LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VẤN ĐỀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng tín nhiệm). Trong
thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; Ngay
cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có
một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng được hiểu theo các nghĩa sau
:
Xét trên góc độ chuyển quỹ đầu tư cho vay từ chủ thể thặng dự tiền tiền kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dung được coi là phương pháp chuyển dịch
quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ
sở có hồn trả giữa hai chủ thể. Như một cơng ty thương mại bán hàng hóa trả
chậm cho một cơng ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao từ hàng
hóa cho bên mua và sau một thời gian nhất định thỏa thuận bên mua phải trả tiền
cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính
khác với các doanh nghiệp và cá nhân duới hình thức cho vay tức là ngân hàng cấp
tiền cho vay cho bên đi vay sau mơt thời hạn nhất định người đi vay phải thanh
tốn vốn gốc và lãi.
Tín dụng cịn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng.
Trong một số ngữ cảnh nhất định tín dụng cịn có nghĩa là cho vay. Ví dụ: tín dụng
ngắn hạn đồng nghĩa với cho vay ngắn hạn, hoặc như từ tín dụng tuần hồn là một
loại tín dụng cụ thể.
Trên cơ sở tiếp cân theo chức năng của họat động ngân hàng thì tín dụng được
hiểu như sau :
Tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa bên vay và bên cho vay và bên đi vay
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời
gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hồn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên vay đến hạn thanh tốn.
Từ khái niệm, bản chất tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả có
các đặc trưng :
Tài sản sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức
cho vay bằng tiền và cho thuê trong những năm 1960 trở về trước họat động tín
dụng chỉ cho vay bằng tiền. Xuất phát từ đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín
dụng được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, cho thuê
vân hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính
khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng,
một hình thức tín dụng bằng tài sản thực.
Xuất phát từ ngun tắc hồn trả, vì vậy người vay cho khi chuyển giao tài sản
khi cho vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là
yếu tố rất cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng
của ngân hàng khi xét duyệt khỏan vay không chú trọng đến cơ sở đánh giá mức
độ tín nhiệm của khách hàng mà lại chú trọng đến tài sản đảm bảo, chính quan
điểm này làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Giá trị hồn trả phải lớn hơn giá trị của khỏan vay hay nói cách khác là người đi
vay phải trả thêm một phần lãi ngoài phần vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc
này phải xác định lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác là
lãi suất thực duơng. Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác
nhau nên trong một số trường hợp lãi suất danh nghĩa có thể lớn hơn tỷ lệ lạm phát,
ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hồn trả
vơ điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng, kế
uớc .. thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết thanh toán cho vay khi
đến thời hạn thanh tốn.
1.1.2
Vai trị của hoạt động tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiều vốn là hiện tượng thường
xuyên xảy ra. Nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều chủ thể trong nền kinh tế bao
gồm các doanh nghiệp, các hộ gia đình và chính quyền mỗi một khu vực có một
nhu cầu khác nhau về quỹ cho vay.
Đối với doanh nghiệp : nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp bao gồm hai
thành phần cơ bản đầu tư vào hàng tồn kho và đầu tư vào tài sản cố định. Những
thành phần đầu tư chịu tác động của nhiều yếu tố khách nhau. Những sự thay đổi
ròng về hàng tồn kho được phát sinh chủ yếu từ sự chênh lệch giữa doanh số bán
dự tính và doanh số bán thực hiện như đã dự tính, nếu như doanh số bán thực hiện
như doanh số bán dự tính thì không lượng hàng tồn kho không vượt quá mức cần
thiết. Ngược lại nếu doanh số bán thực hiện vuợt quá mức dự tính thì doanh nghiệp
tồn kho ở mức thấp so với tổng doanh số bán. Vì vậy sự biến động của hàng tồn
kho ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu của doanh nghiệp về quỹ vay. Bởi vi hàng tồn
kho thường đựoc tài trợ bằng những khoản vay ngắn hạn thông thường tại các ngân
hàng thương mại và thông qua tín dụng thương mại do các nhà cung cấp dành cho
doanh nghiệp cho nên những thay đổi về hành tồn kho thường gây ra các biến động
mạnh trong nhu cầu của doanh nghiệp về khối lượng hàng tồn kho từ đó gây ra
những biến động về lãi suất ngắn hạn.
Nhu cầu vốn vay lớn nhất của doanh nghiệp được xác định theo kế hoạch đầu
tư chúng thường xuất phát từ cân nhắc cản thận của ban quản trị trong thời gian
dài. Những nhu cầu thay đổi cầu về quỹ cho vay nhằm đáp ứng dầu tư. Ít biến đổi
hơn so với nhu cầu về quỹ cho vay nhămd đáp ứng nhu cầu về hàng tồn kho. Nhìn
chung các nhà máy thiết bị được tài trợ bằng các quỹ cho vay dài hạn. Điều này
kiến cho khu vực thị trường tài chính dài hạn ổn định hơn so với khu vực tài chính
ngắn hạn.
Đối với chính quyền : khu vực chủ yếu khác liên quan đến nhu cầu về quỹ
trong các thị trường tài chính là khu vực chính quyền.
Nhu cầu tài chính của khu vực chính quyền liên quan chủ yếu từ chính sách
tài chính. Quy mơ của ngân sách phụ thuộc vào các quy mô thuế suất, chi tiêu của
chính phủ vào hàng hóa dịch vụ và thanh toán các khoản nợ.
Thiếu hụt ngân sách là nguyên nhân tạo ra mức cầu của quỹ cho vau vì mức
thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách đi vay trên thị trường tài chính duới
hình thức phát hành trái phiếu.
