Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân loại tiền gửi trong các ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.89 KB, 8 trang )

I. Phân loại tiền gửi trong các NHTM
Tiền gửi là có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của NHTM như đã
nói ở trên. Việc phân loại tiền gửi sẽ giúp chúng ta quản lý được nó dễ dàng hơn và
có những biện pháp để huy động tiền gửi nhiều hơn tùy theo mục đích hoạt động
của ngân hàng. Có nhiều cách để phân loại tiền gửi trong các NHTM, dưới đây là
cách phân loại phổ biến nhất. Theo cách phân loại này, tiền gửi có thể chia thành 3
loại chính sau: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
I.1. Tiền gửi không kỳ hạn
I.1.1. Định nghĩa
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc bất dụng, nghĩa
là người gửi tiền có quyền rút tiền vào bất cứ lúc nào họ muốn. Ngân hàng sắp xếp
loại tiền này vào nhóm tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các khỏan tiền gửi với thời
gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền vào sáng nay, nếu cần anh ta có thể
rút ra ngay vào buổi chiều. Tính bất định về thời gian gửi, cùng với đặc điểm có
thể có thể rút ra bất cứ lúc nào cần đã làm cho loại tiền gửi này còn có tên gọi theo
tiếng anh là tiền gửi theo nhu cầu ( Demand deposits).
Ngày nay, khi chúng ta gửi tiền vào tài khoản không kỳ hạn, ngân hàng sẽ cấp
cho chúng ta một cuốn sổ Séc để chúng ta có thể viết Séc chi tiêu khi có nhu cầu ở
bất cứ nơi nào. Vì vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền trong tài khoản
Séc ( Checking Account). Khách hàng sử dụng Séc không phải vì mục đích để
dành và cũng không chú trọng ở tiền lãi. Khách hàng chỉ muốn đổi hình thức tiền
tệ này thành hình thức tiền tệ khác và do sự thuận tiện trong thanh toán mà họ đã
chọn Sec. Sụ tiện lợi trong thanh tóan của tiền gửi không kỳ hạn này phụ thuộc vào
tổ chức và hoạt động của NHTM đã phát hàng ra nó. Nếu gửi tiền vào tài khỏan
này ở một NHTM có chi nhánh ở khắp nơi trên lãnh thổ kể cả những vùng xa xôi
hẻo lánh nhất, thì Séc do chủ tài khoản ký phát có hiệu lực thanh tóan và được chấ
nhận nhanh chẳng kém gì tiền mặt. Đó là lý do để tiền gửi không kỳ hạn được xem
là laọi hình gần tiền mặt nhất trong tất cả các loại hình tiền của NHTM. Tuy nhiên,
ở các nước đang phát triển thì thanh toán bằng Séc chưa phổ biến do chi nhánh của
các NHTM ở những nước này còn ít và không phủ rộng khắp nơi để cả những
vùng sâu vùng xa hoặc có quan hệ không tốt với các ngân hàng khác, hơn nữa, tâm


lý của người dân còn ưa thích dùng tiền mặt hơn.
Tiền gửi laọi này có thể phát hành từ khách hàng là doanh nghiệp và chủ
doanh nghiệp đứng tên tài khoản hay người dân bình thường. Việc phân biệt giữa
tài khỏan vãng lãi mở cho doanh nghiệp và các tài khỏan Séc mở cho người dân rất
cần thiết cho ngân hàng không những về mặt pháp lý mà còn cả về mặt kỹ thuật.
Khoản tiền khách hàng gửi vào thực chất là khoản tiền khách hàng cho ngân hàng
vay. NGân hàng sẽ trả lãi cho khách hàng hàng tháng mặc dù rất thấp. Do đó, đối
với ngân hàng, nó là một khỏan nợ, khoản nợ này sẽ được trả theo nhu cầu của
người gửi.
I.1.2. Phân loại
Sự đa dạng của loại hình tiền gửi không kỳ hạn này để đáp ứng cho sự phát
triển của xã hội và nhu cầu thanh toán của người dân. Ở các nước phát triển, tiền
gửi không kỳ hạn có thể phấn ra thành các loại như sau:
a) Tiền gửi dùng Sec ( checking deposits)
b) Tiền gửi rút tiền tự động hay tiền gửi thông dụng ( Ordinary deposits) thực hiện
qua máy rút tiền ( cash dispensers) máy nhận rút và chuyển tiền tự động
( Automated teller machine hay còn gọi là ATM)
c) Tài khỏan ATS ( automatic transfer service account) tài khoản phối hợp tài khoản
tiền gửi tiết kiệm và tài khoản Séc ở Mỹ
d) Tiền gửi có thông tri ( deposit at notice), tiền gửi hẹn rút ( deposit at call) hay tiền
gửi có báo trước (dépots à prévis) : là loại tiền gửi không có quy định một kỳ hạn
nào, nhưng các bên có thỏa thuậ việc thông báo trước từ 5 đến 8 ngày. Vậy việc
thông báo trước có làm mất tính khả dụng, nghĩa là làm cho khỏan tiền gửi mất
tính pháp lý cơ bản của nó?
+ Xét về khía cạnh kinh tế, thông tri báo trước một vài ngày nhằm mục đích
giúp ngân hàng có thời gian để gom đủ số tiền cần thiết cho việc thanhtoán, thì số
tiền gửi có báo trước đúng là một loại tiền gửi.
+ Xét về phương diện pháp lý, tiền gửi có báo trước không cho phép khách
hàng sử dụng sec để rút tiền trong các tài khoản có báo trước. Do đó, tiền gửi có
báo trước phụ thuộc quy tắc cho vay. Những loại tiền gửi có báo trước thường

cũng được trả lãi, nhưng thấp hơn so với các loại tiền gửi có ký hạn.
Có nhiều ngân hàng đã dung hợp hai lối tiền gửi có kỳ hạn và báo trước.
Khách hàng lúc gửi tiền được ấn định một kỳ hạn, nhưng khi cần tiền gấp, có thể
rút tiền trước thời hạn, miễn là báo trước vài ngày hoặc một tuần tùy theo số tiền
lớn hay nhỏ.
e) Tài khoản NOW: Ra đời ở Anh trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX, sự kếp hợp giữa
tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm đã xuất hiện dưới hình thức
tài khỏan NOW – negotiable order of withdrawal – tài khoản lệnh rút tiền có thể
thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được hưởng lãi, do đó nó cho phép
Ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi
này ít khi được thực hiện nên NOW được sử dụng như là một tài khoản phát séc để
chi trả cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Từ năm 1981, NOW đựoc chấp nhận
rộng rãi trên toàn nước Mỹ. Tuy nhiên, loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ
bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận (nonprofit institutions). Khi NOW được
chấp nhận trên tòan nước Mỹ, Chính phủ Mỹ đã cho phép ngân hàng thực hiện
nghiệp vụ chuyển vốn tự động, trong đó khách hàng ủy quyền trước (preauthorize)
cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khỏan tiết kiệm sang tài khoản séc để
bù đắp thấu chi (overdraft). Kết quả cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài
khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm.
f) Tài khoản MMDA: “Với việc thông qua đạo luật về các tổ chức nhận tiền gửi
Garn-st Germain năm 1982, hai loại hình tài khoản giao dịch hưởng lãi quan trọng
được hình thành. Ngân hàng và các tổ chức tiết kiệm phi Ngân hàng có thể đưa ra
một loại hình tiền gửi mới để cạnh tranh với tài khoản đầu tư chứngkhóancó lãi
suatá cao hơn, được cung cấp bởi các quỹ trên thị trường tiền tệ và được đảm bảo
bằng danh mục đầu tư chứng khóan có chất lượng cao. Kết quả là đưa tới sự ra đời
của tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản Super NOW”.
Hai loại tài khoản này trả lãi theo lãi suất thị trường tiền tệ và khách hàng có thể
thực hiện thanh tóan cho các giao dịch mua hàng hóa và dịch vụ thông qua việc
phát séc hay hối phiếu ủy quyền trước (preauthorised draft).
MMDA là tài khoản tiền gửi thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần hay

