Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.43 KB, 35 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH
TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại
Để có thể hiểu rõ về thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại, trước tiên cần tìm hiểu về hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
 Tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh
tế. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, ngân hàng thương mại là tổ chức thu hút
tiết kiệm lớn nhất. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Thu nhập từ tiền gửi ngân hàng là
nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng cũng là tổ chức cho
vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với
Nhà nước. Tuy vậy, ngày nay, khi mà các tổ chức tài chính khác đang lấn sân ngày
càng mạnh mẽ trong việc cung cấp các dịch vụ của ngân hàng thì để đưa ra một
khái niệm chính xác về ngân hàng thương mại là cả một vấn đề. Cách tiếp cận thận
trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch
vụ mà chúng cung cấp. Theo đó, Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán-và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho
khách hàng ngày càng đa dạng. Từ các dịch vụ truyền thống của ngân hàng như
thực hiện trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại, nhận
tiền gửi, bảo quản vật có giá, tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ, cung cấp các
tài khoản giao dịch… đến các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây như cho
vay tiêu dùng, dịch vụ thuê mua thiết bị, cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp,
cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán…Đặc biệt với sự trợ giúp của khoa


học công nghệ, khoảng cách về không gian đã không còn là vấn đề, các dịch vụ
chuyển tiền nhanh, homebanking, phonebanking, internetbanking… đã được hầu hết
các ngân hàng trên thế giới áp dụng. Tuy nhiên, cho dù nền kinh tế có phát triển đến
trình độ nào chăng nữa, các dịch vụ cơ bản của ngân hàng thương mại vẫn không
thay đổi, nó được thể hiện ở ba hoạt động chủ yếu của chúng: hoạt động huy động
vốn, hoạt động tín dụng và hoạt động thanh toán. Ba hoạt động đó có mối quan hệ
chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Trong đó, hoạt động tín dụng là một hoạt
động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất và đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân
hàng.
 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
 Khái niệm tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong
thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ
từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
Ngoài ra, tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài
chính cung cấp cho khách hàng.
Từ các quan niệm trên, có thể hiểu tín dụng như sau: “Tín dụng là một giao
dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng hoặc các định chế
tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó
bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi chia cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với
chủ thể nhất định như ngân hàng, tín dụng ngân hàng được hiểu là ngân hàng cho
vay đối với khách hàng.
 Phân loại tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú với

nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải
tiến hành phân loại tín dụng. Trong quá trình phân loại có thể sử dụng nhiều tiêu
thức để phân loại tín dụng, sau đây là một số cách phân loại thường gặp.
* Phân loại theo thời gian
Việc phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì thời gian vừa liên quan chặt chẽ tới tính an toàn và sinh lợi của các khoản
tín dụng, đồng thời cũng liên quan đến khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo
thời gian, tín dụng được phân thành:
_Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm. Tín dụng ngắn hạn
nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà
nước doanh nghiệp, hộ sản xuất.
_Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm. Loại
tín dụng này nhằm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang
thiết bị chống hao mòn,…
_Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này
nhằm tài trợ nhu cầu vốn dài hạn của khách hàng như đầu tư xây dựng nhà xưởng,
công trình xây dựng như nhà xưởng, sân bay, cầu, nhà máy thủy điện…
* Phân loại theo tài sản đảm bảo
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm
bảo bởi vì khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro và có thể không trả được nợ cho
ngân hàng. Trừ những khách hàng lớn và có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có
tài sản hữu hình để đảm bảo cho khoản tiền mà họ vay ngân hàng. Tài sản đảm bảo
(tài sản hữu hình) giúp cho ngân hàng có nguồn trả nợ thứ hai khi mà nguồn trả nợ
thứ nhất không đảm bảo trả nợ và ràng buộc khách hàng sử dụng vốn đúng mục
đích. Theo cách phân loại này, tín dụng được chia thành tín dụng đảm bảo bằng tài
sản hữu hình và tín dụng đảm bảo bằng tài sản vô hình.
_Tín dụng đảm bảo bằng tài sản hữu hình: Là hình thức tín dụng trong đó
khách hàng nếu muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản hữu hình (các tài
sản mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ) để cấm cố,
thế chấp hoặc sự bảo lãnh bằng tài sản hữu hình của bên thứ ba được ngân hàng