Nhu cầu của người tiêu dùng bao gồm nhu cầu về thực phẩm, trang trí, chi phí
y tế văn hóa hàng lâu bền nhà ở và cá chi phí xa xỉ phẩm khác. Trong đó hàng tiêu
dụng hàng hóa xa xỉ nhạy cảm với lãi suất. một sự thay đổi về lãi suất sẽ dấn đến
sự gia tăng của nhu cầu về những món hàng hóa này. Mặt khác các nhu cầu yếu
phẩm hàng ngày không nhạy cảm với lãi suất. cũng giống như doanh nghiệp, yếu
tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Trong giai đoạn kinh tế trì trệ thì
nhu cầu về quỹ cho vay giảm mặc dù lãi suất thị trường thấp, vì nỗi lo sợ nền kinh
tế khủng hoảng hoặc thất nghiệp. Ngược lại khi nguời tiêu dùng tin tưởng nền kinh
tế phát triển thì lãi suất thấp có tác dụng thúc đầy tiêu dùng mặc dù đang ở trong
nền kinh tế khó khăn.
Nhiệm vụ cơ bản của hệ thống tài chính là phân phối những quỹ vay từ các
đơn vị thặng dư tiền tiết kiệm sang tay các đơn vị thiếu hụt tiền tiết kiệm sự phân
phối này được thực hiện qua các thị trường tài chính và trung gian tài chính. Trên
thực tế, quỹ cho vay được trao đổi với người vay bằng các con đường khác nhau.
Giao dịch trực tiếp giữa chủ thể vay và các chủ thể cho vay. Người đi vay và
cho vay có thẻ liên hệ trực tiếp với nhau khơng cần có sự giúp đỡ của tổ chức trung
gian tài chính hoặc bất kỳ các định chế tài chính nào khác. Phương pháp này gọi là
tài trợ trực tiếp, sau khi hoàn thành một giao dịch người cho vay giao cho người
vay một tài sản cố định người vay giao cho người cho vay một tài sản tài chính để
đổi lấy quỹ. Thơng thường thì người đi vay cam kết trong tương lai thực hiện các
khoản chi trả cho người cho vay và người cho vay thu lại đủ quỹ đã cho vay cộng
thêm một khoản lợi tức từ chuyển nhượng qũy.
Giao dịch tín dụng bán trực tiếp thơng qua các nhà môi giới. Một phương
pháp thông dụng khác của họat động trao đổi trực tiếp là các trái quyền của tài
chính giữa các chủ thể tài chính giữa người vay và người cho vay và cho vay là kĩ
thuật tài trợ bán trực tiếp. Trong một số trường hợp người vay và người đi vay dựa
vào bên thứ ba để hoàn thành hợp đồng tín dụng.
Giao dịch tín dụng gián tiếp. những khiếm khuyết của tài trợ trực tiếp và bán
trực tiếp mở đường cho một phương pháp thứ ba đó là thực hiện các giao dịch tài
chính thơng qua họat động của ngân hàng tổ chức trung gian tài chính hoặc tài trợ
gián tiếp. Bằng phương pháp này cả hai bên chủ thể đi vay và chủ thể cho vay đều
được thỏa mãn các yêu cầu tài chính nhờ các tổ chức trung gian tài chính.
Giao dịch tín dụng của ngân hàng là kênh truyền tải vốn quan trọng nhất
chiếm trên 50% chu chuyển cho vay trong nền kinh tế. Đối với các nước phát triển
tỷ lệ cao hơn nhiều sở dĩ như vậy xuất phát từ vai trò trung gian tài chính của các
ngân hàng và các đinh chế tài chính nhận tiền gửi khác như sau:
Trung gian về mệnh giá : các ngân hàng và các định chế tài chính huy động
các khoản tiền tiết kiệm nhỏ từ các tổ chức cá nhân hoặc từ tổ chức những quỹ này
lại được nhập thành những quỹ lớn để cấp phát chủ yếu cho các doanh nghiệp.
Thực tế các khoản vay lớn gấp hàng trăm lần so với các một khoản tiền tiết kiệm.
Trung gian rủi ro sai hẹn : các ngân hàng cấp phát những khỏan vay chi
những người đi vay nhiều rủi ro và đồng thời phát hành những chứng khốn tuờng
đối an tồn và lưu họat để huy động quỹ cho vay từ những người tiết kiệm không
chấp nhận rủi ro.
Trung gian về hạn kỳ : quỹ cho vay họat động tương đối ngắn hạn từ người
tiết kiệm và người này không chấp nhận giao quỹ của họ với kỳ hạn dài. Trong đó
người đi vay địi hỏi sử dụng quỹ với thời hạn lâu hơn. Tín dụng sẽ giải quyết được
mâu thuẫn đó tức là trung gian kỳ hạn.
Trung gian về thơng tin là nói đến tiến trình các ngân hàng sử dụng năng lực
của họ để thu thập và xử lý thông tin thị trường tài chính thay cho người tiết kiệm
thuờng khơng có thì giờ lẫn nghiệp vụ để nắm bắt những thay đổi của thị trường và
cũng không thể tiếp cận thông tin liên quan đến thị trường và các cơ hội đầu tư.
Nhằm thu thập thông tin đầy đủ về người đi vay các tổ chức tín dụng phải tiêu tốn
đáng kể về thời gian vốn và cả nghiệp vụ những nguồn lực mà những nhà tiết kiệm
lớn hay nhỏ và ngay cả một số nhà tiết kiệm lớn cũng khơng có được.
Ngày nay, với xu thế tồn cầu hố nền kinh tế thế giới ,tín dụng ngân hàng
cịn tham gia tạo điều kiện phát triển các mối quan hệ đối ngoại.thông qua hoạt
động này các nước có thể mở rộng và thắt chặt mối quan hệ với nhau tạo điều kiện
thúc đẩy sự mở rộng tăng cường nguồn vốn tín dụng.
