Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.62 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TĂNG HOÀNG MY

NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Bùi Thị Huyền

HÀ NỘI 2012


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1.BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, được sửa đổi bổ sung
bởi Luật số 65/2011/QH12

2.HĐXX

Hội đồng xét xử


3.PLTTGQCVADS

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

4.PLTTGQCTCLĐ

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

5.PLTTGQCVAKT

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

6. PTSTDS

Phiên toà sơ thẩm dân sự

7.TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

8.TTDS

Tố tụng dân sự

9.XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC CUNG
CẤP CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ....................................................................................................................1
1.1. Khái niệm nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự……………………………………………………………...............1
1.2. Cơ sở của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân
sự………………………………………………………………..................8
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự……………………...……………………………………..............11
1.4. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự với các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng dân
sự…..........................................................................................................13
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong TTDS............................................................................16
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG CỨ VÀ
CHỨNG MINH THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM……………………………………………………………………….21
2.1. Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh………….......21
2.2. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và chứng minh của đương sự…………………………….. ...................36
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC CUNG CẤP
CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ. .………...…46
3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự…………………………………………………………….…46
3.2. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện và thực hiện nguyên tắc cung
cấp chứng cứ và chứng minh……………………………………………67



3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện trên
thực tế nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân
sự…………………………………………………………………….…...71
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã và đang đạt được những thành
tựu to lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng cùng với sự phát triển
của kinh tế thị trường và của các quan hệ dân sự cũng kéo theo sự gia tăng các
tranh chấp dân sự theo chiều hướng ngày càng đa dạng, phức tạp. Chính vì vậy,
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân, bảo đảm kỷ cương xã hội, một trong những nhiệm vụ quan trọng
được Đảng và Nhà nước đặt ra là phải từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật TTDS nói riêng.
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, hoạt động cung cấp và
thu thập chứng cứ có vai trị vơ cùng quan trọng để giải quyết các tranh chấp một
cách nhanh chóng và đúng pháp luật. Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị ngày
2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới
đã khẳng định: “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và
những người có quyền và lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng
pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định”[6]. Trong
thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự những năm gần đây nhìn chung TAND
các cấp đã có nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động chứng minh, nghĩa vụ

cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự, trách nhiệm thu thập và đánh
giá chứng cứ để từ đó làm tốt nhiệm vụ của mình đồng thời bảo đảm cho các chủ
thể tham gia tố tụng thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của họ nhằm mục đích giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh đó, thực tiễn xét xử cũng
cho thấy tỷ lệ bản án bị hủy, bị sửa và qua nhiều cấp xét xử vẫn chiếm tỷ lệ khá
cao. Nguyên nhân của tình trạng này một phần cơ bản xuất phát từ việc chưa xác


định đúng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động cung
cấp chứng cứ và chứng minh.
Vì vậy, việc nghiên cứu “Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự” có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng những yêu cầu
của cải cách tư pháp cũng như những đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế, xã
hội, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định chứng cứ và chứng minh là một chế định quan trọng và phức tạp
của pháp luật TTDS. Cho đến nay đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này ở những khía cạnh khác nhau như: Luận văn thạc sĩ của tác
giả Nguyễn Minh Hằng với đề tài “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong
TTDS Việt Nam” năm 2002; Luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Văn Đồng với đề
tài “Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong BLTTDS” năm 2006; Luận án tiến sĩ
của tác giả Nguyễn Minh Hằng với đề tài “Chế định chứng minh trong TTDS
Việt Nam” năm 2007; một số bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như:
“Chế định chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS” (Nguyễn Cơng Bình, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 2/2004); "Chứng cứ và chứng minh trong TTDS”
(Hồng Ngọc Thỉnh, Tạp chí Luật học số đặc san góp ý BLTTDS); "Thời hạn
cung cấp chứng cứ của đương sự” (Bùi Thị Huyền, Tạp chí Luật học)... Tuy
nhiên, cho đến nay chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách
đầy đủ và có hệ thống về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
TTDS.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu khái niệm, cơ sở, ý nghĩa của nguyên tắc cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong TTDS, mối liên hệ giữa nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh với các nguyên tắc khác của TTDS và các yêu tố ảnh hưởng đến
việc thực hiện nguyên tắc.