đồng ý.
_Tín dụng đảm bảo bằng tài sản vô hình: Là hình thức tín dụng trong đó ngân
hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần cầm cố, thế
chấp tài sản hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tín dụng đảm bảo bằng tài
sản vô hình thường được cấp cho khách hàng có uy tín cao, làm ăn thường xuyên
có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối
nhỏ so với vốn của người vay.
*Phân loại theo rủi ro
Phân loại theo rủi ro giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại các khoản
mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín
dụng. Theo cách phân loại này, tín dụng gồm:
_Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
_Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng gặp khó khăn trong tiêu thụ, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng
chậm trả lãi…
_Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo hữu hình có giá trị lớn…
_Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ thấp, khách hàng
dây dưa, chây ỳ không trả nợ…
Ngoài các cách phân loại trên còn nhiều cách phân loại khác như theo ngành
kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp…), theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…), theo
đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định)…tùy thuộc vào mục đích của
nhà quản lý ngân hàng.
Như vậy, rõ ràng việc phân loại tín dụng là rất cần thiết, nó giúp cho các nhà
quản lý ngân hàng cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, đảm bảo an toàn và
tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương
mại, một hoạt động có khả năng sinh lời cao nhất song đây cũng là hoạt động phức
tạp nhất và chức đựng nhiều rủi ro nhất. Trong hoạt động tín dụng, nếu hành động
chủ quan duy ý chí sẽ mang lại tổn thất nặng nề cho ngân hàng, thậm chí phá sản

ngân hàng. Thực tế lịch sử của ngành ngân hàng đã chứng kiến rất nhiều cuộc
khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng đều xuất phát từ nguyên nhân sâu sa là rủi
ro từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, để đưa ra một quyết định tín dụng đúng đắn, tiết
kiệm thời gian, chi phí cho ngân hàng và khách hàng thì hoạt động tín dụng đòi hỏi
ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt một quy trình chặt chẽ, đó là quy trình tín
dụng.
 Quy trình tín dụng
Để chuẩn hóa quy trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu hồi nợ với khách
hàng trong toàn hệ thống, các ngân hàng thường đặt ra quy trình tín dụng. Đó
chính là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban liên quan trong ngân hàng
phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Thông thường quy trình tín dụng gồm
bốn bước sau.
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng.
Nội dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách
hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và
nguồn vốn ngân quỹ, quyền sở hữu tài sản và các điều kiện kinh tế khác liên quan
đến khách hàng.
Trước tiên, cán bộ tín dụng cần phải thu thập thông tin về khách hàng xin
vay vốn. Thông tin về khách hàng có thể thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như
phỏng vấn trực tiếp, hồ sơ do khách hàng cung cấp, thông tin lưu trữ tại ngân hàng,
thông tin từ các nguồn khác như thông tin từ các công ty mua bán thông tin, thông
tin có được từ các cơ quan quản lý…Sau khi có đầy đủ các thông tin, ngân hàng
tiến hành kiểm tra tính chính xác của các thông tin đó và tiến hành phân tích tín
dụng. Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá khách hàng trên các mặt về năng lực pháp
lý của khách hàng, uy tín của khách hàng, thẩm định tình hình tài chính khách
hàng, đánh giá năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh
nghiệp, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh, dự án đề nghị vay vốn và thẩm
định tài sản đảm bảo. Sau khi phân tích tín dụng nếu thấy khả năng kinh tế và khả
năng thanh toán của khách hàng tốt, đồng thời có đảm bảo tín dụng một cách chắc

