trong kinh
doanh để tồn tại và phát triển, đôi khi phải chấp nhận mạo hiểm. Các ngân hàng
thương mại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Bất kì một hoạt động kinh doanh
nào của ngân hàng đều có thể xảy ra rủi ro dù ít hay nhiều cũng không thể tránh
khỏi hoàn toàn được, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ khả năng gặp rủi
ro của hoạt độn cho vay của các ngân hàng thương mại là rất đáng nói. Hơn nữa
hiệu quả của hoạt động cho vay là thước đo hiệu quả trong ngân hàng thương mại.
Do đó việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay là rất quan trọng
không chỉ đối với các ngân hàng thương mại mà còn đối với các thành phần kinh tế.
Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại không còn là vấn đề mới
mẻ tại Việt Nam tuy nhiên việc phân tích đánh giá rủi ro hoạt động này trong nền
kinh tế thị trường cần có một cách nhìn mới hơn.
Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam, những năm qua đã đóng
góp không nhỏ cho sự phát triển của lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng và nền
kinh tế nói chung. Tuy nhiên trong cơ chế thị trường, ngân hàng cũng gặp phải


không ít khó khăn, đăc biệt là trong vấn đề phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt
động cho vay.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
2
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Từ góc độ trên mà đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho
vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long
Biên” được em chọn để nghiên cứu làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Khái quát những vấn đề chung về rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại.
- Phân tích đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động cho vay chính tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long Biên.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động cho
vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long Biên và
đề xuất những kiến nghị đối với các bộ, ngành liên quan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long Biên.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần
Quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long Biên.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu là duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, tổng hợp, so sánh
số liệu.
5. Kết cấu đề tài.
Tên đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long Biên”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về rủi ro trong hoat động cho vay của ngân hàng

thương mại.
Chương 2: Thực trang rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long Biên.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam – chi nhánh Long Biên.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
3
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tín dụng và tín dụng ngân hàng.
1.1.1. Khái niệm tín dụng và tín dụng ngân hàng.
1.1.1.1. Tín dụng.
“Tín dụng” xuất phát từ chữ Latin là Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm. Tiếng anh là Credit.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng là sự cho vay mượn. Tín dụng là
sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật
hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một lượng
giá trị lớn hơn.
Đặc điểm của tín dụng.
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người
khác.
- Sự chuyển giao chỉ mang tính chất tạm thời.
- Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo
một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức. Một quan hệ được gọi là tín dụng
phải đầy đủ cả ba mặt.
Tín dụng ra đời rất sớm gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất
hàng hóa. Cơ sở ra đời của tín dụng xuất phát từ:
- Có sự tồn tại và phát triển của hàng hóa

- Có nhu cầu bù đắp thiếu hụt khi gặp biến cố nhằm đảm bảo sản xuất kinh
doanh, đảm bảo cuộc sống bình thường
Có nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng, tùy thuộc vào giác độ tiếp cận
mà tín dụng có thể được hiểu như là:
Sự trao đổi các tài sản hiện tại để được nhận các tài sản cùng loại trong
tương lai. Hoặc có thể định nghĩa tín dụng như là quan hệ kinh tế, theo đó một
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
4
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
người thỏa thuận để người khác được sử dụng số tiền hay tài sản của mình trong
một khoảng thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả.
Trong đời sống, tín dụng hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tín dụng
thương mại là một doanh nghiệp thỏa thuận bán chịu hàng hóa cho khách hàng. Tín
dụng ngân hàng là các ngân hàng thương mại huy động vốn của khách hàng để sau
đó lại cho khách hàng khác vay với mục đích kiếm lời.
Ngoài ra, việc Chính phủ hay những doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra
công chúng để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân cũng được xem là một hình
thức tín dụng.
Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nghiệp vụ cho thuê tài chính
do những công ty cho thuê tài chính thực hiện đối với khách hàng là các doanh
nghiệp cũng được xem là một hình thức tín dụng đặc thù của nền kinh tế thị trường.
1.1.1.2. Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân Hàng, các tổ chức tín
dụng với các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư như: các doanh nghiệp, các
tổ chức, cá nhân, hộ gia đình… Trong đó Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung
gian đứng ra huy động vốn và sử dụng vốn huy động được để cho vay đối với các
đối tượng nói trên.
Như vậy trong mối quan hệ trên, Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người
cho vay.
Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi hoặc phát hành các

chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,… để tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
xã hội làm nguồn vốn hoạt động của mình.
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các thành
phần kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau như cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá,
bảo lãnh, cho thuê tài chính,… Thông qua các hoạt động này, Ngân hàng có thể
cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế đồng thời tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn
của mình.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
5
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Đứng trên góc độ kinh tế học, tín dụng Ngân hàng được hiểu như là quan hệ
kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa Ngân hàng với các tổ chức, cá nhân theo
nguyên tắc hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm, làm thoả mãn nhu cầu về vốn của các
doanh nghiệp và cá nhân trong kinh doanh. Nghĩa là, trong nền kinh tế có nhiều
người có nguồn vốn nhàn rỗi, muốn đầu tư cho người khác vay với mục đích vừa có
lợi nhuận, vừa đảm bảo an toàn đồng vốn. Bên cạnh đó lại có những người đầu tư
trực tiếp vào khâu sản xuất kinh doanh cần có vốn để sản xuất kinh doanh để thu lợi
nhuận. Họ rất muốn vay vốn từ những người tiết kiệm với mức chi phí thấp nhất.
Từ những yêu cầu đó mà các tổ chức tín dụng đã xuất hiện làm trung gian để tập
trung vốn tạm thời nhàn rỗi, rồi trên cơ sở vốn đó sẽ phân phối lại cho người cần
vốn, quan hệ này làm nảy sinh tín dụng Ngân hàng. Như vậy, sự xuất hiện của tín
dụng Ngân hàng là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn trong việc phục vụ phát
triển kinh tế, nó thể hiện như sau :
1.1.2.1. Tín dụng Ngân hàng góp phần thu hút số tiền nhàn rỗi trong xã hội và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh
doanh chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Để thực hiện quá trình kinh doanh,
Ngân hàng phải có nguồn vốn và trên cơ sở nguồn vốn đó để đáp ứng nhu cầu vay
vốn ngày càng tăng của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.

Nói cách khác Ngân hàng phải thực sự trở thành người đi vay để cho vay.
Điều này là một thực tế khách quan.
Mặt khác, trong nền kinh tế thường xuyên xuất hiện những nguồn vốn bằng
tiền tạm thời chưa sử dụng thuộc các thành phần kinh tế. Đồng thời, ở các thành
phần kinh tế khác lại xuất hiện, hiện tượng thiếu vốn tạm thời cần được giải quyết.
Sự tham gia của tín dụng Ngân hàng được coi như một công cụ để giải quyết mâu
thuẫn trên đây về cung - cầu vốn tiền tệ như vậy, vốn tiền tệ trong nền kinh tế có
điều kiện mang đầy đủ nội dung kinh tế của phạm trù tư bản hoá giá trị thặng dư.
Lợi tức đi vay và cho vay của Ngân hàng luôn luôn là công cụ điều chỉnh quan hệ
cung - cầu vốn tín dụng. Gắn liền với nền kinh tế thị trường là kinh doanh và lợi
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
6
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
nhuận. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng là đi vay để cho vay và như
vậy nếu xảy ra điều rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp, các thành phần kinh
tế sẽ dẫn đến rủi ro của Ngân hàng, Ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán.
Chính vì lẽ đó mà trong nền kinh tế thị trường, mỗi Ngân hàng trong môi
trường cạnh tranh phải dựa vào nghệ thuật quản trị kinh doanh vào việc đổi mới
công nghệ và nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng, thông qua hoạt động Marketting Ngân
hàng và việc nhanh chóng sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật nhằm thu hút tối
đa nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế để thực hiện kinh doanh đáp ứng yêu cầu
vốn cho tăng trưởng kinh tế, tạo lợi nhuận cho Ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các chính sách tài chính tiền tệ, sự
hoạt động của thị trường tài chính, thị trường vốn, thị trường tiền tệ tín dụng Ngân
hàng góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Điều đó vừa
làm tăng trưởng khả năng tích luỹ tư bản (trong đó phần lợi nhuận) của các Ngân
hàng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng kinh tế làm cho hệ
thống Ngân hàng ngày càng lớn mạnh.
1.1.2.2. Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình
mở rộng quan hệ lưu thông hàng hoá quốc tế:

Ngày nay, trong mối quan hệ kinh tế, sự hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có
lợi giữa các nước trên thế giới và khu vực đang được phát triển rất đa dạng cả về
nội dung và hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là nhân tố hết sức quan
trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của mỗi nước, nhất là các nước đang phát triển
như Việt Nam.
Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là lĩnh vực
hợp tác kinh tế quốc tế thông dụng. Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ
xuất nhập khẩu của các nước. Cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng, cùng với
sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế, tín dụng ngân hàng đã làm
tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập
khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như
vậy tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất
khẩu hàng hoá.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
7
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Gần đây với chủ trương nền kinh tế nhiều thành phần, với việc thực hiện hệ
thống ngân hàng hai cấp, với môi trường pháp luật ngày càng hoàn thiện và đi vào
đời sống kinh tế - xã hội và nhất là từ khi có luật Ngân hàng ra đời, vai trò của tín
dụng Ngân hàng đang phát triển mạnh mẽ hơn nhằm góp phần tích cực vào mối
quan hệ kinh tế giữa nước ta và các nước trên thế giới.
1.1.2.3. Tín dụng Ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi
động thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ là công cụ kinh tế - xã hội. Trong lĩnh
vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, mọi chu kỳ đều bắt đầu bằng tiền tệ
và kết thúc bằng khối lượng tiền tệ lớn hơn, tạo điều kiện để tái mở rộng hoạt động.
Trong chu trình này, tăng nhanh vòng quay vốn tiền tệ là một trong các yếu
tố quyết định thành công trong sản xuất kinh doanh. Để rút ngắn thời gian nhằm
tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải chủ động tìm kiếm và thực
hiện nhiều biện pháp như: ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, đổi mới