- Phân tích các quy định, đánh giá thực trạng của pháp luật TTDS Việt
Nam hiện hành về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh.
- Đưa ra các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đầy đủ nguyên tắc cung cấp chứng
cứ và chứng minh trên thực tế.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật
của một số nước về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong TTDS tại các Tòa án Việt Nam nhằm làm rõ những ưu điểm và bất
cập của việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học
Khóa luận đã được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận về Nhà nước và
pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp được sử dụng trong luận văn là phương pháp nghiên cứu
khoa học chuyên ngành được sử dụng như phương pháp lịch sử, phân tích, so
sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp xã hội học như lấy số liệu, khảo sát,
phỏng vấn, sử dụng các kết quả thống kê…
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và

chứng minh trong TTDS.
Chương 2: Nội dung nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh theo
quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo
đảm thực hiện nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS.


1

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC CUNG CẤP CHỨNG
CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1 Khái niệm nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
tố tụng dân sự
Theo cách hiểu chung nhất, nguyên tắc là một thuật ngữ được dùng để
chỉ “điều cơ bản đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc
làm”[12, tr.694]. Hoạt động TTDS là một dạng của hoạt động thực tiễn nên
cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc của một ngành
luật là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng
và thực hiện các quy định của nó. Tuy vậy, trên thực tế các tư tưởng pháp lý
chỉ có giá trị bắt buộc nếu được thể hiện dưới hình thức quy phạm pháp luật.
Các nguyên tắc của một ngành luật thường được quy định trong các văn bản
pháp luật về ngành luật đó làm cơ sở cho việc thực hiện và được quy định
dưới dạng quy phạm chung. Luật TTDS Việt Nam là một ngành luật cụ thể
của hệ thống pháp luật Việt Nam nên cũng mang những đặc điểm chung đó.
Xét về mặt nội dung, các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS là những
quy phạm chỉ đạo, mang tính chất cơ sở, nền tảng cho tồn bộ quy trình
TTDS. Nội dung của các quy phạm này phải được quán triệt trong toàn bộ các
quy phạm của pháp luật TTDS và cũng chính vì vậy các nguyên tắc cơ bản

của luật TTDS quyết định toàn bộ kết cấu của quy trình TTDS. Các nguyên
tắc cơ bản của luật TTDS là những quy phạm chung, chính vì vậy, các ngun
tắc này sẽ khơng ghi nhận những mệnh lệnh cụ thể như: cấm đoán, cho phép,
bắt buộc…mà thể hiện một cách cô đọng nhất bản chất, những đặc trưng cơ
bản của TTDS.
Các nguyên tắc cơ bản trong luật TTDS vừa mang tính chất chủ quan
đồng thời lại là sự phản ánh những quy luật khách quan. Các ngun tắc thể
hiện tính chủ quan bởi đó là những tư tưởng do con người đặt ra, làm cơ sở
cho việc ban hành, xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong mỗi thời kỳ, mỗi
Nhà nước, mỗi giai cấp lại thiết lập hoặc thừa nhận những nguyên tắc khác
nhau phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước, giai cấp đó. Mặt khác, các nguyên
tắc trong TTDS cũng phản ánh những quy luật chung của đời sống xã hội.


2

Pháp luật là những quy tắc để điều chỉnh các quan hệ xã hội, do đó pháp luật
bao giờ cũng phản ánh các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Sự thay đổi về
bản chất trong xã hội dẫn đến sự thay đổi của pháp luật, cũng như các nguyên
tắc pháp luật. Do vậy, các điều kiện về kinh tế, xã hội sẽ quyết định sự hình
thành và phát triển các nguyên tắc pháp luật nói chung, trong đó có các
nguyên tắc trong TTDS.
Các nguyên tắc cơ bản của TTDS có tính ổn định trong từng thời kỳ
nhất định, nhưng sự ổn định đó chỉ mang tính chất tương đối. Do nội dung các
nguyên tắc bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế - xã hội và những điều kiện
đó lại rất phong phú, năng động, khơng ngừng phát triển nên các nguyên tắc
cơ bản của TTDS phải luôn được xem xét, nghiên cứu, kịp thời loại bỏ những
nội dung không phù hợp, bổ sung những nội dung mới. Các nguyên tắc này
phải được nhìn nhận trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, trong mối liên hệ
nhất định với nội dung chính sách dân sự trong từng giai đoạn cụ thể. Đồng