1.1.3
Phân loại tín dụng
Ngân hàng cho vay dưới rất nhiều hình thức trong đó các hình thức sử dụng
rộng rãi nhất bao gồm :
Các khoản cho cho vay kinh doanh ngắn hạn :
- Cho vay mua hàng dự trữ.
- Cho vay vốn lưu động.
-
Cho vay ngắn hạn với các cơng trình xây dựng.
Cho vay kinh doanh chứng khoán.
Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Cho trên tài sản.
Các khoản cho vay cho vay kinh doanh dài hạn :
-
Cho vay kỳ hạn mua các thiết bị và các tài sản cố định khác.
Cho vay luân chuyển.
Cho vay theo dự án.
Cho vay tài trợ mua lại công ty.
Các khoản cho vay kinh doanh ngắn hạn :
Các khoản cho vay mua hàng dự trữ : từ trước đến nay các ngân hàng
thường thích cho các hãng vay ngắn hạn bổ sung tạm thời vốn họat động. Trong
thực tế cho tới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai các ngân hàng vẫn chủ yếu
cấp tín dụng dưới hình thức tự thanh toán. Các khoản vay này chủ yếu được tài
trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thơ hoặc hàng hóa. Các khoản vay
này thường tận dụng chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như sau:
- Tiền mặt chỉ dùng để mua hàng hóa dự trữ nguyên vật liệu bán thánh phẩm hoặc
thành phẩm.
- Hàng hóa được sản xuất ra để bán.
- Hàng hóa đã bán (thường là bán chịu )
- Tiền mặt thu về (ngay cả khi bán hàng hoặc thu về từ các khoản thu bán chịu) và
được dùng để thanh toán cho ngân hàng.
Trong trường hợp này ngân hàng kỳ hạn của khoản vay bắt đầu được tính khi
hãng cần vốn đáp ứng mua hàng kết thúc khi hãng nhận được tiền mặt bán hàng và
nhập vào tài khoản để trả nợ cho ngân hàng.
Mặc dù cho đến ngày nay các ngân hàng khơng cịn đơn thuần chỉ cho vay
các khoản thanh tốn như trước mà nó đã xuất hiện hàng lọat các loại hình cho vay
khác nhau các khoản cho vay ngắn hạn thường mang tính tự thanh tốn vẫn chiếm
hơn 50% giá trị các khoản vay trong thanh toán ngân hàng .
Trên thực tế các khoản vay này chỉ có kỳ hạn kéo dài trong vòng vài tuần
hoặc vài ngày thường liên quan đến nhu cầu vay ngắn hạn để phục vụ cho nhu cầu
vay ngắn hạn để trang trải chi phí như thuế suẩt hoặc là trả lãi cổ phiếu và thanh
toán các khỏan nợ khác..
Cho vay vốn lưu động : Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối với các
hãng kinh doanh với kỳ hạn kéo dài từ vài ngày đến một năm. Các khoản vay vốn
lưu động thường được sử dụng để mau hàng dự trữ hoặc nguyên vât liệu do đó nó
cũng tương tự nhu khoản vay ngắn hạn được đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vốn lưu động được sữ dụng để đáp ứng mức sản
xuất và nhu cầu tín dụng trong các thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh. Thông
thường các khoản vay vốn lưu động thường được bảo đảm bằng các khoản thu
hoặc được xác định bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ chịu lãi suất thả nổi trên
lượng tiền vay thực tế họ đã sử dụng. Khỏan lệ phí cam kết được tính theo phần
trăm của tồn bộ hạn mức. Ngân hàng cũng địi hỏi khách hàng phải có số dư bù
tiền gửi. Số dư bù tiền gửi bao gồm lượng tiền gửi bắt buộc xác định trên quy mơ
của hạn mức tín dụng.
Vay ngắn hạn các cơng trình xây dựng : một hình thức vay ngắn hạn có phổ
biến hiện nay là cho vay hỗ trợ các cơng trình nhà ở, các tịa nhà văn phịng, các
trung tâm thương mại các cơng trình khác. Mặc dù thời gian xây dựng cơng trình
cho vay kéo dài nhưng các khỏan cho vay chỉ mang tính chất tạm thời. Các khoản
vay này cấp vốn cho bên thi công để công nhân thuê thiết bị xây dựng mua vật liệu
xây dựng giải phóng mặt bằng. Khi đoạn xây dựng kết thúc bên thi công thường
vay thế chấp dài hạn để thanh toán cho các khoản vay ngắn hạn. Trong thực tế, chỉ
khi công ty xây dựng chắc chắn có một khoản cam kết vay dài hạn để tiếp tục dự
án thì ngân hàng mới cho phép được vay trong ngắn hạn.
Cho vay kinh doanh chứng khoán : những người kinh doanh chứng khốn
chính phủ và chứng khốn tư nhân cần sự hỗ trợ của ngân hàng để mua chứng
khốn mới và duy trì danh mục đầu tư chứng khốn hiện có cho tới khi chứng
khoán này được bán hoặc đến hạn thanh toán. Các ngân hàng lớn nhất thường sẵn
sàng cho vay đối với người kinh doanh chứng khốn. Vì những khoản vay này có
chất lượng cao thường được bảo đảm bằng chứng khốn chính phủ mà kinh doanh
mà nhà kinh doanh chứng khốn nắm giữ. Hơn nữa nhiều khoản vay chứng khốn
có kỳ hạn rất ngắn chỉ là khoản vay qua đêm hoặc vài ngày, nhờ vậy ngân hàng có
khả năng nhanh chóng thu hồi vốn hặc cho vay với khoản vay mới với lãi suất cao
hơn nếu lãi suất thị trường trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng ngân hàng khách thuộc lãi này là tổ chức cho vay đối
với các tỏ chức đầu tư, hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh và phát hành trái phiếu, cổ
phiếu công ty và giấy nợ của chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng khoán
thường diến ra khi ngan hàng tiến hành vào ki ngân hàng giúp đỡ công ty tiến hành
mua công ty, khi cơng ty phát hành chứng khốn, phát hành thêm cổ phiếu để tăng
quy mô vốn kinh doanh của doanh nghiệp thực hiện đầu tư kinh doanh mới. khi
ngân hàng bán chứng khoán mới cho các nhà đầu tư chứng khốn mới trên thị
trường thì các khoản vay cũng đựơc hòan trả.