chắn và ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu đó thì ngân hàng sẽ quyết định cấp tín
dụng cho khách hàng. Quyết định cấp tín dụng cho khách hàng, tức là ngân hàng
và khách hàng sẽ đi đến bước thỏa thuận ký kết hợp đồng tín dụng.
Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thỏa thuận giữa người nhận tài trợ
(khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho
khách hàng một khoản tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định với lãi suất
nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và
nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều
khoản của Luật, Quy định. Vì vậy cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cân nhắc kỹ
lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Nội dung chính của hợp đồng tín dụng
gồm họ tên, địa chỉ và tư cách pháp nhân (nếu có) của khách hàng, mục đích sử
dụng vốn, số lượng tín dụng, lãi suất, mức phí, thời hạn tín dụng, các loại đảm bảo,
điều kiện và kỳ hạn giải ngân và các điều kiện khác.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát khoản vay
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp
tiền cho khách hàng như thỏa thuận trong hợp đồng. Cùng với việc cấp tín dụng,
ngân hàng kiểm soát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ
hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu
lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ…Việc tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp
ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách
hàng. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng phát hiện ra những khoản cho
vay có vấn đề nhanh hơn mà cón giúp xác định được vấn đề cán bộ tín dụng có
tuân thủ đúng chính sách cho vay của ngân hàng hay không.
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín
dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Tuy
nhiên, không phải tất cả các khoản tín dụng được hoàn trả đúng hạn. Việc thanh
toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “trục trặc” trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc xem xét, tìm ra nguyên nhân là rất quan

trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an
toàn của khoản tín dụng.
Trên đây là các bước mà cán bộ tín dụng của ngân hàng phải thực hiện trước
khi ngân hàng quyết định tài trợ cho khách hàng. Trong bốn bước đó, bước 1 là
quan trọng nhất và quyết định xem liệu ngân hàng có nên cấp tín dụng cho khách
hàng hay không. Trong bước 1, thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp đóng
vai trò rất quan trọng, chi phối đến quyết định tài trợ của ngân hàng cho khách
hàng. Vậy thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp là gì và nội dung thẩm định
tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương
mại như thế nào. Tất cả những điều đó sẽ được làm rõ ở phần tiếp theo.
1.1.2. Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết thẩm định tình hình tài chính doanh
nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng thương mại là rà soát, kiểm tra lại, đánh giá một cách khách quan, khoa học
và toàn diện mọi khía cạnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trên giác độ của
ngân hàng nhằm đưa ra quyết định cho vay đối với doanh nghiệp, đảm bảo an toàn
và sinh lời cho ngân hàng. Trong quá trình thẩm định tình hình tài chính doanh
nghiệp, nhiều khi phải tính toán, phân tích lại các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài
chính của doanh nghiệp.
Từ khái niệm thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại ta có thể thấy được sự cần thiết của công việc này.
Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất cho ngân hàng thương mại song
cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn
thất cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không
trả đầy đủ vốn và lãi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng như thiên tai,
dịch bệnh, sự thay đổi trong chính sách kinh tế của Nhà nước, khách hàng yếu kém
trong trình độ quản lý hoặc cố tình lừa đảo ngân hàng…tất cả đều có thể dẫn đến
ngân hàng không thu hồi được các khoản tiền mà khách hàng vay. Như vậy, rõ

ràng, trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng rất
khó bị loại trừ. Vấn đề cần quan tâm là phải hạn chế khả năng xảy ra rủi ro đến
mức thấp nhất có thể. Có nhiều biện pháp để hạn chế rủi ro như đa dạng hóa các
loại hình tín dụng, đa dạng hóa khách hàng, sàng lọc và giám sát khách hàng, yêu
cầu tài sản đảm bảo… Nhưng, có lẽ biện pháp quan trọng nhất mà bất cứ ngân
hàng nào cũng áp dụng đó là thẩm định kỹ lưỡng khách hàng một cách toàn diện
trước khi quyết định cho khách hàng vay tiền. Trong đó, thẩm định tình hình tài
chính doanh nghiệp là rất quan trọng. Thông qua thẩm định tình hình tài chính của
doanh nghiệp xin vay, ngân hàng sẽ đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng
một cách sát thực hơn và ý muốn trả nợ của khách hàng (thiện chí trả nợ của khách
hàng), xác định xem doanh nghiệp có thực sự có nhu cầu vốn không và mức ngân
hàng có thể cấp cho doanh nghiệp là bao nhiêu, đồng thời xác định thời hạn khoản
tín dụng cho phù hợp. Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp có vai trò quan
trọng trong việc ra quyết định tín dụng, vì nếu thẩm định không chính xác sẽ dẫn
đến sự lựa chọn đối nghịch và xảy ra rủi ro cho ngân hàng, làm giảm thu nhập của
ngân hàng, thậm chí có thể đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản. Như vậy, thẩm định
tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương
mại rất quan trọng, nó là nội dung không thể thiếu của thẩm định khách hàng.
Cùng với thẩm định các yếu tố khác, thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp
trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại rất cần thiết, ảnh hưởng trực
tiếp đến việc ngân hàng có thu được cả gốc và lãi đúng hạn hay không. Vậy, thẩm
định tình hình tài chính doanh nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu gì, điều
này sẽ được trình bày ở phần dưới đây.
1.1.2.2. Nội dung thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại
a. Thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính
Trước khi tiến hành thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp, cán bộ tín dụng
phải tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung
cấp. Đây là yếu tố quyết định tới chất lượng thẩm định. Một báo cáo tài chính sẽ trở nên
vô nghĩa đối với ngân hàng khi nó được làm “đẹp” và phản ánh không chính xác tình

hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Vì vậy, trong trường hợp này, các công việc tiếp
theo hầu như không có giá trị.
Để tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng
sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các báo cáo tài chính như các báo
cáo tài chính gửi cho ngân hàng có giá trị pháp lý không, các số liệu trong các báo
cáo tài chính có đảm bảo phù hợp không hay mâu thuẫn nhau, chế độ kế toán và
phương pháp kế toán áp dụng có tuân thủ đúng quy định của pháp luật không. Đó
là quá trình kiểm tra, đánh giá sơ bộ.
Sau khi kiểm tra sơ bộ, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành kiểm tra một cách cụ thể
hơn các báo cáo tài chính. Bằng kinh nghiệm, sự hiểu biết thực tế, độ nhạy cảm
của mình, cán bộ tín dụng tìm xem trong các báo cáo tài chính đó có chỗ nào mâu
thuẫn, bất hợp lý và những chi tiết khả nghi. Vì các báo cáo tài chính có mối quan
hệ mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau nên cán bộ tín dụng sẽ tiến hành
đối chiếu so sánh để xem liệu chúng có phù hợp không. Sự phù hợp của một báo
cáo tài chính không những trong mối quan hệ với các báo cáo tài chính khác mà
còn phải phù hợp trong nội dung mỗi báo cáo đó. Trong trường hợp này, cán bộ tín
dụng thường kiểm tra tính chính xác của số liệu trong các báo cáo đó.
Trong quá trình này, để đánh giá mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính,
cán bộ tín dụng không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra về mặt sổ sách của các báo cáo
đó mà cần phải liên hệ thực tế hoạt động của doanh nghiệp đang diễn ra. Cán bộ tín
dụng tiến hành thu thập thêm các thông tin về doanh nghiệp thông qua tiếp xúc với
lãnh đạo doanh nghiệp, xuống cơ sở sản xuất của doanh nghiệp để quan sát, tiếp
xúc với công nhân trong doanh nghiệp và thu thập thêm các thông tin từ bạn hàng,
đối thủ cạnh tranh, cơ quan thuế…để có thể đối chiếu và xác minh tính chính xác
các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng
cần phải kiểm tra xem số liệu đã được kiểm toán độc lập chưa và có phải do một
công ty kiểm toán có uy tín thực hiện không, mặt khác cần tìm hiểu các số liệu
được cơ quan thuế chấp nhận…có như vậy mới có thể đánh giá được mức độ tin
tưởng của các báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp.
Như vậy, qua việc kiểm tra các báo cáo tài chính và kết hợp các thông tin mà