thời việc áp dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn xét xử phải hết sức cụ thể
và nghiêm chỉnh. Nội dung các nguyên tắc cơ bản của TTDS phù hợp với các
nguyên tắc của chính sách xã hội nói chung và chính sách dân sự nói riêng sẽ
góp phần rất lớn trong việc bảo đảm sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ của
tất cả các chế định chính trị, xã hội, pháp lý. Định nghĩa về nguyên tắc của
luật TTDS đã được trình bày trong Giáo trình Luật TTDS Việt Nam của
trường Đại học Luật Hà Nội như sau: “Nguyên tắc của luật TTDS là những tư
tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật
TTDS và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật TTDS”[24, tr.37].
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Văn Cung trong luận văn thạc sĩ "Các
nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam" cũng đưa ra khái niệm về các
nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam một cách khá toàn diện: "Các
nguyên tắc cơ bản của luật TTDS là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo mang
tính chất xuất phát điểm, phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, bản chất và những đặc trưng cơ bản của TTDS, được quán triệt trong
nội dung của các chế định, quy phạm pháp luật TTDS, quy định kết cấu của
toàn bộ quy trình TTDS và thể hiện phương hướng và cách thức thực hiện
mục đích nhiệm vụ của TTDS Việt Nam"[1].
Hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ
sở có sự tranh chấp về quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư


3

đối lập nhau hoặc có u cầu cơng nhận một quyền dân sự hoặc xác định một
sự kiện pháp lý có liên quan đến các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng.
Chính sự bình đẳng về địa vị pháp lý của các chủ thể dẫn đến một quy tắc
chung cho cả hai bên đương sự là: người nào đề ra một yêu cầu đối với người
khác thì cần phải có chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình. Tịa án
chỉ có thể giải quyết đúng vụ việc dân sự khi có đầy đủ các chứng cứ và các

sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự đã được làm sáng tỏ. Chính vì vậy, trong
hoạt động TTDS, nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của
đương sự là một nguyên tắc rất quan trọng, đặt cơ sở nền tảng cho quá trình
giải quyết các vụ việc dân sự.
Tuy nhiên, tùy theo truyền thống lập pháp, điều kiện kinh tế xã hội,
trình độ hiểu biết pháp luật của người dân mà nội dung nguyên tắc cung cấp
chứng cứ và chứng minh của đương sự được quy định khác nhau. Ở một số
nước, theo nguyên tắc này, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của
đương sự được đề cao và mức độ hỗ trợ của nhà nước đối với việc thực hiện
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự là rất ít. Do đó,
hoạt động cung cấp chứng cứ của đương sự gắn liền và đồng nghĩa với nghĩa
vụ chứng minh của họ, vai trò của Tòa án chỉ là người phân xử trên cơ sở các
chứng cứ đã được đương sự cung cấp. Tiêu biểu cho những nước này là
Vương quốc Anh và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, một vụ kiện thường bắt đầu bằng việc bên
khiếu kiện đệ đơn lên thư ký tịa án quận trong đó nêu rõ u cầu của mình và
viện dẫn những cơ sở pháp lý và thực tiễn ủng hộ cho u cầu đó. Thư ký tịa
sẽ phát hành trát đòi hầu tòa gửi tới bị đơn kèm theo bản sao của đơn khiếu
kiện để báo cho bị đơn biết về việc họ đang bị kiện và khoảng thời gian họ có
để tìm cách bảo vệ mình trước đơn khiếu kiện đó. Trong giai đoạn tiền tố
tụng, các bên sẽ phải trao đổi chứng cứ và các nhận định dựa trên những gì họ
dự kiến tranh luận trong phiên tòa. Điều này nhằm giúp cho các bên tránh
được những bất ngờ trong phiên tòa xét xử đồng thời làm rõ bản chất của vụ
kiện. Bởi lẽ trong phiên tòa xét xử việc họ thắng kiện hay thua kiện hồn tồn
phụ thuộc vào việc họ có đưa ra được những chứng cứ để thuyết phục thẩm
phán hoặc bồi thẩm hay khơng. Phiên tịa sẽ được tiến hành bằng cách các
bên đưa ra nhân chứng và cung cấp chứng cứ, thẩm phán hoặc bồi thẩm sẽ
dựa hoàn toàn vào các bằng chứng đó để ra phán quyết. Tương tự như vậy, ở
Anh, phiên tòa xét xử là cơ hội để các luật sư tranh tụng thể hiện tài năng biện