công nghệ, hoàn thiện nghệ thuật quản trị kinh doanh, tìm kiếm thị trường mới
những việc làm này đòi hỏi một khối lượng lớn về vốn, tín dụng Ngân hàng sẽ là
người đáp ứng nhu cầu đó.
Những quan hệ tín dụng nảy sinh việc vay vốn phải được hoàn trả đầy đủ với
một khoản lãi kèm theo (theo lãi suất quy định), trong thời hạn thoả thuận đã được
cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Trường hợp nguyên tắc tín dụng trên đây bị vi phạm tổ chức kinh tế phải
chịu phạt lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất thông thường hoặc bị tước quyền vay vốn
hoặc thanh lý tài sản đã thế chấp để trả nợ Ngân hàng.
Khi vay vốn các chủ thể kinh doanh phải tìm mọi biện pháp để tăng nhanh
vòng quay vốn, kinh doanh có lãi, thu hồi vốn để trả nợ và lãi vay Ngân hàng đúng
hạn.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
8
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
1.1.2.4. Tín dụng Ngân hàng với việc điều chỉnh chiến lược kinh tế, góp phần
chống lạm phát tiền tệ:
Nền kinh tế hàng hoá luôn luôn chuyển động theo hai chiều hướng: Phát
triển theo nhịp độ tăng trưởng hoặc giảm sút theo quy luật lạm phát. Cả hai trường
hợp đó đều có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng tạo nguồn vốn từ huy động các đồng tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số giá cả đánh giá hàng
hoá để thu hút được nguồn vốn đủ lớn cho việc đầu tư vào các công trình trọng
điểm mà chiến lược kinh tế đã đề ra. Nếu không dùng công cụ tín dụng Ngân hàng
để huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức thì có lúc Nhà
nước phải huy động trái phiếu, kỳ phiếu, thậm chí phải phát hành giấy bạc.
Hình thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa kinh
tế to lớn, nó không làm tăng thêm khối lượng tiền lưu thông nên không ảnh hưởng
đến lưu thông tiền tệ và giá cả. Ngược lại, nếu Nhà nước phát hành tiền giấy cho
ngân sách dù có đưa vào đầu tư phát triển các chương trình kinh tế mang tính chiến

lược cũng dẫn đến tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây lạm phát, ảnh hưởng
trực tiếp đến giá cả và đời sống xã hội.
Trong thời gian qua, trọng tâm của công tác tín dụng là tích cực huy động
vốn để cho vay. Theo định hướng của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
là: "Ngân hàng phải đi vay để cho vay". Tập trung vốn vào các công trình trọng
điểm, các ngành sản xuất như: Nông nghiệp, sản xuất hàng hoá xuất khẩu Ngân
hàng cũng như Kho bạc Nhà nước tích cực đa dạng hoá các hình thức huy động
vốn, chính vì vậy đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy tín dụng Ngân hàng không chỉ là đòn bẩy kinh tế mà còn là công cụ
để Nhà nước điều tiết sản xuất, điều chỉnh chiến lược kinh tế, phân công lao động xã
hội, tiết kiệm phát hành tiền vào lưu thông, sử dụng có hiệu quả vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội, góp phần kiềm chế lạm pháp, ổn định sức mua của đồng tiền.
Rõ ràng thông qua vai trò tín dụng với hoạt động của các Ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, tín
dụng Ngân hàng đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
9
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Thông qua tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị, các tổ
chức kinh tế, các cá nhân có vốn sản xuất kinh doanh thu được hiệu quả, góp phần
phát triển nền kinh tế xã hội.
Đối với Ngân hàng tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản quan trọng
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nhằm bổ sung vốn cho các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội để sản xuất kinh doanh. Đây là nghiệp vụ
sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
1.1.3. Các hình thức của tín dụng ngân hàng.
1.1.3.1. Căn cứ vào mục đích sử dụng.
Gồm: Tín dụng sản xuất lưu thông hàng hoá và Tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại cấp phát tín dụng cho các
doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất hàng hoá và lưu

thông hàng hoá.
Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng, như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các hàng hoá bền chắc và cả những
nhu cầu hàng ngày. Tín dụng tiêu dùng có thể được cấp phát dưới hình thức bằng
tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
1.1.3.2. Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Gồm: Tín dụng ngắn hạn, Tín dụng trung hạn và Tín dụng dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường
được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động và phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Là tín dụng có thời hạn từ 1 – 5 năm, được cung cấp để
mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các
công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Là loại có thời hạn trên 5 năm, loại tín dụng này được
sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có
quy mô lớn.
Tín dụng trung hạn và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần
tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
10
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
1.1.3.3. Căn cứ vào đối tượng tín dụng.
Gồm: Tín dụng tài trợ vốn lưu động và Tín dụng tài trợ vốn cố định.
Tín dụng vốn lưu động: Là loại vốn tín dụng đực sử dụng để hình thành vốn
lưu động của các tổ chức kinh tế, như cho vay để dự trữ hàng hoá, mua nguyên vật
liệu cho sản xuất. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để cho vay bù đắp
mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Loại tín dụng này thường được chia ra các
loại: Cho vay dự trữ hàng hoá; Cho vay chi phí sản xuất và cho vay để thanh toán
các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu.
Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được sử dụng để hình thành TSCĐ.