Cho vay kinh doanh bán lẻ : các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc
cho vay trả góp xe máy trong đó đồ dùng gia đình nơi thất và các hàng hóa lâu bền
khác bằng cách tài trợ cho các khoản thu mà người bán những hàng hóa này sẽ
được thanh tốn sau khi họ ký hợp đồng bán hàng trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ
được ngân hàng của người bán lẻ xem xét. Nếu đáp ứng được các yêu cầu tín dụng
ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với một mức lãi suất hợp lý thay đổi tùy
theo chất lượng tín dụng của người vay vốn, chất lượng của vật thấp chấp và thời
hạn của mỗi khoản cho vay.
Đối với những khoản cho vay mô tô , ti vi, đồ nội thất và các hàng hóa lâu bên
khác ngân hàng có thể đồng ý tài trợ thông qua việc xác nhận tài trợ tồn bộ dự trữ
hàng tồn kho thơng qua việc xây dựng kế hoặch sàn.ngân hàng có thể đồng ý cấp
tín dụng cho người bán lẻ để người bán lẻ nhận hàng của các tổ chức sản xuất
chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết các khoản cho vay như vậy có kỳ hạn 90 ngày và
sau đó có thể được tái hạn với thời gian là môt tháng hoặc vài tháng. Để có được
khỏan tín dụng này người bán lẻ phải có hợp đồng đảm bảo an tồn cho phép ngân
hàng có quyền sở hữu hàng hóa trong trường hợp họ khơng thẻ thanh tốn được
khoản vay. Sau đó người sản xuất có thể chuyển hàng cho người bán lẻ và gửi hóa
đơn đến thanh tốn cho nhân viên ngân hàng. Định kỳ ngân hàng sẽ cử cán bộ tới
kiểm tra hàng trong kho của nguời bán lẻ để xác định lượng hàng hóa trong kho
của người bán lẻ để xác định lượng hàng đã bán và lượng hàng tồn kho. Sau khi
bán người bán sẽ gửi séc đến thanh toán cho khoản vay.
Cho vay trên tài sản : trong những năm gần đây, các khoản cho vay trên tài
sản là khỏan tín dụng được đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của các hãng, được
dự tính sẽ chuyển thành các khoản tiền mặt trong tương lai ngày càng chiếm tý
trọng lớn tropng tổng cho vay ngắn hạn. Tài sản đảm bảo cho các khoản vay bao
gồm các khoản phải thu, nguyên liệu vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Đối với
hầu hết các khoản vay dựa trên tài sản doanh nghiệp vẫn có quyền sở hữu trên tài
sản. Tuy nhiên đôi khi quyền sở hữu vẫn chuyển ra cho ngân hàng để hạn chế một
số rủi ro khi một số khoản nợ phải chuyển sang cho ngân hàng để hạn chế rủi ro
khi có một số khoản nợ khơng được thanh tốn như dự tính.
Các khoản cho vay dài hạn :
Cho vay kinh doanh kỳ hạn: các khỏan cho vay kỳ hạn thường đựơc dùng
để tài trợ cho hoạt động đầu tư trung và dài hạn thường kéo dài hơn một năm.
Như mua máy móc thiết bị hoặc xây dựng các cơng trình thường là các hãng
yêu cầu được vay một khoản trọng gói dựa trên chi phí của dự án đã đề xuất và
cam kết thanh tốn khoản vay thành nhiều lần.
Do đó các khoản vay kỳ hạn sẽ được thanh toán thành nhiều lần trên cơ sở
dịng thu nhập của hãng. Nhìn chung kế hoặch kinh doanh thanh toán được xây
dựng phù hợp với chu trình lưu chuyển tiền tệ của hãng. Tuy nhiên vẫn tồn tại
những điểm mù mà tại đó hãng thiếu tiền mặt thanh tốn. Một số thỏa thuận khơng
u cầu khách hàng trả tiền gốc trước đến khi hết hạn.
Thông thường các khoản vay được đảm bảo bẳng tài sản cố định thuộc sở
hữu của người vay có thể chịu lãi suất cố định hoặc thả nổi. do rủi ro lãi suất lớn,
lãi suất trong trường hợp này được cao hơn mức áp dụng với các khoản vay ngăn
hạn. Khả năng mất khả năng thanh toán hoặc khả năng xảy ra những bất lợi trong
hoạt động kinh doanh của người vay rõ ràng là cao hơn. Vì lý do này cán bộ tín
dụng và những nhà phân tích tín dụng phải chý ý đến một số yếu tố khác nhau
trong đơn xin cho vay vốn dài hạn.
Cho vay luân chuyển : một khoản vay luân chuyển cho phép khách hàng có
thể vay tới một mức tối đa xác định trước, hoàn trả toàn bộ hoặc một phần khoản
cho vay và tiếp tục như vây cho đến khi đến hết hạn.
Là một trong những khoản cho vay kinh doanh linh hoạt nhất yêu cầu tín
dụng linh họat được ngân hàng chấp nhận mà khơng địi hỏi bảo đảm bằng bất cứ
bằng tài sản đảm bảo nào. Có khoản cho vay như vậy có thể là ngắn hạn hoặc kéo
dài ba hoặc bốn năm. Loại hình tín dụng này khi khách hàng khơng chắc chắn về
thời gian của các luồng tiền mặt hoặc về quy mơ của việc vay vốn trong tương lai.