4

hộ của mình. Mọi tình tiết, chứng cứ của vụ án sẽ được các bên đưa ra và
tranh luận ngay tại phiên tịa, thẩm phán sẽ chỉ dựa vào đó để đưa ra các phán
quyết của mình[23, tr248,284]. Như vậy, đối với những nước theo truyền
thống tố tụng tranh tụng, thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của
các bên đương sự được đề cao, Tòa án chỉ là người phân xử trên cơ sở các
chứng cứ do đương sự cung cấp. Vì vậy, việc thu thập chứng cứ do chính các
bên hoặc luật sư của họ thực hiện với sự trợ giúp của Tịa án, thơng qua việc
buộc bên kia phải trả lời, phải tuyên thệ, đối chất, đưa ra các tài liệu để làm
sáng tỏ nội dung vụ việc.
Trong khi đó, hệ thống pháp luật của một số nước mặc dù vẫn quy định
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS thuộc về
các đương sự nhưng mức độ hỗ trợ của Nhà nước đối với việc thực hiện nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự lại nhiều hơn. Chẳng hạn,
trong pháp luật TTDS của Cộng hòa Pháp và Liên bang Nga, nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh vẫn được xác định là trước tiên thuộc về các
đương sự, họ phải thực hiện nghĩa vụ này ngay từ khi khởi kiện - giai đoạn
đầu tiên của hoạt động tố tụng. Điều 56 BLTTDS của Liên bang Nga có quy
định: “Mỗi bên có nghĩa vụ phải chứng minh những tình tiết làm cơ sở cho
những yêu cầu của mình hay sự phản đối yêu cầu của bên kia, nếu luật liên
bang không quy định khác”[23]. Khi làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự của mình bên nguyên đơn cần chú ý là đơn khởi kiện
phải được viết thành văn bản và phải nêu rõ những tình tiết mà dựa vào đó họ
đã đưa ra yêu cầu, những chứng cứ làm cơ sở cho những tình tiết đó (Điều
131 BLTTDS Liên bang Nga)[23]. Điều 6 BLTTDS Pháp lại quy định: “Các
bên đương sự có nghĩa vụ viện dẫn các tình tiết cụ thể làm căn cứ cho các yêu
cầu của mình” và tại Điều 9: “Mỗi bên đương sự có nghĩa vụ chứng minh theo
luật định các tình tiết cần thiết làm căn cứ cho các yêu cầu của mình”. Trong

quá trình tố tụng các bên đương sự phải trình cho thẩm phán đơn kiện chung
nêu rõ các yêu cầu của mỗi bên, những điểm mà các bên còn bất đồng cũng
như các căn cứ tương ứng của mỗi bên. Trong đơn kiện chung này các bên
phải ghi rõ những căn cứ chứng minh cho các u cầu của mình, nếu khơng
đơn sẽ bị bác (Điều 57) [10]. Tuy nhiên, trong những trường hợp vì lý do
khách quan và chủ quan các đương sự khơng thể tự mình thu thập được chứng
cứ thì Tịa án có thể hỗ trợ cho họ. Điều 57 BLTTDS của Liên bang Nga có
quy định “trong trường hợp những người tham gia tố tụng gặp khó khăn