Loại này được đầu tư để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật mở rộng sản
xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay là trung hạn và
dài hạn.
1.1.3.4. Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng.
Gồm: Tín dụng thương mại, Tín dụng Nhà nước và Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được
biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Mua bán chịu hàng hoá là hình
thức tín dụng, vì hai lý do sau:
Người bán chuyển giao cho người mua để sử dụng vốn tạm thời trong một
thời gian nhất định.
Đến thời hạn được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới
hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất.
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nợ - một
dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa vụ
phải thanh toán nợ của người mua. Giấy nợ trong quan hệ tín dụng thương mại
được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại: hối phiếu và lệnh
phiếu.
Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người thiếu
nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Người
hưởng thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
11
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả một
số tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ.
Về hình thức, thương phiếu được chia ra ba loại: (1) Thương phiếu vô danh,
không ghi tên người thụ hưởng; (2) Thương phiếu ký danh; có ghi tên người thụ
hưởng và (3) Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu ký danh nhưng
không chuyển nhượng cho người khác.
Vai trò của tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường: Trong nền

kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp thường
xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng nhu cầu
vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các doanh
nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng
này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm
đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy tín dụng thương mại vẫn có những hạn chế về quy mô tín dụng, về
thời hạn cho vay, và về phương hướng (giới hạn đối với những xí nghiệp cần hàng
hoá để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ), ngoài ra việc cung cấp tín dụng thương
mại chỉ được thực hiện trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau.
Tín dụng Ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong nền kinh tế, Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian, trong
quan hệ tín dụng đó vừa là người cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là
người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát
hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là
người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân.
Khác với tín dụng thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, tín
dụng Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ - bao gồm tiền mặt và bút tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua Ngân
hàng, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang
trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn cho
đầu tư xây dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
12
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
nhân.
Tín dụng Nhà nước: Là quan hệ tín dụng trong đó Nhà nước là người đi vay.
Chủ thể trong quan hệ tín dụng Nhà nước bao gồm: Người đi vay là Nhà
nước Trung ương và Nhà nước địa phương, người cho vay là dân chúng, các tổ

chức kinh tế, Ngân hàng và nước ngoài. Mục đích đi vay của tín dụng Nhà nước là
bù đắp khoản bội chi Ngân sách.
Tín dụng Nhà nước bao gồm: Tín dụng ngắn hạn và Tín dụng dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Là khoản vay ngắn hạn của Kho bạc Nhà nước để bù đắp
các khoản bội chi tạm thời, thời hạn dưới 1 năm. Tín dụng ngắn hạn của Nhà nước
được thực hiện bằng cách phát hành kỳ phiếu kho bạc (còn gọi là tín phiếu). Việc
phát hành được thực hiện bằng hai cách: (1) Phát hành để vay vốn Ngân hàng Trung
ương và (2) Phát hành để vay vốn cá nhân và nhà doanh nghiệp.
Tín dụng dài hạn: Là các khoản vay dài hạn của kho bạc Nhà nước, thường
từ 5 năm trở lên. Tín dụng Nhà nước dài hạn được thực hiện bằng cách phát hành
công trái (trái phiếu). Theo thời gian công trái chia ra hai loại: Trái phiếu thời hạn 5
năm hoặc 10 năm và trái phiếu vĩnh viễn. Theo phạm vi phát hành, công trái cũng
chia ra hai loại: Trái phiếu quốc nội và trái phiếu quốc tế. Lãi suất công trái được
Nhà nước qui định lúc phát hành và chi trả hàng năm.
1.1.3.5. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng.
Gồm: Cho vay không có TSĐB và Cho vay có TSĐB.
Cho vay không có TSĐB: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay
vốn để quyết định cho vay.
Cho vay có TSĐB: Là loại cho vay dựa trên cơ sở có tài sản đảm bảo cho
tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
1.1.3.6. Căn cứ vào phương thức cho vay.
Gồm: Cho vay theo món hay còn gọi là cho vay từng lần và cho vay theo hạn
mức tín dụng.
1.1.3.7. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ gốc.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
13
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Gồm có các loại sau:
Cho vay chỉ có một kỳ trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo

hạn.
Cho vay có nhiều kỳ trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể mà tùy khả
năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất kỳ lúc nào.
1.1.4. Nguyên tắc của tín dụng ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của các NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo sự an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa
trong các quy định của ngân hàng Nhà nước và các NHTM.
1.1.4.1. Khách hàng phải hoàn trả vốn và lãi suất trong thời gian xác định.
Các khoản tín dụng của Ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền
gửi của khách hàng và các khoản Ngân hàng đi vay mượn. Ngân hàng phải có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, Ngân hàng luôn yêu cầu
người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để Ngân
hàng tồn tại và phát triển.
1.1.4.2. Khách hàng phải sử dụng tín dụng đúng mục đích được thỏa thuận.
Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng đúng theo mục đích đã được thỏa
thuận với Ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định
khác của Ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các Ngân
hàng. Bên cạnh đó, các Ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng.
Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo Ngân hàng không tài
trợ cho các hoạt động trái pháp luật, và việc tài trợ đó là phù hợp với quy định của
Ngân hàng.
1.1.4.3. Ngân hàng tài trợ dựa trên các phương án (hoặc dự án) có hiệu quả.
Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất.
Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi
được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ Ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng
phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy
kém an toàn, Ngân hàng đòi hỏi người vay phải có TSĐB khi vay.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
14

Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
1.2. Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng luôn đối mặt với rất nhiều loại rủi ro, như rủi ro tín dụng, rủi ro
hối đoái, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất…
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến.
Phần lớn nguồn tiền của Ngân hàng là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu
cầu. Quá trình gia tăng cạnh tranh trong hệ thống Ngân hàng, giữa các Ngân hàng
và các thể chế tài chính khác dưới hỗ trợ của công nghệ thông tin, cùng với quá
trình toàn cầu hóa, khu vực hóa thị trường tài chính, nguồn tiền của Ngân hàng đang
có thay đổi mạnh mẽ. Các nguồn tiền gửi của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên
dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi hơn cho
một Ngân hàng trong việc tìm kiếm các nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn
định của cả hệ thống.
Tài sản của Ngân hàng chủ yếu là các tài sản tài chính (các khoản cho vay,
chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ Ngân
hàng cho phép Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền của mình đầu tư tới các vùng,
các thị trường khác nhau ngày càng xa trụ sở chính. Điều này, một mặt cho phép
Ngân hàng giảm bớt rủi ro thông qua đa dạng hóa khách hàng, đa dạng hóa sản
phẩm và thị trường. Song, mặt khác cũng làm tăng tính rủi ro do tính biến động lớn
trên thị trường thế giới và khu vực, do thông tin sai lệch…
Có một số quan điểm cho rằng rủi ro là toàn bộ tổn thất có thể xảy ra đối với
toàn bộ Ngân hàng. Một số khác lại cho rằng rủi ro chỉ là những tổn thất có thể xảy
ra ngoài dự kiến. Ví dụ Ngân hàng đang chuyển hoán từ nguồn ngắn hạn sang cho
vay trung và dài hạn sẵn sàng chấp nhận chi phí nguồn vốn cao hơn khi lãi suất thay
đổi để thu lãi cao hơn. Chỉ khi nào lãi suất nguồn tăng vượt dự kiến làm lợi nhuận
của Ngân hàng giảm sút thì lúc đó mới nảy sinh rủi ro lãi suất. Như vậy, rủi ro của
Ngân hàng phải gắn liền với giảm sụt thu nhập ngoài dự kiến.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
15

Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Phân chia rủi ro theo các loại tài sản gồm có: Rủi ro trong quản lý và kinh
doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán,
rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng.
Phân chia rủi ro theo nguyên nhân – các nhân tố tác động, gồm có rủi ro do
người vay không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá
thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy, giấy tờ giả… Sau đây
là cách phân loại rủi ro phổ biến:
1.2.1.1. Rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự kiến là khoản
cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.
Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân hàng, tỷ lệ tổn thất đối
với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung.
Do vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến, Ngân hàng coi đó là một thành công
trong quản lý.
1.2.1.2. Rủi ro hối đoái.
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải chịu
khi tỷ giá thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường
xuyên giao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra
thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá nằm
ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
1.2.1.3. Rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài
dự tính. Lãi suất Ngân hàng (cả bên tài sản và bên nguồn vốn) thường xuyên với
các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất có lien quan mật thiết
với rủi ro tín dụng.
1.2.1.4. Rủi ro thanh khoản.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A