Tín dụng luân chuyển giúp hãng có giảm biến động trong quá trình kinh doanh khi
mà doanh số bán hàng giảm cho phép hồn trả khi nguồn thu của tín dụng tăng lên.
Ở nơi mà pháp luật quy định về việc ngân hàng phải chấp nhận mọi yêu cầu cho
vay vốn tron giới hạn của hạn mức tín dụng thì ngân hàng thường tính phí cam kết
trên phần tín dụng khơng sử dụng hoặc trên toàn bộ giá trị hợp đồng cho cam kết.
Cam kết vay vốn thường có ba loại loại phổ biến là cam kết vay vốn chính
thức là cam kết có tính chất hợp đồng trong đó ngân hàng đảm bảo sẽ cho khách
hàng vay với mức vốn tối đa xác định trước với lãi suất thả nổi. Đối với loại cam
kết này ngân hàng có thể khơng thực hiện nghĩa vụ này nếu tình hình tài chính của
người cho vay có những tổn hại nghiêm trọng hoặc người đi vay không thực hiện
các điều khỏan trong hợp đồng. loại thứ hai ít chặt chẽ hơn đó là hạn mức tín dụng
là hạn mức tín dụng đảm bảo theo đó ngân hàng có thể cho khách hàng vay trong
trường hợp khẩn cấp. Mặc dù lãi suất không được ấn định trước và có ít khách
hàng lựa chọn phương thức vay vốn này nhưng họ vẫn ký kết hợp đồng như một
tài sản đảm bảo để vay vốn từ những người khác. Ngân hàng chỉ dành tín dụng nới
lỏng cho những tổ chức có uy tín cao nhất và thường định giá thấp hơn nhiều so
với cam kết cho vay chính thức. Cam kết này cho phép khách hàng nhận được tiền
vay đây là một điểm quan trọng nếu như khách hàng muốn vay từ tổ chức tín dung
khác.
Cho vay dự án dài hạn : loại hình cho vay kinh doanh có mức độ rủi ro cao
nhất là cho vay dự án. Đây là khoản tín dụng tài trợ cho việc xây dựng các tài sản
cố định được dự tính mang lại thu nhập trong tương lai. Một số ví dụ đáng chú ý
bao gồm xây dựng nhà máy lọc dầu lắp đặt đường ống dẫn dầu xây dựng lắp đặt
nhà máy năng lượng các phương tiện bốc dở tại cảng hàng. Có rất nhiều rủi ro quy
mơ lớn ảnh hưởng đến các dự án : quy mô lớn, các dự án có thể bị hỗn lại do
khơng đủ vật liệu xây dựng hoặc là do thời tiết. các quy định tại các vùng quốc gia
nơi tiến hành xây dựng có thể tiến hành theo chiều hướng tiêu cực gây ảnh hưởng
tới khả năng hòan thiện và làm tăng chi phí của dự án.lãi suất có thể tăng làm bất
lợi cho việc thu hồi vốn của người cho vay hoặc gây ra khả năng biến động bất lợi
tới khả năng trả nợ của dự án. Với những dự án lớn các khoản vay thường được
cung cấp chung cho một số công ty tham gia dự án đồng thời do quy mô và mức độ
rủi ro không nhỏ nên việc cho vay dự án lớn đòi hỏi sự tham gia của một vài tỏ
chức tài chính.
Các khoản cho vay dự án có thể được chấp nhận dựa trên cơ sở bảo lãnh theo
đó người cho vay có thể khơng phục vốn từ những tổ chức thực hiện bảo lãnh nếu
dự án không trả được nợ đúng theo kế hoạch đã định. Tuy nhiên khảo vay cũng có
thể được cung cấp khơng dự trên cơ sở bảo lãnh, khơng có người đứng bảo đảm;
dự án tồn tại hay sụp đổ dựa trên giá trị của nó. Trong trường hợp này người cho
vay phải đối mặt với những rủi ro rất lớn và họ sẽ yêu cầu một mức lãi suất cao
hơn những khoản cho vay có tài sản đảm bảo. Đối với khoản vay như vậy ngân
hàng thường đòi hỏi tổ chức tài trợ dự án phải thế chấp tài sản cho đến khi hồn
tất.
1.2 Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh mức độ rủi ro trong bảng tổng
hợp cho vay của một tổ chức tín dụng. Để phản ánh về chất lượng tín dụng, có rất
nhiều chỉ tiêu, nhưng nói chung người ta thường quan tâm: tỷ lệ nợ xấu trên tổng
dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo. Ngoài ra, để đánh giá định tính về chất
lượng tín dụng, người ta cịn quan tâm đến: Cơ cấu dư nợ các khoản vay ngắn - dài
hạn trong tương quan cơ cấu nguồn vốn của tổ chức tín dụng, dư nợ cho vay các
lĩnh vực rủi ro cao tại thời điểm đó: bất động sản, cổ phiếu
Tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng đồng thời
cũng mang lại rủi ro lớn nhất cho hoạt động của NHTM. Để hạn chế rủi ro, giảm
bớt thiệt hại ,nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh các NHTM thường đăt ra
yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Dịch vụ ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn, tiền tệ,
thanh toán,… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu kinh
doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản,… và ngân hàng thu chênh lệch
lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. Trong xu hướng phát triển ngân
hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị
dịch vụ, một bách hố tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác
nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát triển của ngân hàng. Sản
phẩn tín dụng trước hết cũng là mơt sản phẩm dịch vụ vì vậy khi xem xét nó cần
đưa ra một số chỉ tiêu định tính và định lượng . Qua nghiên cứu thực tiễn, thì việc
xem đánh giá chất lượng tín dụng được xem xét trên một số giác độ sau :
- Quan trọng nhất là sự thoả mãn sự hài lòng của khách hàng. Dịch vụ ngân
hàng do ngân hàng cung ứng là để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu như chất
lượng của dịch vụ ngày càng hồn hảo, có chất lượng cao thì khách hàng sẽ gắn bó
lâu dài và chấp nhận ngân hàng. Không những vậy, những lời khen, sự chấp nhận,
thoả mãn về chất lượng của khách hàng hiện hữu họ sẽ thông tin tới những người
khác có nhu cầu dịch vụ tìm đến ngân hàng để giao dịch. Đây cũng là một khía
cạnh để đánh giá.