ngân hàng thu thập được, cán bộ tín dụng có thể đánh giá được mức độ tin cậy của
các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng không phải là chuyên gia trong
việc đánh giá mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính nên ngân hàng thường yêu
cầu doanh nghiệp cam kết các báo cáo tài chính mà họ cung cấp là đúng sự thật và
doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm về tính chính xác của các báo cáo này. Sau khi
xác minh, đánh giá mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng sẽ
tiến hành thẩm định nội dung trong các báo cáo tài chính đó.
b. Thẩm định các báo cáo tài chính
 Thẩm định các khoản mục trong bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Bảng cân đối kế toán có hai phần:
bên trái là các khoản mục tài sản và bên phải là khoản mục nợ và vốn chủ sở hữu.
Bảng cân đối kế toán cho người sử dụng biết những tài sản doanh nghiệp sở hữu và
cách thức tài trợ chúng. Nhìn vào Bảng cân đối kế toán, cán bộ tín dụng có thể
nhận biết được các loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của
doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho
cán bộ tín dụng đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán
và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.
Nhìn chung, việc thẩm định bảng cân đối kế toán bắt đầu bằng việc cán bộ tín
dụng sẽ đánh giá khái quát các chỉ tiêu về cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn và sự biến
động của chúng, đồng thời xem xét mối quan hệ giữa tài sản và vốn. Trong quá
trình hoạt động, tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp sẽ liên tục biến động cả về
quy mô và cơ cấu. Thông thường, khi tổng tài sản tăng chứng tỏ doanh nghiệp
đang mở rộng sản xuất kinh doanh và kết quả là doanh thu, lợi nhuận cũng tăng
theo. Trường hợp tổng tài sản tăng nhưng doanh thu không tăng phải tìm hiểu
nguyên nhân có thể do tài sản cố định mới đưa vào hoạt động hoặc doanh thu
không tăng nhưng lợi nhuận tăng có thể do quản lý về tài chính tốt hơn, giảm chi
phí... Những trường hợp tổng tài sản tăng mà doanh thu, lợi nhuận không tăng
chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp đang bị giảm sút và phải tìm
hiểu nguyên nhân và xu hướng thay đổi.

Khi phân tích cơ cấu tài sản, để đánh giá tính hợp lý của việc phân bổ, bên
cạnh việc so sánh tỷ trọng từng loại tài sản chiếm trong tổng tài sản và xu hướng
biến động về tỷ trọng, cán bộ tín dụng còn phải xem xét sự biến động trên tổng tài
sản cũng như từng loại tài sản giữa cuối kỳ so với đầu kỳ. Cán bộ tín dụng sẽ căn
cứ vào tình hình phân bổ tài sản, tính chất kinh doanh và tình hình biến động của
từng bộ phận tài sản để đánh giá tính hợp lý của cơ cấu tài sản và xu hướng biến
động tài sản. Khi phân tích khoản mục nợ phải trả và vốn chủ sở hữu, cán bộ tín
dụng quan tâm đến việc doanh nghiệp dùng nguồn nào để tài trợ cho các loại tài
sản, việc phân bổ nguồn vốn có hợp lý không và mức độ tự chủ về mặt tài chính
của doanh nghiệp thế nào.
Sau khi đã đánh giá tổng quát về tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh
nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ thẩm định chi tiết từng khoản mục trong bảng cân đối kế
toán.
 Thẩm định chi tiết các khoản mục tài sản
Tài sản của doanh nghiệp phản ánh ở bên trái của bảng cân đối kế toán, bao
gồm giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản
lý và sử dụng của doanh nghiệp. Trong thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp,
đứng trên góc độ ngân hàng, cán bộ tín dụng sẽ đánh giá các khoản mục chủ yếu
sau:
_ Tiền mặt: Tiền mặt của doanh nghiệp bao gồm tiền mặt tại quỹ và tiền trên
tài khoản thanh toán của doanh nghiệp tại ngân hàng. Nó được sử dụng để trả
lương, mua nguyên vật liệu, trả nợ, mua tài sản cố định…Tiền mặt là tài sản không
sinh lãi nhưng nó giúp doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh và đảm bảo khả
năng thanh toán trong các trường hợp cần thiết. Rõ ràng, việc nắm giữ tiền mặt có
hai mặt của nó, khi cán bộ tín dụng đánh giá khoản mục này cần đánh giá lượng
nắm giữ tiền mặt hợp lý của doanh nghiệp. Vì nếu doanh nghiệp nắm giữ quá
nhiều tiền mặt sẽ giảm khả năng sinh lời, còn nắm giữ quá ít có thể dẫn đến rủi ro
thanh toán, việc nắm giữ lượng tiền mặt bao nhiêu tùy thuộc vào từng lĩnh vực
hoạt động của doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cụ
thể. Tuy nhiên, xét cho đến cùng các khoản vay ngân hàng sẽ được trả bằng tiền

mặt, vì vậy cán bộ tín dụng cần đánh giá được nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp.
_Các khoản phải thu: Đây là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản phải thu từ
khách hàng, khoản đặt trước cho người bán. Các khoản phải thu cho thấy số vốn
doanh nghiệp bị khách hàng chiếm dụng. Các khoản phải thu phải được xem xét
một cách cẩn thận vì đây là nguồn chủ yếu để doanh nghiệp chi trả các khoản vay
đến hạn. Khi xem xét các khoản phải thu, cán bộ tín dụng tìm hiểu về phương thức
tiêu thụ, chính sách thanh toán tiền hàng (chiết khấu thanh toán), khả năng quản lý
nợ của doanh nghiệp để nhận xét về khả năng thu hồi các khoản phải thu của
doanh nghiệp và loại trừ các khoản bán chịu không thu được, khó thu được hoặc đã
bán cho người khác, đồng thời cần xác định vòng quay các khoản phải thu. Vì các
khoản phải thu, giống như các tài sản khác, phải được tài trợ theo một cách nào đó
vì vậy khi đánh giá các khoản phải thu cán bộ tín dụng cần xem xét trong mối liên
hệ với các khoản phải trả và các khoản nợ khác của doanh nghiệp.
_Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các tài
sản này tăng nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
_Dự trữ: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị thực các loại hàng tồn kho dự
trữ cho quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Rất nhiều món vay ngắn
hạn nhằm mục tiêu tăng dự trữ hàng hóa, có nghĩa là một phần hàng hóa trong kho
được hình thành từ vốn vay của ngân hàng. Do đó, cán bộ tín dụng cần xem xét
tình hình biến động xuất - nhập và tồn kho cả nguyên liệu và hàng hoá của doanh
nghiệp. Các số liệu về hàng tồn kho phản ánh chi tiết và chính xác tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp, nó cho thấy mặt hàng nào nhập nhiều, mặt hàng nào nhập
ít, mặt hàng nào dễ bán, mặt hàng nào khó bán, thời gian quay vòng của nó cao hay
thấp, lượng tồn kho là bao nhiêu và đặc biệt trong số hàng tồn kho có bao nhiêu
hàng ế chậm luân chuyển, bao nhiêu hàng kém chất lượng và hàng nào là của
người khác gửi.
_Tài sản cố định: Đây là những tài sản tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và
có giá trị lớn. Thông thường, đối với các khoản cho vay ngắn hạn, ngân hàng
thường không quan tâm đến việc bán các tài sản cố định như một nguồn dùng để
trả nợ. Tuy nhiên, đối với các khoản tài trợ dài hạn thì tài sản cố định lại có vai trò

×