Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ KHAI THÁC VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.67 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ KHAI THÁC VỐN TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ.
I. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Láng Hạ.
1. Sơ lược về quá trình hình thành.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng nong nghiệp) là
doanh nghiệp nhà nước, kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng đối với
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước, làm uỷ thác
các nguồn vốn trung và dài hạn, ngắn hạn của chính phủ, các tổ chức kinh tế, xã
hội, cá nhân trong và ngoài nước, thực hiện tín dụng tài trợ chủ yéu cho nông
nghiệp và nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp được thành lập theo Quyết định số
400 - Công ty ngày 14/11/1990 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng
chính phủ).m nông nghiệp là một pháp nhân bao gồm hội sở (trung tâm điều hành),
các chi nhánh, văn phòng đại diện được Nhà nước cấp vốn lần đầu 200 tỷ đồng vốn
điều lệ (tương đương 30 triệu USD), tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh và những cam kết của mình, có bản tông rkết tài sản và con dấu
riêng, hoạt động trong khuôn khổ pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và
Công ty tài chính.
Trước những khó khăn chung của nền kinh tế những năm đầu thập kỷ 90,
Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam khi mới thành lập đã phải đối đầu với nhiều gia
khó, phải “gồng mình”trước những thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Nhưng khi
nền kinh tế đất nước đã ổn định và phát triển, đặc biệt kể từ năm 1995, Ngân hàng
nông nghiệp đã không ngừng vươn lên khẳng định vị trí của mình, hoạt động luôn
có lãi và có sự tăng trưởng mạnh. Đứng trước những nhu cầu ngày càng tăng của
nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn và các dịch vụ Ngân hàng của các doanh nghiệp
ngày càng tăng, bên cạnh đó nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động đa dạng hoá các
nghiệp vụ Ngân hàng, nâng cao uy tín hiệu quả hoạt động của mình và nhận thấy
vị trí trụ sở 24 Lnág Hạ có nhiều thuận lợi. Ngày 18/03/1997 Ban lãnh đạo Ngân
hàng nông nghiệp Việt Nam đã quyết định thành lập chi nhánh mới trực thuộc
trung tâm điều hành Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam tại địa điểm này, chi nhánh
Ban giám đốc


Phòng tổ chức hành chính
Phòn kinh doanh Phòng thanh toán quốc tế
Phòngkế toán và ngân quỹ
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNN&PTNT) Láng Hạ được
hình thành trên tiền đề đó.
Với tư cách là một chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam
(NHNN&PTNT) Láng Hạ là một đại diện uỷ quyền của Ngân hàng nông nghiệp
Việt Nam, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của NHNN&PTNT, chịu
sửàng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với NHNN&PTNT. Về pháp lý, chi nhánh
Láng Hạ cũng có con dấu riêng, được ký kết các hợp đồng kinh tế, dân sự, chủ
động kinh doanh, tổ chức theo phân cấp uỷ quyền của nh nông nghiệp Việt Nam.
Chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ có nhiệm vụ khai thác và huy động vốn
trong và ngoài nước, huy động các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn từ các
thành phần kinh tế như: chính phủ, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, dân cư,
các tổ chức nước ngoài bằng USD và VNĐ để tiến hành các hoạt động cho vay
ngắn, trung, và dài hạn, đầu tư và tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn.
Là một Ngân hàng nông nghiệp mới được thành lập từ năm 1997 đến nay,
quy mô hoạt động của chi nhánh Láng hạ chưa lớn, nhân sự hạn chế, bởi
vậyphương châm của Ngân hàng là cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả và an toàn.
Với đội ngũ cán bộ công nhân viên chức hiện tại là 58 người phân theo sơ đồ sau:
Mỗi phòng ban thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo sự phân công
và chỉ đạo của ban giám đốc.
3. Những thuận lợi và khó khăn của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp láng
hạ.
Ngay từ khi mới thành lập, chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã
phải chứng tỏ mình trước không ít những thuận lợi và thách thức, khó khăn.
Ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn nói riêng thực hiện chấn chỉnh hoạt động tín dụng Ngân hàng nhằm nâng cao

chất lượng, hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng thương mại và uy tín của
ngành. Uy tín của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được
nâng cao hơn có tác dụng tích cực tới công tac thu hút khách hàng và đa dạng hoá
hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ.
Là một chi nhánh mới được thành lập, tuy còn bỡ ngỡ non trẻ trong hoạt
động, nhưng Ngân hàng có thể tranh thủ kế thừa, học hỏi những kinh nghiệm rút ra
từ những thành công thất bại của các NHTM khác. Thêm nữa, Ngân hàng có trụ sở
đặt tại vị trí hết sức thuận tiện, trên một đại bàn sôi động, có điều kiện thuận lợi để
phát triển hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh và dich vụ một cách đa dạng. Mặt
khác, các nguồn huy động từ tiền gửi của các tổ chức tín dụng và tiết kiệm từ dân
cư là rất phong phú giups cho Ngân hàng có khả năng đáp ứng tối đa nhu cầu của
doanh nghiệp cũng như dân cư.
Bên canh đó, trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, Ngân hàng
luôn nhận được sự chỉ đạo, giúp đỡ có hiệu quả và rất kịp thời từ NHNN&PTNT
Việt Nam, sự quan tâm ủng hộ của chính quyền thành phố.
Một thuận lợi hết sức quan trọng nữa đối với Ngân hàng trên bình diện vĩ
mô là sự phục hồi phát triển cuả nền kinh tế thế giới và khu vực. Nenè kinh tế Việt
Nam, nền kinh tế mà trước đây một vài năm trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế
của khu vực vẫn có mức tăng trưởng dương, nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
năm 1997 đạt 6,5% và 5,8% năm 1998, tăng trưởng nông nghiệp 4,5% năm 1997
và 3% năm 1998, tăng trưởng công nghiệp năm 1997 là 14% và 11% năm 1998 thì
nay dưới sự phục hồi của nền kinh tế khu vực sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong
việc phát triển kinh tế trên tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt động của đất nước.
Trong đó đặc biệt có ngành Ngân hàng, một ngành mà bản thân nó đã chịu ảnh
hưởng lớn và sâu sắc nhát trong cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực vừa qua.
Một tín hiệu tốt đẹp đối với hoạt động của ngành Ngân hàng là sự đang hình
thành và phát triển của thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Với hai giao dịch tại
Hà Nội và thành phôd HCM và khi sở giao dịch chính thức hình thành thì hoạt
động của nền kinh tế chắc chắn sẽ sôi động và lĩnh vực kinh doanh trên thị trường
chứng khoán sẽ đem lại tỷ phần thu không nhỏ trong thu nhập và trong tăng trưởng

nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng.
Bên cạnh những thuận lợi trên, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn cũng gặp không ít khó khăn bao gồm cả những khó khăn chung của ngành
Ngân hàng và khó khăn riêng do đặc điểm của chi nhánh Láng Hạ khi mới bắt đầu
thành lập.
Nhìn chung năm 1997-1998 khi Ngân hàng mới thành lập, kinh tế thủ đo có
tăng trưởng nhanh hơn với các tỉnh khác, Tuy nhiên tốc độ này đã sớm bị chững
lại. Bên cạnh những thịt hại về thiên tai luc lụt, nền kinh tế còn chịu sự tác động,
chi phối của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, tiền tệ khu vực gây tâm
lý bất ổn cho khách hàng dẫn đến co hẹp về hoạt động, sự cạnh tranh giữa các
Ngân hàng trong nước, Ngân hàng nước ngoài, đặc biệt tại thủ đô Hà Nội cạnh
tranh ngày càng quyết liệt của hơn 60 Ngân hàng trên tất cả các lĩnh vực huy động
vốn, mở rộng cho vay, thanh toán, mua ngoại tệ... diễn ra sôi động, gay gắt làm cho
việc tìm kiếmm khách hàng hết sức khó khăn. Chi nhánh Láng hạ chưa tạo được
niềm tin lớn đối với các Ngân hàng đối tác nước ngoài, gây cho họ tâm lý đắn đo,
nghi ngờ khi giao dịch với Ngân hàng.