- Họat động tín dụng là một họat động sinh lợi lớn của các ngân hàng nhưng
bên cạnh đó nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro do đó việc đưa ra quy trình chặt chẽ ,
xây dựng một sản phẩm tín dụng hồn hảo có ý nghĩa hết sức quan trọng Chất
lượng dịch vụ của ngân hàng ngày càng hoàn hảo, giảm các sai sót trong giao dịch
của ngân hàng với khách hàng, giảm thiểu những lời phàn nàn và khiếu kiện, khiếu
nại của khách hàng đối với ngân hàng. Bên cạnh đó là những rủi ro trong kinh
doanh dịch vụ của ngân hàng này càng giảm thiểu và đến mức khơng cịn rủi ro
đây cũng là cơ sở để họat động kinh doanh đẩm bảo được tính sinh lời cao.
-
Bên cạnh đó đứng trên góc độ kinh tế xã hội thì hoạt động tín dụng cịn
được đánh giá dựa trên nó đem lại bao nhiêu lợi ích cho xã hội,có thoả mãn được
tiêu thức phát triển nhanh và bền vững khơng,có tn thủ luật pháp khơng và nó
đóng góp vào bao nhiêu phần trăm trong tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
Nêu lên các chỉ tiêu như vậy để định hướng các giải pháp để đưa ra các chỉ
tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.từ đó để đưa ra các biện pháp đảm bảo chất
lượng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng cung cấp cho
khách hàng.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu định tính
Đây là các chỉ tiêu phản ánh sự thoả mãn sự hài lòng của khách hàng. Dịch vụ
ngân hàng do ngân hàng cung ứng là để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Đồng thời đây là các chỉ tiêu phản ánh sự tiện lợi hay hoàn thiện của các sản
phẩm tín dụng của ngân hàng
Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện qua các chỉ tiêu
- Quy trình thủ tục: quy trình thủ tục phản ánh sự thuận tiện của dịch vụ đối với
khách hàng. Các doanh nghiệp có nhu cầu đều có thể tiếp cận với nguồn tín dụng
này với nhiều hình thức vay vốn để lựa chọn, chi phí vốn hợp lý, thủ tục vay vốn
nhanh chóng thuận tiện, được tư vấn, hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo và chuyên
nghiệp là biểu hiện của một quy trình thủ tục hồn hảo để tiếp cận khách hàng.
- Khả năng đáp ứng các nhu cầu vay vốn đa dạng như khách hàng có thể dễ dàng
vay vốn để đầu tư mua sắm, xây dựng các TSCĐ mới; đầu tư sửa chữa, hoán đổi,
nâng cấp các TSCĐ hiện có; thực hiện các hình thức thanh toán trong nước và
quốc tế liên quan đến các hoạt động trên và các nhu cầu cần thiết khác hoặc khách
hàng có thể dễ dàng vay vốn để bổ xung vốn lưu động nhằm phục vụ cho các hoạt
động: mua hàng hoá, nguyên vật liệu, phụ liệu, nhiên liệu, linh kiện…; thanh tốn
các khoản chi phí như tiền thuế, tiền điện, tiền lương nhân cơng…; thực hiện các
hình thức thanh toán trong nước và quốc tế liên quan của khách hàng. Đồng thời
với sự đa dang hóa ngân hàng cũng phải đảm bảo sàng lọc đối tượng để đảm bảo
an toàn cho ngân hà
-
Điều kiện vay vốn : điều kiện vay vốn của ngân hàng bao gồm : năng lực pháp
luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của
Pháp luật. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. khả năng tài chính đảm bảo trả nợ
(gốc và lãi) cho Ngân hàng trong thời hạn cam kết. dự án đầu tư, phương án sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án
phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi phù hợp với quy định
của pháp luật. Thực hiện đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ,
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và của bản thân ngân hàng. Điều
kiện vay vốn của ngân hàng vừa phản ánh khả năng quản lý rủi ro của ngân hàng
đồi thời cũng phải đảm bảo tính phù hợp của những điều kiện để khách hàng tham
gia. Tài sản đảm bảo vừa đảm bảo tính cần thiết nhưng cũng không quá khắt khe
kiến cho khách hàng khó đáp ứng được
- Khả năng cung ứng vốn của ngân hàng thương mại đẩy đủ kịp thời đáp ứng
nhu cầu vốn cho khách hàng : không gây sự chậm trễ ách tắc về vốn gây ảnh
hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng. Chi phí sử dụng vốn hợp
lí và chất lượng ngiệp vụ tín dụng tốt. Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động
vốn từ thị trường trong nước, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tài trợ
của các tổ chức quốc tế cho doanh nghiệp tích cực xử lý nợ tồn đọng để tăng khả
năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng của nền kinh tế, trên cơ sở đảm
bảo an tồn và hiệu quả tín dụng.
- Khả năng cung ứng gói dịch vụ đồng bộ : bên cạnh vốn thì các hỗ trợ khác
cũng đóng vai trị quan trọng khác như dịch vụ thanh tốn, dịch vụ thẻ, mở tài
khoản
- Khả năng đảm bảo mục tiêu và tính an tồn cũng như khả năng thẩm định
dự án chính xác : Hoạt động tín dụng của ngân hàng phải đảm bảo mục tiêu định
hướng của ngân hàng trong ngắn hạn cũa như dài hạn bên cạnh đó cũng đáp ứng
khả năng hồn trả đúng hạn gốc và lãi của người vay. Ngoài ra khả năng thẩm định
dự án cũng là một tiêu chí quan trọng, khả năng thẩm định không chỉ giúp ngân
hàng hoạt động kinh doanh được an tồn mà cịn giúp cho doanh nghiệp chọn lọc
dự án kinh doanh có hiệu quả.