5

trong việc xuất trình chứng cứ, theo yêu cầu của họ Tịa án có thể giúp đỡ
trong việc thu thập và yêu cầu cung cấp chứng cứ”[23]. Pháp luật TTDS của
Pháp cũng quy định nếu trong quá trình tố tụng, một bên đương sự dựa vào
một công chứng thư hoặc tư chứng thư mà họ không tham gia hoặc một tài
liệu do người thứ ba đang giữ, họ có thể yêu cầu thẩm phán thụ lý vụ kiện ra
lệnh cấp cho họ tài liệu và bản sao tài liệu ấy (Điều 138 về yêu cầu được cấp
những giấy tờ, tài liệu do người thứ ba đang giữ)[10]. Như vậy, đối với những
nước theo truyền thống tố tụng xét hỏi, vai trò của Tòa án trong việc thu thập
chứng cứ được đề cao. Thẩm phán bao giờ cũng có trong tay tồn bộ tài liệu
về q trình điều tra, là người đặt câu hỏi cho những người tham gia phiên
tòa. Thẩm phán có quyền tự mình quyết định áp dụng mọi biện pháp thẩm
cứu mà pháp luật cho phép. Tuy vậy, các bên đương sự có nghĩa vụ giúp
Thẩm phán thực hiện các biện pháp thẩm cứu và phải chịu mọi hậu quả trong
trường hợp không giúp đỡ hoặc từ chối giúp đỡ.
Ở Việt Nam, trước khi có BLTTDS nguyên tắc cung cấp chứng cứ
được quy định tại Điều 3 PLTTGQCVADS với nội dung: “Đương sự có
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Tịa án có nhiệm
vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng

cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Điều 3 và 4
PLTTGQCVAKT quy định: “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình. Khi cần thiết, Tịa án có thể xác
minh thu thập chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính
xác”. Điều 2 và 3 PLTTGQCTCLĐ quy định: “Các đương sự có nghĩa vụ
cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi cần thiết, Tòa án tiến hành xác minh thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu các
bên tranh chấp lao động, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài
liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án lao động được chính xác,
cơng bằng...”. Như vậy, theo ngun tắc được quy định tại các pháp lệnh này
thì mỗi đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện, viện kiểm sát khởi tố vì lợi ích
chung có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện,
khởi tố của mình, phía đương sự đối lập cũng có thể đưa ra chứng cứ để yêu
cầu lại đối với đương sự bên kia và việc phản đối của mình đối với yêu cầu
của đương sự đối lập. Tùy theo trình độ, năng lực của mỗi đương sự mà họ có
thể tự mình hoặc nhờ luật sư hay thơng qua người đại diện thu thập chứng cứ
để chứng minh trước Tịa án. Bên cạnh đó, Tịa án có quyền chủ động hoàn


6

toàn trong việc thu thập chứng cứ khi cần thiết. Điều 3, Điều 20, Điều 38 của
PLTTGQCVADS có quy định điều tra là nhiệm vụ của Tòa án , do đó, nếu
xét thấy hồ sơ chưa đủ chứng cứ thì Tòa án đều phải chủ động tiến hành điều
tra, thu thập chứng cứ. Có thể thấy, theo nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh của các đương sự được quy định tại các PLTTGQCVADS,
PLTTGQCVAKT, PLTTGQCTCLĐ thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh của các đương sự được quy định rất mờ nhạt. Ngược lại, sự hỗ
trợ của Tòa án đối với nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương
sự gần như tuyệt đối. Khi Tịa án xét thấy cần thiết thì Tịa án có quyền và

trách nhiệm thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc
được chính xác. Có thể thấy quy định này được ban hành trong điều kiện đất
nước ta vừa thoát ra khỏi nền kinh tế bao cấp, sự hiểu biết pháp luật của người
dân còn thấp, sự ảnh hưởng của truyền thống tố tụng xét hỏi cịn rất lớn song
chính những quy định này đã dẫn đến hệ quả là Tòa án vừa “điều tra”, vừa
“xét xử”. Điều này đã dẫn đến tình trạng Tòa án làm thay đương sự và gây ra
sự nghi ngại trong xã hội về tình trạng Tịa án vừa “đá bóng”, vừa “thổi cịi”.
Cùng với sự phát triển của xã hội, xu thế mở rộng tranh tụng trong
TTDS được quan tâm nhiều hơn khi lập pháp và thực tiễn áp dụng, nguyên
tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự được qui định
tại Điều 6 BLTTDS 2004 với nội dung:
“1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án
và chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng
minh như đương sự.
2. Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những
trường hợp do Bộ luật này quy định”.
Có thể nhận thấy nguyên tắc được quy định tại Điều 6 BLTTDS có nội
dung mới mang tính đột phá so với các pháp lệnh trước đây, dành sự chủ
động và xác định nghĩa vụ nhiều hơn cho các đương sự trong việc thực hiện
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh. Tuy nhiên, hiện nay, khi sự hiểu
biết pháp luật của đa số các đương sự ở nước ta vẫn còn thấp, khả năng tự bảo
vệ còn hạn chế nên nếu quy định các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ để chứng minh tồn bộ u cầu của mình thì có thể dẫn đến tình trạng