vài tháng và NGân hàng có thể trả lãi suất ở mức đủ lớn để thù hút và nắm giữ tiền
gửi của khách hàng. Có tới sáu hối phiếu ủy quyền trước được phép thực hiện
trong một tháng nhưng số lượng séc phát hàng chỉ được giới hạn là 3 lần. Đối với
lệnh rút tìen cá nhân thì không có hạn chế (mặc dù ngân hàng có quyền đặt mức tối
đa cho quy mô tiền rút và cho số lượng lệnh rút tiền cá nhân ). Không như NOW,
MMDA có thể được nắm giữ bởi cả doanh nghiệp và cá nhân.
g) Tài khoản Super NOW (SNOW) ra đời gần như cùng thời gian với MMDA, nhưng
tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận.
Không có quy định nào hạn chế số lượng séc người gửi tiền có thể phát hàng. Tuy
nhiên, Ngân hàng áp dụng một mức lãi đối với SNOW thấp hơn cả với MMDA bởi
vì SNOW có thể được phát séc thường xuyên hơn. Do đó, các nhà quản lý trung
ương xếp MMDA vào nhóm tiền gửi tiết kiệm. Tuy vậy, chúng ta xếp tài khoản
loại này vào phần tài khoản giao dịch vì chúng có đặc quyền phát séc.
h) Tiền gửi đặc biệt: Nhằm phát triển tiền gửi, một số ngân hàng áp dụng loại tiền gửi
đặc biệt với các nội dung sau:
+ Các bên có thể thỏa thuận về số tiền gửi sẽ được phong tỏa. Thông thường
thì các vụ rút tiền được quy định trong phạm vu một phần số tiền gửi, người gửi
cam kết không sử dụng vào phần tối thiểu quy định. Đối với các số tiền phong tỏa,
người ta sẽ áp dụng lãi suất cao hơn. Nếu khách hàng rút tiền ra trước ngày đã dự
tính thì hoặc không được hưởng lãi suất như thỏa thuận hoặc được hưởng một lãi
suất thấp.
+ Có khi khách hàng ký gửi một số tiềnvào ngân hàng để chuẩn bị cho một
doanh vụ đã có dự định trước. Cũng có khi dùng loại tiền gửi này để tạo một đảm
bảo cho chính ngân hàng hay một bên thứ ba, hoặc tiền gửi được dùng đeer tạo một
khoản dự phòng để trả lãi công trái, hoặc là các khoản tiền đã được gửi nhằm để
mua các chứng khoán, để dự tính vào vốn của một công ty đang thành lập hoặc
tăng vốn hay là để thanh toán cho một hối phiếu.
Trên đây là những loại tiền gửi không kỳ hạn phổ biến nhất. Tùy theo nhu cầu
đa dạng của khách hàng và sự phát triển của hệ thống ngân hàng ở mỗi nước mà
các quốc gia lại có thêm những khoản tiền gửi không kỳ hạn khác nhau.

I.2. Tiền gửi có kỳ hạn
I.2.1. Định nghĩa
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng mà có sụ
thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa ngân hàng và khách hàng. Như vậy, về
nguyên tắc, khách hàng gửi tiền chỉ đựoc rút tiền ra khi đến hạn đã thỏa
thuận.
Thực ra, các loại tiền gửi định kỳ này không phải là những loại tiền gửi theo
nghĩa của pháp lý, mà nó có dạng như một khỏan tiền vau của ngân hàng nhưng
không thể hiện bằng một phiếu khoán. Nó là một ngoại lệ của quy tắc bất khả
dụng, bởi vì khách hàng chỉ phải hoàn lại số tiền gửi vào ngày đáo hạn ghi trên hợp
đồng.
Tiền gửi có kỳ hạn có những đặc điểm sau đây:
+ Tên gọi “ có kỳ hạn” có nghĩa là khỏan tiền được gửi sẽ có thời hạn gửi tối
thiếu theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng và không được rút ta trước
thời hạn đã cam kết. Nếu vì một lý do nào đó mà người gửi tiền phải rút tiền trước
hạn thì ngân hàng có một trong ba cách xử lý như sau: thứ nhất, từ chối. Bởi vì
theo như cam kết của hợp đồng, người gửi tiền sẽ cho ngân hàng vay với thời hạn
đã thống nhất, nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn sẽ làm ảnh hưởng đến công
việc kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, thông thường ngân hàng làm hai cách
mềm dẻo hơn sau: Thứ hai, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải báo trứoc, ít nhất
một khoảng thời gian nào đó về ý định rút tiền. Thứ ba, với những yêu cầu rút tiền

×