1.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng
Nhóm các chỉ tiêu định lượng là bao gồm một hệ thống các chỉ tiêu được uớc
lượng cụ thể. Các chỉ tiêu này được phân thành hai loại là nhóm các chỉ tiêu đảm
bảo tính an tồn của hoạt động tín dụng và nhóm các chỉ tiêu phản ánh họat động
tính sinh lời của hoạt động tín dụng.
- Tỷ lệ nợ quá hạn : “Nợ quá hạn" là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ
gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Nợ quá hạn được phân chia như sau:
Nợ quá hạn có tài sản đảm bảo: Là khoản nợ khi cho vay người đi vay là
doanh nghiệp phải thế chấp tài sản cho ngân hàng, theo pháp luật, ngân hàng có
quyền phát mãi tài sản để thu nợ, do vậy, nợ quá hạn này tuy chưa thu được nhưng
ngân hàng thương mại vẫn có khả năng thu hồi của doanh nghiệp tốt thì cũng có
khả năng thu hồi nợ.
Nợ q hạn khơng có tài sản đảm bảo: Là khoản nợ khi cho vay, ngân hàng
không yêu cầu người vay phải thế chấp tài sản. Loại nợ này, con nợ là doanh
nghiệp vay vốn vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh nếu tình hình tài chính
Nợ q hạn là nợ khó địi (hay cịn gọi là nợ xấu): Loại nợ này xảy ra và tồn
đọng ở những doanh nghiệp vay vốn có tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và
tình hình tài chính yếu kém, biểu hiện là sản xuất kinh doanh bị lỗ, nợ phải trả
tăng, doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn hồn tồn. Thời hạn nợ tồn đọng khá
lâu, có thể kéo dài trên một năm, 2 – 3 năm hoặc lâu hơn nữa và rất khó giải quyết.
Tỷ lệ nợ quá hạn được xác định bằng tỷ lệ của nợ quá hạn và tổng dư nợ tín
dụng. Đây là tỷ lệ phản ánh cho biết có bao nhiêu nợ quá hạn trong một đồng vốn
cho vay. Tỷ lệ này thấp thì nó phản ánh được chất lượng tín dụng càng cao của
ngân hàng . Nếu tỷ lệ này quá cao thì bản thân ngân hàng sẽ có thể phải đối mặt
với kiểm soát chặt chẽ từ ngân hàng trung ương thông quan việc buộc ngân hàng
phải tăng dữ trữ bắt buộc,làm giảm khả năng thanh khoản, và có thể đe doạ đén
khả năng phá sản của ngân hàng .
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
100%
Tổng dư nợ
Đề thực hiện việc quản lý nợ quá hạn một cách dễ dang ngân hàng nhàn nước
ban hành quyết định 493/2005/ QĐ –NHNN về phân loại nợ của tổ chức tín dụng.
Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín
dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn;
Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu
lại tối thiểu trong vòng một (01) năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba
(03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại, tổ
chức tín dụng có thể phân loại lại khoản nợ đó vào nhóm 1.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; Các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại. Ngoài
ra trong trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với tổ chức tín
dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín
dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ cịn lại của khách hàng đó vào các
nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Trường hợp các khoản nợ
(kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn
theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả
năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì tổ chức tín dụng chủ động tự quyết
định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức
độ rủi ro.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến
180 ngày;Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại;
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại;
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:Các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày. Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời
hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại;
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ : Nợ xấu" (NPL) là các khoản nợ : Các khoản
nợ quá hạn trên 90 ;Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn đang trong
thời gian quá hạn của ky hạn được cơ câu lại; Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ
để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao thì chứng tỏ ngân hàng hoạt đọng kém hiệu quả và
ngược lại . Một khi khách hàng không thực hiện đúng hợp đồng tín dụng, để xuất
hiện nợ q hạn có nghĩa là chất lượng khoản tín dụng đó có vấn đề, xảy ra nguy
cơ có khả năng mất vốn . Tỷ lệ nợ xấu phụ thuộc vào phương thức hoạt động của
ngân hàng.
Nhóm nợ xấu là nợ quá hạn mang lại nhiều rủi ro cao cho ngân hàng .Do đó
tỷ lệ nợ xấu cũng là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng .Các
khoản nợ xấu thuộc nhóm 3 đến 5
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
* 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu cho biết trong một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ xấu, hay nợ
xấu chiếm bao nhiêu phần trăm tổng dư nợ .Chỉ tiêu này càng thấp thì ngân hàng
có nợ xấu càng it điều này chứng tỏ ngân hàng hoạt động lành mạnh.
Vòng quay vốn tín dụng : Để đặc trưng cho khả năng họat động của tín dụng
người ta đưa ra chỉ tiêu vịng quay vốn tín dụng. Đây là chỉ tiêu cho biết một đơn
vị vốn sẽ được sẽ được sử dụng bao nhiêu lần. Tỷ số này càng cao thì khả năng sử
dụng vốn càng hiệu quả :
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
* 100%
Mức dư nợ bình qn
Dư nợ đầu kỳ + Dư nợ cuối kỳ
Dư nợ bình qn
=
* 100%
2
Vịng quay vốn tín dụng càng cao, tốc độ luân chuyển vốn càng nhanh chứng
tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao . Vòng quay vốn trong từng thời kỳ khác nhau sẽ
khác nhau chính vì vậy trong chính sách tín dụng cần phải đưa ra các giải pháp phù
hợp để sử dụng hiệu quả vốn trong từng thời kỳ.