7

đương sự khơng có khả năng chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình và hậu quả là quyền và lợi ích hợp pháp của họ khơng được bảo vệ.
Trong lúc đó, một bên đương sự khác có thể được hưởng lợi khơng có căn cứ
chỉ do đương sự có quyền đã khơng có khả năng chứng minh được quyền của
mình. Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, Tịa án vẫn
cần phải hỗ trợ các đương sự ở một mức độ nhất định. Nội dung nguyên tắc
này thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trước hết là nghĩa vụ
thuộc về các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Thứ hai, khi các đương sự và những cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi
kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác khơng tự
mình thực hiện được hoặc trong các trường hợp khác do pháp luật quy định,
Tòa án sẽ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ.
Như vậy, dù theo hệ thống pháp luật nào đi nữa thì đương sự vẫn là
những chủ thể đầu tiên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Đây là hoạt động khởi
nguồn, quyết định tới các hoạt động khác mà cội nguồn của hoạt động này
xuất phát từ nguyên tắc “quyền tự định đoạt của đương sự”. Theo đó, khi
đương sự đưa ra u cầu nếu khơng có bất kỳ bằng chứng, lý lẽ nào chứng
minh cho quyền lợi hợp pháp của mình Tịa án sẽ từ chối thụ lý vụ kiện và vì
vậy khơng làm phát sinh bất cứ một hoạt động tố tụng nào tiếp theo. Đây
cũng chính là đặc điểm đặc trưng nhất của TTDS. Có thể khẳng định, kết quả
giải quyết vụ việc dân sự trước hết phụ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu mà
các đương sự cung cấp. Chứng cứ càng đầy đủ, chính xác thì vụ kiện càng
được giải quyết nhanh chóng, cơng bằng và hợp lý. Có thể thấy, nguyên tắc
này đề cập đến vấn đề chủ yếu là quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh của đương sự, của cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; cịn Tịa án chỉ hỗ trợ
khi họ khơng thể tự mình thực hiện được và trong những trường hợp pháp luật
quy định. Song, suy cho đến cùng, việc cung cấp chứng cứ (của đương sự và
những người tham gia tố tụng khác) và việc thu thập chứng cứ (của Tịa án)

thực chất là hai cơng việc có cùng mục đích là giúp Tịa án có được những
chứng cứ của vụ việc, giải quyết vụ việc chính xác, khách quan. Đây là hoạt


8

động chiếm một khối lượng công việc lớn nhất, nhiều thời gian nhất trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự.
Từ sự phân tích trên, cho thấy, nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong TTDS là một trong những nguyên tắc đặc trưng cơ bản của Luật
TTDS, trong đó xác định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của các
đương sự, người khởi kiện đồng thời xác định trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án
đối với việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của các
đương sự, người khởi kiện trong trường hợp nhất định nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết vụ việc dân sự được chính xác và khách quan.
1.2 Cơ sở của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong
tố tụng dân sự
Trong cuộc sống hằng ngày, con người ln thực hiện những giao lưu
về văn hóa, kinh tế… Sự giao lưu đó như là một địi hỏi cần thiết để con
người sống, tồn tại và phát triển. Và có quan hệ, có giao lưu tất yếu sẽ không
tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp và những yêu cầu khác nhau của chủ
thể. Mâu thuẫn, tranh chấp, yêu cầu khác nhau đó ln gắn liền đến quyền lợi
và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ. Là tổng hòa các mối quan
hệ xã hội giữa con người với con người, do đó các tranh chấp, yêu cầu dân sự
xảy ra trong đời sống hàng ngày là một tất yếu khách quan. Việc bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của con người cũng là một tất yếu khách quan.
Do đó, trong xã hội có giai cấp, có nhà nước, có pháp luật thì nhà nước đó,
pháp luật đó phải có những biện pháp, cách thức giải quyết mâu thuẫn, các
tranh chấp bảo vệ quyền và lợi ích của con người nhằm bảo đảm sự ổn định
của một trật tự xã hội.

Ở nước ta, “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng
tăng cường pháp chế XHCN”. Để đảm bảo trật tự xã hội được ổn định, bảo
đảm cho việc giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn dân sự được nhanh chóng, bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Nhà nước phải ban hành
một hệ thống pháp luật đủ sức để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Hệ
thống luật đó (bao gồm cả luật TTDS) phải đảm bảo được một trong các yêu
cầu cơ bản là tôn trọng quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, bảo đảm
cho đương sự trong tố tụng dân sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
của mình. Trong TTDS, để đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự
được nhanh chóng, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên, pháp luật đã ghi


9

nhận nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự. Nguyên tắc
này có nội dung xác định khi đưa ra yêu cầu hay bác bỏ yêu cầu của người
khác đương sự có quyền, nghĩa vụ cung cấp và chứng minh để làm rõ căn cứ
yêu cầu của mình hay căn cứ bác bỏ yêu cầu của người khác. Trường hợp cá
nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện u cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác thì cũng có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh như đương sự. Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ
chứng minh trong trường hợp họ khơng thể tự mình chứng minh được và
trong những trường hợp pháp luật quy định.
Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự trong
TTDS hoàn toàn khác so với nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm
của các cơ quan tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự. Xuất phát từ nhiệm
vụ của pháp luật hình sự là bảo đảm an ninh quốc gia, an toàn xã hội, độc lập
chủ quyền lãnh thổ và bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho mỗi người dân nên các
cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết một vụ án hình sự tức là giải quyết
một quan hệ pháp luật phát sinh giữa người phạm tội và Nhà nước. Nhà nước

với tư cách là người bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của tồn xã hội, quyền
chủ thể của Nhà nước được thực hiện qua các cơ quan đại diện (cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát, Tịa án). Do đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị coi là tội phạm, phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà nước, chứ
khơng phải với người bị hại. Vì thế, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được
dựa trên các tài liệu, chứng cứ do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập được,
xem xét, đánh giá. Bị can, bị cáo có quyền chứng minh mình vơ tội mà khơng
có nghĩa vụ cung cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng chứng cứ để chứng
minh họ đã phạm tội.
Ngược lại, trong TTDS các tranh chấp, yêu cầu chủ yếu phát sinh từ
các quan hệ dân sự giữa các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng với nhau.
Chính tính chất bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTDS
và quyền tự định đoạt của các chủ thể này đã tạo nên sự khác biệt cơ bản của
nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS và tố
tụng hình sự. Trong TTDS, đương sự có quyền tự định đoạt tức là đương sự
sẽ tự quyết định về quyền, lợi ích của mình và lựa chọn biện pháp pháp lý cần
thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó. Quan hệ dân sự là quan hệ riêng tư của các
bên, do các bên tự quyết định, tự giải quyết là chủ yếu và chỉ khi các bên
khơng tự giải quyết được thì họ cũng tự quyết định có yêu cầu Nhà nước hỗ


10

trợ hay không? Hơn nữa, các bên đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật
tranh chấp hoặc là người đưa ra yêu cầu, họ là người hiểu rõ vụ việc của mình
nhất, biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp. Họ thường biết rõ
các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở
đâu. Bên cạnh đó, khi khởi kiện cũng như khi đưa ra các yêu cầu phản tố, bao
giờ đương sự cũng là người đứng ở thế chủ động, tự nguyện đưa ra những lý
lẽ để chứng minh, bênh vực cho quyền lợi của mình. Do đó, khi các bên đã

đưa việc tranh chấp của họ ra tịa, thì Tịa án chỉ là người trọng tài, giúp các
bên giải quyết tranh chấp một cách khách quan và đúng pháp luật chứ Tịa án
khơng thể làm thay, chứng minh thay cho đương sự với những yêu cầu của
họ. Mặt khác, việc xác định trách nhiệm cung cấp chứng cứ thuộc về các
đương sự nhằm mục đích để các đương sự cân nhắc, tính tốn kỹ khi đưa ra
các yêu cầu và ràng buộc trách nhiệm của các bên khi đưa ra yêu cầu của
mình. Vì nếu đưa ra yêu cầu mà không đưa ra được các chứng cứ để chứng
minh thì các chủ thể đó sẽ khơng bảo vệ được quyền lợi của mình, đồng thời
cũng khơng thể ràng buộc Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu.
Như đã phân tích ở Mục 1.1, tùy theo truyền thống tố tụng, điều kiện
kinh tế xã hội và trình độ hiểu biết pháp luật của người dân mà mỗi Nhà nước
đều có cơ chế hỗ trợ đương sự trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh khác
nhau. Ở những nước theo truyền thống tố tụng tranh tụng hồn tồn khơng
quy định vai trò điều tra của Tòa án, việc cung cấp chứng cứ để chứng minh
vụ việc hoàn toàn thuộc trách nhiệm của các bên. Còn đối với những nước
theo truyền thống tố tụng xét hỏi lại ngược lại, việc thu thập chứng cứ được
các bên đương sự tiến hành trước khi phiên tòa được mở nhưng Tòa án sẽ hỗ
trợ giúp đỡ họ trong những trường hợp nhất định[15, tr 68-69]. Ở những nước
có điều kiện kinh tế xã hội phát triển, trình độ hiểu biết của đương sự ở mức
độ cao thì sự hỗ trợ của Tịa án sẽ ít hơn những nước điều kiện cịn khó khăn,
trình độ của đương sự còn thấp. Ở Việt Nam, Tòa án với tư cách là cơ quan
cơng lý giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân
dân lao động trong quá trình giải quyết vụ việc, nên Tịa án có trách nhiệm
hướng dẫn các bên cung cấp chứng cứ, có nghĩa vụ xác minh chứng cứ các
bên đưa ra và hỗ trợ các bên đương sự khi họ khơng thể tự mình thu thập
được và có yêu cầu.
Như vậy, theo nguyên tắc này, pháp luật khơng bắt buộc Tịa án phải
chủ động thu thập chứng cứ và chứng minh nhưng trong quá trình tố tụng Tòa



11

án vẫn phải hỗ trợ các bên đương sự trong việc tìm ra sự thật khách quan, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, bởi lẽ:
Thứ nhất, Tịa án là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức
năng xét xử, thiết lập lại các quan hệ nội dung bị vi phạm hay tranh chấp, bảo
vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Thứ hai, có những trường hợp do trình độ hiểu biết pháp luật hạn
chế mà đương sự không tự thu thập chứng cứ, chứng minh được hoặc sự
chống đối, chây ỳ của đương sự phía đối lập hoặc do sự trì trệ trong việc cung
cấp thông tin của các cơ quan công quyền, các tổ chức xã hội cho người dân
dẫn đến có những việc mà bản thân cơng dân khơng thể thực hiện việc thu
thập chứng cứ được cần phải có sự hỗ trợ, can thiệp của Tịa án. Ví dụ: yêu
cầu cơ quan lưu trữ cung cấp những giấy tờ, tài liệu cần thiết; lấy lời khai,
trưng cầu giám định, xem xét tại chỗ…
Chính vì vậy, mà nội dung chủ yếu của nguyên tắc nội dung này là xác
định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự cần phải có
thêm nội dung quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc thực hiện nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự.
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS là một
trong các nguyên tắc của TTDS. Trên phương diện chung nó cũng có những ý
nghĩa của các nguyên tắc của pháp luật TTDS, đó là:
Thứ nhất, trong q trình lập pháp, các nguyên tắc cơ bản của TTDS là
căn cứ để xây dựng các quy phạm pháp luật khác của pháp luật TTDS. Nói
cách khác, các nguyên tắc cơ bản của TTDS giúp cho các nhà lập pháp có
được một định hướng cơ bản để một mặt xây dựng nên một quy trình tố tụng
có logic nội tại, mặt khác có thể phát hiện những khiếm khuyết trong pháp
luật thực định để hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện.

Thứ hai, trong lĩnh vực áp dụng pháp luật, so sánh giữa các nguyên tắc
cơ bản của TTDS với các quy phạm pháp luật TTDS thì có thể nhận thấy:
giữa các quy phạm pháp luật TTDS với các nguyên tắc cơ bản của nó có mối
quan hệ hai chiều. Mối quan hệ này được thể hiện trong thực tiễn áp dụng
pháp luật như sau: việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của TTDS được thể


12

hiện bằng việc vi phạm một hoặc một số các quy phạm pháp luật chuyên biệt
và ngược lại. Nói cách khác, tất cả các hành vi được tiến hành trong quá trình
tố tụng như khởi kiện, khởi tố, điều tra, ra quyết định hoặc bản án đều phải
đư



×