16
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho Ngân hàng khi nhu cầu
thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến, làm gia tăng chi phí để
đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho Ngân hàng mất khả năng thanh khoản.
1.2.1.5. Rủi ro tồn đọng vốn.
Rủi ro tồn đọng vốn xảy ra khi vốn khi vốn bị tồn đọng lớn không cho vay
và đầu tư làm thu nhập của Ngân hàng giảm sút.
1.2.1.6. Rủi ro khác.
Các rủi ro khác là khả năng xảy ra cướp Ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh
toán, hỏa hoạn…
Ảnh hưởng của rủi ro đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Rủi ro gắn liền với hoạt động Ngân hàng thương mại, phản ánh các tình
huống bất thường xảy ra, có thể gây tổn thất cho Ngân hàng. Khi tổn thất xảy ra,
trước hết thu nhập của Ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cổ
phiếu của Ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu của Ngân hàng giảm giá, nếu không được
kịp thời chấn chỉnh, sẽ có thể kéo theo bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là
điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp nhập, hoặc thay thế ban quản lý Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng
loạt người gửi tiền rút tiền ra khỏi Ngân hàng, buộc Ngân hàng phải đóng cửa và
tuyên bố phá sản. Tổn thất ở mức thấp, làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và quỹ
của Ngân hàng. Để đối phó với tình huống trên, Ngân hàng có thể phải giảm tiền
lương (hoặc chi phí khác), hoặc giảm lao động…
Các nguyên nhân gây rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Có nhiều nguyên nhân gây rủi ro cho Ngân hàng.
Do khách hàng: Làm ăn thua lỗ hoặc kém hiệu quả, cố tình chây ỳ hoặc lừa
đảo… dẫn đến không trả được nợ cho Ngân hàng.
Do quản lý yếu kém hoặc tham ô của nhân viên ngân hàng: Không có khả
năng đánh giá chất lượng các khoản cho vay, hoặc cố tình làm sai để mưu lợi riêng.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A

17
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Do các thay đổi bất thường trên thị trường vượt quá khả năng phán đoán của
Ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá, khủng hoảng nợ dây chuyền, những thay
đổi trong quyết định của Chính phủ.
1.2.2. Khái niệm và bản chất của rủi ro tín dụng.
1.2.2.1. Khái niệm.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự kiến là khoản
cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.
1.2.2.2. Bản chất của rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất
của Ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài
trợ cụ thể, Ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người cho vay sao cho độ an
toàn là cao nhất. Và nhìn chung Ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi
ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh Ngân hàng tài
ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay
của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ
Ngân hàng không có đủ khả năng phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan
điểm quản lý toàn bộ Ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách
quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh,
có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được
xác định trước trong chiến lược hoạt động kinh doanh chung của Ngân hàng.
1.2.3. Các nguyên nhân và dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. quản lý rủi ro tín dụng cần
xác định được các nguyên nhân cụ thể, cách thức gây rủi ro tín dụng để có biện
pháp hạn chế.
1.2.3.1. Các nguyên nhân bất khả kháng.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A

18
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả
năng thanh toán cho Ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh hoặc những thay đổi
tầm vĩ mô (thay đổi Chính phủ, thay đổi chính sách kinh tế, thay đổi hàng rào thuế
quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay và người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến người vay,
tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình
có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những
trường hợp khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho Ngân
hàng đúng hạn, đủ cả gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân
bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
1.2.3.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan người đi vay.
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu
kém trong quản lý, chây ì… là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Rất nhiều người
vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích
của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng như cung cấp
thông tin sai, mua chuộc… Nhiều người vay đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc
không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả
năng thích ứng và khắc phục những khó khăng trong kinh doanh. Trong trường hợp
còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho Ngân hàng đúng
hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.2.3.3. Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng.
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh
giá không tốt, cố tình làm sai… là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín
dụng. Nhân viên Ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm
chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách
hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các
vấn đề liên quan đến người vay… Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo
kỹ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng

mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống
trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên Ngân hàng đã không tránh khỏi cám
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
19
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột Ngân hàng. Như vậy chất
lượng nhân viên Ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm
bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng.
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan, song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín
dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên
nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, Ngân hàng cụ thể hóa thành những dấu hiệu chính
phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng.
1.2.4.1. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Bao gồm:
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ khó đòi trên nợ quá
hạn.
- Nợ quá hạn thông thường (có khả năng thu hồi cao).
- Tốc độ tăng, giảm của các tỷ lệ trên: Tỷ lệ càng cao, tốc độ tăng cho thấy rủi
ro cao và có xu hướng tăng và ngược lại.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa
thuận trên hơp đồng tín dụng; hoặc Ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai
mục đích, hoặc tài sản đảm bảo bị giảm giá trị, hoặc khách hàng bị phá sản…
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Nợ khó đòi là khoản nợ quá
hạn đã quá một thời gian nhất định theo quy định của Ngân hàng, hoặc khách
hàng có dấu hiệu lừa đảo, phá sản…
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi
ro tín dụng khác nhau. Đối với Ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có
liên quan đến thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới chi trả tiền gửi và
cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho Ngân hàng: Hy vọng