Chi phí dự phịng/ Tổng dư nợ
Dự phịng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phịng cho những tổn thất
có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng khơng thực hiện hoặc khơng có
khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. dự phịng rủi ro được hạch
tốn theo dư nợ gốc và hạch tốn vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng .
Theo đó thì dự phịng được chia làm hai loại :
Dự phòng chung : Là khoản tiền được trích lập để dự phịng cho những tổn thất
chưa xác định trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phịng cụ thể
Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phịng chung bằng 0,75 %
tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 sau đây:
Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo quy định của
pháp luật; cá nhân bị chết hoặc mất tích.
Các khoản nợ thuộc nhóm 5. Riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử
lý, tổ chức tín dụng được sử dụng dự phịng (nếu có) để xử lý rủi ro tín dụng
Dự phịng cụ thể : Là khoản tiền được trích lập trên cơ sở đã phân loại cụ thể
các khoản nợ quy định tại điều 6 để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra. Số
tiền
dự
phịng cụ
thể
phải
trích được tính theo
cơng thức
sau:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó:
R: số tiền dự phịng cụ thể phải trích
A: giá trị của khoản nợ.
C: giá trị của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phịng cụ thể
Giá trị của tài sản bảo đảm (C) được xác định trên cơ sở tích số giữa tỷ lệ áp
dụng được quy định : Giá trị thị trường của vàng; Mệnh giá của trái phiếu Chính
phủ, tín phiếu Kho bạc, và các loại giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng; Giá trị
thị trường của chứng khốn của doanh nghiệp và của tổ chức tín dụng khác; Giá trị
của tài sản bảo đảm là động sản, bất động sản và các tài sản bảo đảm khác ghi trên
hợp đồng bảo đảm, hợp đồng cho thuê tài chính. Tỷ lệ tối đa áp dụng để xác định
giá trị của tài sản bảo đảm quy định phù hợp với mức độ rủi to của tài sản chẳng
hạn như chứng chỉ tiền gửi là 100%, đối với các bất động sản là 70%
Tỷ lệ trích lập dự phịng cụ thể :
Nhóm 1 :
0%
Nhóm 2 :
5%
Nhóm 3 :
20%
Nhóm 4 :
50%
Nhóm 5 :
100%
Riêng các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lí được trích lập dự phịng theo
khả năng tài chính của tổ chúc tín dụng
Các ngân hàng thương mại thực hiện việc sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro
tín dụng một quý một lần. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo những
nguyên tắc sau:
Sử dụng dự phòng cụ thể xử lý rủi ro tín dụng đối với khoản nợ đó.
Phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ: Tổ chức tín dụng phải khẩn trương tiến
hành việc phát mại tài sản bảo đảm theo thoả thuận với khách hàng và theo quy
định của pháp luật để thu hồi nợ. Trường hợp phát mại tài sản không đủ bù đắp cho
rủi ro tín dụng của khoản nợ thì được sử dụng dự phịng chung để xử lý đủ.
Tỷ số chi phí dự phịng trên tổng dư nợ phản ánh phần chi phí trên một đồng
vốn cho vay. Tỷ lệ này càng cao tức là ngân hàng nợ xấu của ngân hàng cao
Chất lượng tín dụng giảm . Đây cũng là chỉ tiêu phản ánh khả năng chống đỡ
của ngân hàng trước rủi ro tín dụng. Để chỉ tiêu này được chính xác thì các tổ chức
tín dụng phải thực hiện tốt việc phân loại nợ để trích lập dự phòng đầy đủ
- Hệ số sử dụng vốn vay:
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn huy động. Chỉ tiêu này cho
biết một đồng vốn huy động sẽ được sữ dụng bao nhiều lần để cho vay :
Tổng dư nợ
Hệ số sử dụng vốn vay =
* 100%
Tổng nguồn huy động
Hệ số này càng lớn nó phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn vốn của ngân hàng
càng cao và ngược lại .
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Để đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng người ta đưa ra một số chỉ tiêu
để đánh giá như sau :
Lợi nhuận từ
Hoạt động tín dụng
Doanh thu từ
=
hoạt động tín dụng
Chi phí hoạt
_
động tín dụng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu =
Doanh thu từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận từ nghiệp vụ tín dụng
Hệ số sinh lãi trên 1 đồng vốn =
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ phản ánh số dư của hoạt động tín dụng tại một thời điểm là bao
nhiêu. Chỉ tiêu này hàng năm được các ngân hàng đặt ra để phù hợp với kế hoặch
kinh doanh của mình. Đây cũng là một chỉ tiêu mà ngân hàng nhà nước dùng để
khống chế trong chính sách tiền tệ quốc gia. Chỉ tiêu hàng năm phản ánh khả
năng mở rộng tín dụng của ngân hàng,ngân hàng đã thành công trong việc thu hút
khách hàng
Dư nợ bình qn
Tổng dư nợ
Một cán bộ tín dụng =
Số cán bộ tín dụng
Dư nợ bình quân
Một khách hàng
Tổng dư nợ
=
Số khách hàng
Dư nợ bình qn một cán bộ tín dụng cho biết trung bình một cán bộ tín dụng
phải giải ngân bao nhiêu .tỷ số này phải được điều chỉnh một cách phù hợp với tình
hình kinh tế trên từng địa bàn vừa để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng vừa
không quá cao dẫn đến không thể thực hiện được q trình sàng lọc trong tín dụng.
Dư nợ bình qn một khách hàng cho biết trung bình một khách hàng có
quan hệ tín dụng với ngân hàng có số dư nợ là bao nhiêu. Tỷ số này phải phù hợp
với các quy định của pháp luật hiện hành.
1.2.3.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng
1.2.3.1 Nhóm nhân tố khách quan
- