CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội thông qua năm 1997 và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (được thông qua
ngày 15/6/2004) thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”, còn “hoạt
động ngân hàng” được hiểu là “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng
thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Ngân hàng nói chung và Ngân hàng
thương mại nói riêng có 3 chức năng chính như sau:
- Trung gian tài chính: Trong nền kinh tế, luôn tồn tại hai loại chủ thể, một
loại có chi tiêu và đầu tư vượt quá thu nhập, nghĩa là cần bổ sung vốn, còn một
loại có thu nhập lớn hơn chi tiêu, như vậy họ có tiền để tiết kiệm. Tuy nhiên,
không phải lúc nào hai loại chủ thể trên cũng có thể tiếp xúc trực tiếp với nhau,
do đó cần đến trung gian tài chính để kết nối người tiết kiệm với người đầu tư.
Với chuyên môn, khả năng thẩm định thông tin của mình và sự không hoàn hảo
trong hệ thống tài chính, Ngân hàng thương mại là tổ chức thích hợp nhất để đóng vai
trò trung gian tài chính, bằng cách đi huy động vốn trước khi cho vay lại để hưởng
chênh lệch lãi suất. Khi đó, Ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
- Tạo phương tiện thanh toán: Làm phương tiện thanh toán chính là một trong
những chức năng quan trọng nhất của tiền tệ. Tuy nhiên, việc in tiền là độc quyền của
Bộ Tài chính, hoặc Ngân hàng Trung ương và các Ngân hàng thương mại không có
khả năng tự tạo ra các giấy bạc của riêng mình. Dù vậy, Ngân hàng thương mại vẫn có
khả năng tạo ra phương tiện thanh toán, hay nói cách khác là làm gia tăng tổng cung
tiền bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng).
Thông qua hoạt động nhận gửi và cho vay, hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ
làm tăng cung tiền, tuy nhiên mức độ gia tăng này là bao nhiêu thì còn phụ thuộc vào
tỷ lệ dự trữ của các Ngân hàng. Trong trường hợp lý tưởng, nếu mỗi Ngân hàng đều
dự trữ lượng tiền mặt bằng 10% tiền gửi thì số nhân tiền m sẽ có giá trị bằng 10.
- Trung gian thanh toán: Trong đa số các trường hợp, việc thanh toán bằng tài
khoản (chuyển khoản) tiện dụng và dễ quản lý hơn rất nhiều so với thanh toán bằng
tiền mặt. Để có thể tiến hành thanh toán qua tài khoản, thì vai trò của các Ngân hàng
là không thể thiếu. Thông qua các công cụ như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi,
nhờ thu, thẻ ATM…. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán
lớn nhất hiện nay tại hầu hết các quốc gia.
1.1.1.3 Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản
xuất hàng hóa, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy cung cấp và lưu
thông hàng hóa. Có rất nhiều cách hiểu về hoạt động tín dụng, tuy nhiên một cách
chung nhất thì tín dụng là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa các chủ thể, trong đó
chủ thể này chuyển cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng tiền tệ (hoặc hàng
hóa), theo những điều kiện nhất định mà hai bên cùng đồng ý.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ Ngân
hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất
định. Về ý nghĩa thì khái niệm tín dụng rộng hơn cho vay. Thực tế, cho vay chỉ là
một trong nhiều hình thức cấp tín dụng, bởi còn có nhiều hình thức khác như chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán…
Tất cả những nghiệp vụ này đều là việc Ngân hàng cho phép khách hàng sử
dụng vốn của mình, xuất phát từ sự tin tưởng nhất định đối với khách hàng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
các tổ chức tín dụng thì “hoạt động tín dụng” là việc tổ chức tín dụng sử dụng
nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Trong đó, “cấp tín dụng” là
việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên
tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Dù thế nào, tín dụng ngân hàng cũng có các đặc trưng sau:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người sử
dụng.
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nghĩa là ngân hàng khi chuyển giao quyền
sử dụng vốn cho khách hàng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả cả gốc và
lãi đúng hạn.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị cho vay, tức là người đi
vay phải trả thêm một khoản lãi bên cạnh phần vốn gốc.
- Tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Những văn bản
xác định quan hệ tín dụng thực chất là một dạng lệnh phiếu, theo đó bên đi vay
cam kết hoàn trả vô điều kiện cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
*Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau.
+ Căn cứ vào thời hạn cho vay: Phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa
hết sức quan trọng, vì thời hạn tín dụng liên quan rất mật thiết đến tỷ lệ sinh lời
cũng như rủi ro của các khoản tín dụng, hay kể cả khả năng hoàn trả của khách
hàng. Có thể phân chia như sau:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống,
thông thường để tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp, hoặc các nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Nhìn chung, tín dụng ngắn hạn có tỷ trọng lớn nhất.
- Tín dụng trung hạn: Thường có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Chủ yếu được dùng
để tài trợ cho các tài sản cố định, hoặc đầu tư vào các dự án mới có quy mô tương
đối nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Từ 5 năm trở lên, dùng để đáp ứng các nhu cầu dài hạn
như xây dựng nhà ở, mua sắm những thiết bị có thời gian sử dụng lâu, đầu tư các
dự án lớn…
Tất nhiên, việc phân chia này cũng chỉ có tính chất tương đối vì có nhiều
khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời gian.
+Căn cứ theo hình thức tài trợ: Tùy theo hình thức tài trợ, tín dụng có thể
được chia thành cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh
toán…
- Cho vay: Là việc Ngân hàng cấp tiền cho khách hàng, với cam kết hoàn trả
cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Có thể cho vay thấu chi, cho
vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức….
- Chiết khấu: Là hình thức cấp tín dụng trong đó Ngân hàng nhận các chứng
từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền nhất định, thông thường nhỏ hơn
mệnh giá của chứng từ được chiết khấu. Phần chênh lệch chính là lợi nhuận mà
Ngân hàng được hưởng.
- Bảo lãnh: Là cam kết bằng văn bản của Ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên
có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng (bên được bảo lãnh), nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh.
- Cho thuê: Là việc Ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê
lại theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian, khách hàng phải trả cả gốc
lẫn lãi cho Ngân hàng.
- Bao thanh toán: Là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên
bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán
hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua,
bán hàng hóa (Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN).
+Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
- Tín dụng không có đảm bảo: Là loại hình tín dụng không cần có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Điều đó có nghĩa, việc cho vay chỉ dựa
vào uy tín của khách hàng (tín chấp). Thông thường, cho vay tín chấp chỉ được áp
dụng đối với các khách hàng lớn, đã có quan hệ lâu năm với Ngân hàng, hoặc các
khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ (mà Chính phủ yêu cầu không cần tài
sản đảm bảo).
- Tín dụng có đảm bảo: Là loại hình tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm
như thế chấp, cầm cố…. hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba. Ngân hàng phải kiểm
tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo, bởi đây là nguồn thu nợ để bù
đắp trong trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ.
+ Căn cứ theo mức độ rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, các Ngân hàng
cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ về đánh giá rủi ro. Theo khoản 6, điều 7,
quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của ngân hàng nhà nước, tổ chức tín dụng cần
tiến hành phân loại nợ theo 5 nhóm:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm
khả năng trả nợ.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này
được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là khả năng tổn thất cao.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
+Căn cứ theo mục đích cho vay:
Theo tiêu thức này, tín dụng có thể được chia thành các loại sau
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
cá nhân, có thể chia nhỏ ra thành cho vay mua nhà, mua ô tô, hỗ trợ du học…
- Tín dụng công nghiệp & thương mại: Là loại hình cho vay phục vụ sản xuất
kinh doanh công nghiệp, thương mại, dịch vụ…
- Tín dụng nông nghiệp: Là loại hình cho vay để trang trải các khoản chi phí
sản xuất trong hoạt động nông nghiệp.
+Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
- Tín dụng có thời hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trả nợ định trước,
được xác định rõ trong hợp đồng. Có thể có một hoặc nhiều kỳ hạn trả nợ (nợ được
trả thành một hoặc nhiều lần).
- Tín dụng không có thời hạn cụ thể: Có thể do Ngân hàng yêu cầu, hoặc
người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào nhưng cần phải thông báo trước cho
Ngân hàng một khoản thời gian hợp lý.
* Những phương pháp phân loại kể trên cho thấy tính đa dạng, hoặc chuyên
môn hóa trong cấp tín dụng của các Ngân hàng. Trong xu hướng đa dạng hóa hoạt
động, các Ngân hàng có thể đồng thời mở rộng phạm vi tài trợ và duy trì những
lĩnh vực mà mình có lợi thế. Với việc phân loại tín dụng hợp lý, các Ngân hàng
cũng dễ dàng theo dõi mức độ rủi ro và sinh lợi gắn liền với mỗi lĩnh vực tài trợ, từ
đó đề ra chính sách tín dụng phù hợp.
1.1.1.4 Tầm quan trọng của hoạt động tín dụng
Tuy nhiên, những lý thuyết trên chỉ đúng với các mô hình Ngân hàng cổ điển.
Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế và khoa học công nghệ hiện đại, hoạt động của
Ngân hàng thương mại đã trở nên vô cùng đa dạng. Bên cạnh những nghiệp vụ truyền
thống như tín dụng, huy động vốn, làm trung gian thanh toán, các Ngân hàng hiện đại
còn tham gia đầu tư ủy thác, tư vấn tài chính, kinh doanh vàng và ngoại tệ….
Không chỉ có thế, trên đường xây dựng một mô hình tập đoàn tài chính – ngân
hàng đa năng, nhiều Ngân hàng thương mại VN đã mở rộng đầu tư sang chứng
khoán, bảo hiểm, bất động sản…. bằng cách thành lập những công ty con, hoạt động
trong các lĩnh vực riêng biệt với trung tâm là ngân hàng mẹ. Dù vậy, đối với bất kỳ
Ngân hàng nào tại VN nói riêng và trên thế giới nói chung thì tín dụng vẫn là hoạt
động cơ bản, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng tài sản cũng như lợi nhuận. Vì thế, rủi
ro trong kinh doanh ngân hàng cũng có xu hướng tập trung nhiều nhất vào hoạt động
tín dụng, và đây luôn là mối quan tâm lớn nhất của các Ngân hàng thương mại.
1.2 Phân tích tín dụng đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại
1.2.1Khái niệm phân tích tín dụng đối với doanh nghiệp
1.2.1.1 Khái niệm, mục tiêu và yêu cầu
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro
nhất của Ngân hàng thương mại. Tuy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau,
những rủi ro này đều làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Vì thế, Ngân hàng cần
cân nhắc và thẩm định kỹ lưỡng, ước tính mức độ rủi ro và sinh lời trước khi quyết
định cấp tín dụng. Phân tích tín dụng đối với doanh nghiệp là quá trình đánh giá
toàn diện về nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, xem liệu chúng có phù hợp với
những quy định của Ngân hàng hay không, có khả năng hoàn trả đúng hạn hay
không, đồng thời qua phân tích đó Ngân hàng xác định được mức độ rủi ro trong
quá trình cho vay.
Mục tiêu của phân tích tín dụng là xác định khả năng và ý muốn hoàn trả của
người nhận tín dụng, nói cách khác là xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi
ro.
Phân tích tín dụng là công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, nếu không
muốn nói là quan trọng bậc nhất trong số các nghiệp vụ Ngân hàng. Đây là hoạt
động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban, bộ phận, do đó qui trình
phân tích tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau
+Được xây dựng và thống nhất trong phạm vi toàn bộ Ngân hàng, tránh việc
tùy tiện, duy ý chí. Quy trình này phải được ban lãnh đạo Ngân hàng thông qua và
phổ biến tới các bộ phận có liên quan.
+ Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung. Mỗi
bộ phận, cá nhân trong Ngân hàng đều nhận thức được rõ vai trò, nhiệm vụ của
mình.
+ Toàn bộ quy trình phải được xây dựng nhằm thực hiện các nguyên tắc tín
dụng ngân hàng.
1.2.1.2 Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc
nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời.
+Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong một thời gian xác
định. Các khoản tín dụng của Ngân hàng cấp cho khách hàng có nguồn gốc từ tiền
gửi của những khách hàng khác, mà khoản này thì Ngân hàng phải cam kết hoàn
trả. Do đó, người nhận tín dụng cũng phải thực hiện đúng cam kết hoàn trả, đó là
điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển.
+Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích đã thỏa
thuận với Ngân hàng, không trái các quy định của pháp luật nói chung và của Ngân
hàng Nhà nước nói riêng.
+Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án sử dụng vốn vay (hoặc dự án đầu tư)
có hiệu lực. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để tuân thủ nguyên tắc thứ nhất.
Sử dụng vốn vay có hiệu quả thể hiện được khả năng trả nợ của khách hàng, và các
khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người
vay.
1.2.1.3 Quy trình phân tích tín dụng
Quy trình tín dụng được đặt ra để chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân tích, cho
vay và thu nợ đối với khách hàng. Quy tình này bao gồm nhiều bước có quan hệ
chặt chẽ với nhau, mỗi bước bao gồm nhiều giai đoạn được xây dựng một cách
khoa học, hợp lý nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu của Ngân hàng. Về thực chất,
quy trình tín dụng chính là các bước (hoặc nội dung công việc) mà cán bộ tín dụng,
các bộ phậ có liên quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi cân nhắc tài trợ cho
khách hàng.
+Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là một trong những bước quan trọng nhất, vì nó quyết định chất lượng
của phân tích tín dụng. Nghiệp vụ này chủ yếu liên quan đến thu thập và xử lý các
thông tin liên quan đến khách hàng và hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Những vấn đề chính cần quan tâm có thể kể đến năng lực sử dụng vốn vay và uy
tín, khả năng tạo lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu tài sản cũng như khả
năng đảm bảo cho món vay.
Phương pháp áp dụng:
- Phỏng vấn trực tiếp. Bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa Ngân hàng và
người vay vốn, tham quan nhà xưởng, văn phòng, cơ sở hạ tầng…. trao đổi với
những người có liên quan, xem xét khả năng thế chấp…. Phương pháp này giúp
loại trừ phần nào những báo cáo gian dối, kiểm chứng lại thông tin mà khách hàng
đã cung cấp trong hồ sơ xin cấp tín dụng.
- Mua hoặc tìm kiếm thông tin thông qua các trung gian. Có thể thu thập
thông tin qua cơ quan quản lý, các đối tác của khách hàng, các tổ chức đánh giá
chuyên nghiệp…. Phương pháp này thường được sử dụng với các khách hàng mới,
lần đầu làm việc với Ngân hàng.
- Phân tích các thông tin có được từ báo cáo của người vay. Đương nhiên,
Ngân hàng cần cẩn trọng khi phân tích theo phương pháp này, bởi người đi vay rất
có thể sẽ bóp méo số liệu để dễ dàng nhận được khoản tín dụng hơn.
+Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thỏa thuận giữa bên nhận tài trợ
(khách hàng) với bên cung cấp tài trợ (Ngân hàng), với nội dung chủ yếu là Ngân
hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng)
trong một khoảng thời gian nhất định, với lãi suất có thể được xác định trước hoặc
không. Đây là văn bản mang tính pháp luật, xác định quyền và nghĩa vụ của hai
bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân theo các quy định pháp lý. Do đó,
cả hai bên đều phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định ký kết hợp đồng tín
dụng.
Hợp đồng tín dụng bao gồm những nội dung chính sau:
- Thông tin về khách hàng
- Mục đích sử dụng khoản vay
- Số lượng tín dụng: Là số tiền (hoặc hạn mức tín dụng) Ngân hàng cam kết
cấp cho khách hàng. Số lượng tín dụng này có thể được chia nhỏ thành nhiều phần,
cấp trong các khoản thời gian khác nhau và dưới nhiều hình thức tiền tệ khác nhau.
- Lãi suất tín dụng (nếu lãi suất có thể thay đổi thì phải xác định rõ các điều
kiện thay đổi).
- Các khoản phí: Để nhận được tín dụng, khách hàng có thể phải trả một số
khoản phí như phí thẩm định, ký quỹ…. khiến cho mức lãi suất phải trả cao hơn
thực tế.