Một thực tế tồn tại hiện nay là trong khi các doanh nghiệp đang hết sức cần
vốn để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh thì tại các Ngân hàng lại xảy ra tình
trạng ứ đọng vốn lớn mà không giải ngân được. Tình trạng thiểu phát kéo dài trong
năm 1999 mặc dù Ngân hàng nông nghiệp đã 5 lần hạ lãi suất trần cho vay từ
1,2%/tháng xuống còn 0,85%/tháng nhằm thực hiện chủ trương kích cầu của chính
phủ, nhưng do nền kinh tế vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính, tiền tẹ khu vực nên nhìn chung các doanh nghiệp thiếu các dự án khả thi
và do vậy việc thẩm định và cho vay trở nên khó khăn gây ứ đọng vốn cho Ngân
hàng.
Bên cạnh đó, quy mô hoạt động của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng
hạ còn hạn chế, đội ngũ cán bộ của Ngân hàng còn chưa cập nhật cả trong cũng
như ngoại ngữ cho giao dịch với bạn bè quốc tế.
II. Thực trạng nghiệp vụ khai thác vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Láng hạ.

1. Các hình thức khai thác vốn được áp dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông
nghiệp Láng hạ.
Ngay từ khi thành lập Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã phát triển nguồn
vốn của mình để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Bằng các biện pháp
và chính sách cụ thể, nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ ngày càng
gia tăng với khối lượng năm sau cao hơn năm trước.
Để đạt được kết quả đó Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã áp dụng những
hình thức sau:
* Huy động bằng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm.
Tiết kiệm là hình thức huy động được các Ngân hàng Thương mại áp dụng
từ lâu với các thời hạn và mức lãi suất quy định cho từng thời hạn đó. Trong hình
thức huy động này có rất nhiều thể thức được áp dụng.
+ Thể lệ tiết kiệm bằng tiền với các loại kỳ hạn: Không kỳ hạn, ba tháng, 6
tháng, 9 tháng, 12 tháng... cũng được áp dụng rộng rãi trong thời gian đầu với mức
lãi suất cao đủ sức hấp dẫn người gửi tiênf.
+ Thể lệ gửi tiền tiết kiệm bằng ngân phiếu thanh toán nhằm mực đích huy
động nguồn vốn nhàn rỗi bằng ngân phiếu thanh toán vào Ngân hàng và tạo điều
kiện cho dân chúng làm quen với “dấu hiệu giá trị” mới này.
+ Thể thức huy động tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ với mục đích huy động
nguồn vốn nhàn rỗi bằng ngoaị tệ trong dân cư vào Ngân hàng để phát triển kinh
tế.
+ Thể thức huy động tiền gửi tiết kiệm gửi một nơi lĩnh tiền nhiều nớinhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việclĩnh tiền, tạo tâm lý cho khách
hàng không cần giữ tiền mặt trong người.
* Huy động bằng phát hành kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích:
Phát hành kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích bằng ngoại tệ. Kỳ phiếu Ngân
hàng có mục đích của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ là một loại giấy nhận nợ do
Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ phát hành, nhằm huy độg vốn nhàn rỗi trong dân
cư một cách linh hoạt, đáp ứng cho mọi chương trình, dự án kinh tế nhất định. Kỳ
phiếu Ngân hàng có mục đích được ghi vào thu, chi bằng tiền Việt Nam và ngoại

tệ (USD). Căn cứ vào tình hình nguồn vốn và yêu cầu mở rộng tín dụng theo các
dự án đầu tư cụ thể của từng chi nhánh để tiến hành bán kỳ phiếu Ngân hàng có
mục đích này.
* Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu để bổ sung cho nguồn vốn
vay trung và dài hạn đối vơí nền kinh tế.
* Huy động bằng việc tổ chức mở dịch vụ thanh toán, khuyến khích mọi
thành phần kinh tế mở tài khoản tại các chi nhánh của Ngân hàng nông nghiệp. Tài
khoản tiền gửi của các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân tại Ngân hàng được phân
chia làm hai loại: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Đối với loại tài
khoản tiền gửi có kỳ hạn, Ngân hàng có thể sử dụng chúng một cách có kế hoạch
có mục đích đầu tư của Ngân hàng, còn loại tài khoản tiền gửi không kỳ hạn khách
hàng chỉ sử dụng nó để được hưởng những tiện lợi trong thanh toán phục vụ chi trả
cho các giao dịch mua bán, loại tiền gửi không kỳ hạn này chỉ có một ưu thế là lãi
suất thấp nó tạo điều kiện cho Ngân hàng giảm được laĩ suất đầu vào và trên cơ sở
đó tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng có khả năng cạnh tranh trên thương
trường.
Ở Việt Nam, theo Nghị định 91/CP của thủ tướng chính phủ ngày
25/11/1993 và quyết định 22/QĐ - NH ngày 21/2/1994 của thống đốc Ngân hàng
nhà nước Việt Nam, mọi cá nhân đều có quyền mở tài khoản thanh toán ở Ngân
hàng và được sử dụng séc chi trả.
Ngoài ra mới đây chính phủ mới ban hành nghị điịnh 30/CP ngày 9/5/1996
về quy chế phát hành và sử dụng séc có sửa đổi một số quy định về séc. Đông thời
ngân hàng nhà nước có thông tư 07/TT - NH ngày 27/12/1996 hướng ddaanx viưệc
thực hiện quy chế này. Tuy vậy, muốn mọi cá nhân trong nền kinh tế chấp nhận và
sử dụng séc còn lại cả một vấn đề khác kèm theo.
2. Thực trạng nghiệp vụ kai thác vốn tại Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ.
2.1. Tổ chức tạo vốn của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp láng Hạ.
Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ hình thành
thị trường tài chính, các trung gian tài chính mà trước hết là các NHTM. Nền kinh
tế Việt Nam đang trong quá trình chyển đổi sang cơ chế thị trường và toàn bộ hệ

thống Ngân hàng ở nước ta cũng đang vận động đổi mới theo hướng hình thành và
phát triển các NHTM và các trung gian tài chính khác.
NHNN Láng Hạ chuyên kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ Ngân hàng, tuy
còn non trẻ nhưng là một Ngân hàng quốc doanh hoạt động trên địa bàn rộng lớn,
đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế. Tính đến cuối năm 2000 chi
nhánh đã thu hút được 3500 tài khoản tiền gửi và 60.000 khách hàng gửi tiền tiết
kiệm. Mặc dù Ngân hàng nhà nước nhiều lần điều chỉnh giảm mức lãi suất huy
động nhưng tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng vẫn tăng mạnh. Đến
31/12/2000 đạt 2000 tỷ tăng 70% so với cuối năm 1999. Đạt được 143% kế hoạch
đề ra.
Trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư đạt 540 tỷ chiếm 27%. Tiền gửi từ
các tổ chức kinh tế đạt 1230 tỷ chiếm 60,15%. Tiền vay của các tổ chức tín dụng
và tiền gửi khác đạt 230 tỷ chiếm 12,85%. Trên cơ sở tăng trưởng nguồn vốn huy
động và bám sát nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế, trong thời gian qua chi
nhánh đã mở rộng đầu tư vốn tín dụng cho các thành phần kinh tế. Tổng dư nợ cho
vay đến 31/12/2000 đạt 661 tỷ đồng so với năm 1999 tăng 140 tỷ bằng 127,2% đạt
86% kế hoạch đầu năm đề ra. Vượt 8,2% so với mục tiêu đề ra của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Bình qua dư nợ trên một cán bộ
công nhân viên chức 11,4 tỷ. Dư nợ cho vay kinh tế quốc doanh 85,3% và ngoại tệ
chiếm 43,7% tổng dư nợ. Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ đã tập trung vốn cho
vay các doanh nghiệp nhà nước, các ngành kinh tế mũi nhọn, các cơ sở sản xuất và
hộ tư nhân kinh doanh có hiệu quả, năng động. Giúp các doanh nghiệp đứng vững
trong cạnh tranh, kinh doanh có lãi góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người
lao động, cho vay trung và dài hạn có chuyển biến mạnh mẽ. Ngân hàng nông
nghiệp Láng hạ đã tăng trưởng vốn trung và dài hạn cả về số lượng dự án và số vốn
đàu tư. Dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 75,2% trong tổng dư nợ.
Điều nổi bật đáng quý là quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng
nông nghiệp đang từng bước chuyển đổi thích nghi để thực hiện các mục tiêu kinh
tế xã hội là hướng vào tạo vốn, đặc biệt là quan tâm đến huy động vốn trong và
ngoài nước đáp ứng yyêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất

nước.
+ Diễn biến về cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
Như chúng ta đã biết, công tác huy động vốn là tiền đề thực hiện các nhiệm
vụ tiếp theo của Ngân hàng, là nền tảng, là bước cơ bản đầu tiên trong suốt quá
trình kinh doanh của Ngân hàng để mở rộng thị trường tín dụng. Chính vì vậy mà
cạnh tranh, thu hút khách hàng là vấn đề sống còn đối với bản thân Ngân hàng.
Hiểu rõ như vậy nên Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ luôn cải tiến, mở rộng hình
thức huy động vốn một cách linh hoạt theo xu hướng chung của thị trường: cải tiến
nghiệp vụ, đổi mới phong cách giao dịch, trang bị vi tính đến từng quỹ tiết kiệm,
cải tiến mẫu các giấy tờ giao dịch tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người gửi nên
nguồn vốn huy động của Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ không ngừng tăng lên
rất nhanh. Ngân hàng đã tập trung chỉ đạo phòng kế toán tạo mọi điều kiện thuận
lợi để các tổ chức và cá nhân mở tài khoản và hướng dẫn thủ tục chu đáo. Đồng
thời cử cán bộ tín dụng đến tận doanh nghiệp để mở tài khoản giao dịch ngay.
Ngân hàng đã thực hiện nhanh chóng chính xác, kịp thời tiền séc, ngân phiếu,
không ngừng thu hút khoản tiền nhàn rỗi của khách hàng vào tài khoản. Hiện nay
đang thí điểm loại hình tiết kiệm điện tử bước đầu đã mang lại sự tiện lợi cho
khách hàng và Ngân hàng tính đến cuối năm 2000, chi nhánh đã thu hút được trên
3500 tài khoản tiền gửi và 60.000 khách hàng gửi tiền tiết kiệm.
Mặt khác mạng lưới của Ngân hàng không ngừng được mở rộng. Để tạo lập
nguồn vốn lành mạnh, tránh hiện tượng sốc, Ngân hàng đã vận dụng chính sách lãi
suất phù hợp với từng giai đoạn, vừa đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền Ngân
hàng đã chú tâm dồn sức huy động vốn phù hợp với cơ chế mới như tiết kiệm dài
hạn trả lãi trước, tiết kiện xây dựng nhà ở, tiết kiệm ngoại tệ, các loại trái phiếu
đảm bảo giá trị theo vàng. Ngoài ra khi cần Ngân hàng còn vay vốn của các tổ
chức tín dụng, các đơn vị khách hàng nhằm tạo lợi thế kinh doanh có hiệu quả.
Bảng huy động nguồn vốn qua các năm.
Đơn vị: tỷ đồng Việt Nam.
Năm 1997 1998 1999 2000
Nguồn vốn huy động 236 883 1144 2000

Nguồn số liệu trên được trích từ bảng báo cáo kết quả kinh doanh từ năm
1997 - 2000 của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Láng Hạ.
**************
+ Các giải pháp tạo vốn đã được áp dụng tại NHNN Láng hạ.
Nghiệp vụ khai thác vốn là nghiệp vụ chính của Ngân hàng Thương mại nói
chung, nó có tính chất quyết định đến quy mô hoạt động và thời lượng tín dụng,
đầu tư của Ngân hàng. NHTM và các tổ chức tín dụng khác đều thực hiện nghiệp
vụ đi vay để cho vay. Vì vậy chỉ có huy động vốn được nhiều thì mới có điều kiện
mở rộng đầu tư mà trên cơ sở mới có doanh thu và lợi nhuận.
Vốn mà các Ngân hàng dùng để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế quốc dân
dưới nhiều hình thức riêng biệt hoàn toàn phụ thuộc vào vốn mà nó huy động
được.
Như vậy, nghiên cứu các gải pháp để mở rộng việc huy động vốn trong các
lĩnh vực chính yếu nhất, trong các mặt hoạt động của Ngân hàng nhằm tìm ra
những phương hướng cơ bản nhất giúp đỡ các Ngân hàng phát triển các hoạt động
của mình, vì sự phồn thịnh của nền kinh tế và của chính bản thân Ngân hàng.
Một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước đó là vốn. Muốn thực hiện thành công thì chính phủ, các tổ chức kinh
tế thì Ngân hàng phải có một chiến lược khai thác vốn đáp ứng cho nhu cầu phát
triển kinh tế.
Ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng nông nghiệp Láng hạ nói riêng,
với vị trí trên thị trường tài chính Việt Nam dặc biệt là thu hút vốn để phát triển
kinh tế trong nước. Với nhiệm vụ to lớn là huy động vốn phát triển kinh tế, Ngân
hàng đã và đang sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp khởi tăng nguồn vốn có hiệu
quả hơn.
- Đa dạng hoá các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm.
Trong mấy năm vừa qua, mặc dù có khủng hoảng tiền tệ ở một số nước
trong khu vực nhưng nguồn tiền gửi dân cư tại hầu hết các Ngân hàng đều ổn định
và tăng trưởng. Tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Lán hạ, nguồn tiền gửi này
cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó và đã đạt được những thành quả riêng.

Nguồn tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng ổn định trong tổng nguồn và có xu
hướng tăng. Tỷ trọng nguồn là 5,8% năm 1997, 9,76% năm 1998, 20,19% năm 99
thì năm 2000 là 27%. Nguồn vốn tiền gửi ngày càng được gia tăng và giữ vị trí
quan trọng trong việc phát triển các nghiệp vụ của Ngân hàng mang một ý nghĩa
chiến lượng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
NHNN Láng hạ đã có những giải pháp thích hợp uyển chuyển nhằm kết hợp
hài hoà giữa lợi ích của người đi vay và lợi ích của người cho vay.
Chính sách lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn bằng hình
thức tiền gửi tiết kiệm. Chính sách lãi suất của Ngân hàng đã điều chỉnh sát với
quan hệ cung cầu và lạm phát. Nói đúng hơn, chính sách lãi suất đã giải quyết thoả
đáng các mối quan hệ hư: quan hệ lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, quan hệ
giữa lãi suất đồng nội tện với lãi suất ngoại tệ, quan hệ giữa lãi suất cho vay ngắn
hạn và lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn.
Lãi suất là một đòn bẩy quan trọng nhất trong việc huy động tiền gửi vì mục
đích cuối cùng của người có tiền gửi là có được lợi tức. Lãi suất huy động càng cao
thì khối lượng tiền gửi càng lớn. Tuy nhiên, mức lãi suất này luôn luôn bị khống
chế bởi lãi suất cho vay và lãi suất trần quy định của Ngân hàng nhà nước. Tuỳ
trường hợp mà Ngân hàng đưa ra mức lãi suất hu động cho phù hợp.

×