thu lại tiền vay trở nên mong manh, Ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải
quyết.
1.2.4.2. Nợ có vấn đề (Nợ có khả năng trở thành nợ quá hạn).
Tỷ lệ càng cao, tố độ tăng cho thấy rủi ro cao và có xu hướng tăng và ngược
lại. nhiều khoản cho vay tuy chưa xếp vào nợ quá hạn, xong Ngân hàng nhận thấy
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
20
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
rủi ro đang gia tăng (có các dấu hiệu không tốt như doanh thu sụt giảm, chi phí gia
tăng…).
1.2.4.3. Tình hình tài chính và phương án, môi trường hoạt động của người vay.
Nếu tình hình tài chính của người vay tốt, phương án có hiệu quả cao và môi
trường hoạt động thuận lợi thì rủi ro tín dụng sẽ thấp. Những yếu tố này xấu đi sẽ
cấu thành các khoản nợ có vấn đề.
1.2.4.4. Đảm bảo tiền vay.
Nhiều trường hợp Ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi
uy tín người vay không cao hoặc hoạt động nhiều rủi ro. Như vậy tài sản đảm bảo
càng cao trên tổng dư nợ cho thấy Ngân hàng đang cấp tín dụng cho những khách
hàng có rủi ro cao. Tuy nhiên tài sản đảm bảo sẽ góp phần làm giảm tổn thất cho
Ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ. Vì vậy, khi xem xét yếu tố TSĐB
phải chú ý tới từng trường hợp cụ thể.
1.2.4.5. Một số Ngân hàng dùng phương pháp chấm điểm để phản ánh rủi ro
tín dụng.
Đây là phương pháp đo lường rủi ro tín dụng hiện đại, đòi hỏi Ngân hàng
phải có phần mềm quản lý tập trung. Khách hàng vay vốn sẽ được chấm điểm dựa
trên các yếu tố tài chính và phi tài chính (tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh
doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ với ngân hàng và tính sòng phẳng…) sau đó
được xếp hạng. Hạng càng cao (A) rủi ro càng thấp và ngược lại.
1.2.4.6. Tính đa dạng hóa trong tài sản của Ngân hàng.
Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lý Ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo

rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập hồ sơ khách
hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay…
Mất ổn định vĩ mô.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
21
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Chính sách thường xuyên thay đổi , lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn
định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến
người vay. Do vậy mất ổn định vĩ mô được Ngân hàng xem là một nội dung phản
ánh rủi ro tín dụng.
Tính kém đa dạng của tín dụng.
Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ của
người đi vay là khó tránh khỏi. Nếu Ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm
khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng
hóa.
Để phản ánh rủi ro tín dụng, nhiều Ngân hàng kết hợp phân loại nợ với giá
trị tài sản đảm bảo.
1.2.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng.
1.2.5.1. Rủi ro làm phát sinh tăng chi phí, giảm lợi nhuận.
Khi các Ngân hàng cho vay xuất hiện những khoản nợ quá hạn, việc đầu
tiên là các Ngân hàng cho vay phải tìm cách thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ quá hạn
vừa làm mất thời gian của cán bộ cho vay, vừa làm tăng khoản chi phí về đi lại để
lấy nợ. Nếu các khoản nợ này có liên quan đến nhiều bên thì Ngân hàng cho vay
phải chi phí về cả thời gian lẫn tiền cho công việc thương lượng, gặp gỡ các bên
trong quá trình xử lý nợ. Đây là những chi phí trước mắt mà các Ngân hàng cho vay
phải bỏ ra. Bên cạnh đó các Ngân hàng cho vay phải bỏ ra chi phí cơ hội rất lớn:
Các khoản nợ quá hạn làm chậm lại vòng quay vốn tín dụng, làm mất đi các khoản
đầu tư khác của mình, chưa kể đến sự ảnh hưởng lớn của nợ quá hạn với tâm lý của
cán bộ cho vay. Nợ quá hạn phát sinh làm cho cán bộ tín dụng phải mất thời gian xử
lý nợ, không tiếp cận được những món vay mới đồng thời còn làm cho cán bộ cho

vay ngần ngại mở rộng hoạt động cho vay… Tất cả những vấn đề này làm giảm thu
nhập tiềm ẩn và làm tăng chi phí cho các Ngân hàng cho vay, từ đó làm ảnh hưởng
tới kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cho vay.
1.2.5.2. Rủi ro làm giảm uy tín các Ngân hàng cho vay.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
22
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Các Ngân hàng cho vay khi gặp rủi ro, kinh doanh kém hiệu quả, uy tín sẽ bị
giảm sút trên thị trường. Đây là sự thiệt hại vô hình mà không thể lường được giá
trị.
1.2.5.3. Rủi ro gây tổn thất gián tiếp cho các Ngân hàng khác.
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó liên quan
đến mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, là khâu cốt yếu cung cấp vốn cho nền kinh
tế. Vì vậy, Ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết
vĩ mô của nhà nước. Nếu có sự thất thoát lớn trong hoạt động tín dụng dù chỉ ở một
Ngân hàng cho vay trực thuộc, không khắc phục kịp thời thì có thể gây nên “phản
ứng dây chuyền” đe doạ đến an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống Ngân hàng,
gây hậu quả rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay ở Việt Nam, dư nợ cho vay chiếm phần lớn trong dư nợ tín dụng
của Ngân hàng thương mại và phi ngân hàng, đây sẽ là hoạt động kinh doanh chính
của Ngân hàng thương mại là điều kiện cần phát triển trong cho nền kinh tế, việc
các Ngân hàng thương mại gặp rủi ro, bị tổn thất sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống
Ngân hàng và gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
1.2.6. Hạn chế rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất đối với các Ngân hàng thương mại,
bao gồm hai mặt: Sinh lời và Rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của các Ngân hàng là từ
hoạt động tín dụng… Đứng trước quyết định cho vay, cán bộ Ngân hàng phải cân
nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng được coi là
nội dung quản lý quan trọng của Ngân hàng thương mại. Hạn chế rủi ro tín dụng
bao gồm:

1.2.6.1. Hạn chế sự phát sinh các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn, nợ
khó đòi.
Nội dung này đòi hỏi Ngân hàng phải thận trọng khi cấp tín dụng, thực hiện
đa dạng hóa.
a. Thực hiện các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong Luật các tổ chức
tín dụng, và trong các Nghị định của Ngân hàng Nhà nước.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
23
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Các quy định nêu rõ trường hợp cấm các Ngân hàng không được tài trợ, điều
kiện Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ.
b. Xác định danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau.
Các loại khách hàng khác nhau, các đối tượng cho vay khác nhau… sẽ có rủi
ro khác nhau.
- Tín dụng thương mại.
Rủi ro liên quan tới khả năng đánh giá tình trạng kinh doanh, tài chính của
người vay. Ngân hàng cần thu thập thông tin cả trong quá khứ lẫn tương lai. Tuy
nhiên, khía cạnh tương lai của công ty quan trọng hơn so với quá khứ. Những khách
hàng truyền thống, có mối liên hệ tôt với Ngân hàng có mức rủi ro thấp hơn. Rủi ro
trong cho vay thương mại chủ yếu là do những tác động của thi trường đối với
người vay (giá hàng bán giảm sút, giá nguyên liệu tăng, thiên tai, cạnh tranh…).
- Cho vay đối với người tiêu dùng.
Rủi ro liên quan tới thu nhập của người vay và khả năng kiểm soát thông tin
về người vay: Thông tin thường ít, Ngân hàng khó kiểm soát người vay và khó thu
nợ, công ăn việc làm của người vay không ổn định…
- Cho vay đối với các trung gian tài chính khác.
Các trung gian tài chính khác như các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức
tài chính phi Ngân hàng. Phần lớn các khoản cho vay này là không có đảm bảo, do
vậy nếu các tổ chức đi vay bị phá sản thì Ngân hàng cho vay sẽ bị mất. Vì vậy rủi ro
liên quan tới vị thế của Tổ chức tài chính đi vay.

- Cho vay đối với Nhà nước.
Cho vay đối với Nhà nước có độ an toàn cao. Tuy nhiên trong khủng hoảng
kinh tế toàn cầu hoặc khu vực, thì các khoản cho vay đối với Nhà nước cũng bị ảnh
hưởng.
c. Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng.
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong Ngân hàng, đòi hỏi
phải có sự kết hợp, và chỉ đạo chung thông qua chính sách, quy tắc và sự kiểm soát
chung.
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
24
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Lê Phong Châu
Chính sách tín dụng với mục tiêu chính là mở rộng tín dụng đồng thời hạn
chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho Ngân hàng. Chính sách tín dụng
nhằm hạn chế rủi ro như: Chính sách tài sản đảm bảo, chính sách bảo lãnh, chính
sách đồng tài trợ…
Quy trình phân tích tín dụng do Ban giám đốc gân hàng quyết định, được xây
dựng một cách chi tiết và quán triệt xuống từng Chi nhánh Ngân hàng, từng cán bộ
Ngân hàng. Quy trình phân tích tín dụng thể hiện những nội dung mà cán bộ tín
dụng phải thực hiện khi cho vay, nhằm hạn chế rủi ro như phân tích tình hình sản
xuất kinh doanh, thẩm định dự án cho vay, lịch sử của người vay, mục đích vay,
kiểm soát trong khi cho vay…
Bên cạnh chính sách và quy trình nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, Ngân hàng
còn xây dựng quy chế kiểm tra, phân định trách nhiệm và quyền hạn, khen thưởng
và kỷ luật đối với các nhân viên tín dụng.
d. Xác định dấu hiệu các khoản cho vay có vấn đề, giới hạn các khoản tín dụng
và đa dạng hóa.
- Xác định các khoản cho vay có vấn đề.
- Xác định tỷ trọng các khoản cho vay khác nhau.
- Xây dựng chiến lược đa dạng hóa.
1.2.6.2. Xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề.

Thành lập Công ty (hoặc phòng, ban) quản lý nợ xấu: Xây dựng chính sách
xử lý nợ xấu thích hợp. Phân công và quy trách nhiệm đòi nợ. Liên kết các bên
Ngân hàng – Khách hàng – Chính quyền địa phương trong việc xử lý nợ.
Ngân hàng phân loại nợ quá hạn (nợ khó đòi, nợ quá hạn có khả năng thu
hồi) hoặc nợ có vấn đề theo các tiêu thức đã được quy định, phân tích nguyên nhân,
thực trạng, khả năng giải quyết.
Trong trường hợp người vay có khó khăn về tài chính tạm thời song vẫn còn
khả năng và ý chí trả nợ, Ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ như cho vay thêm,
gia hạn nợ, giảm lãi…
Vũ Thị Minh Thuý Lớp: Ngân hàng 50A
25

×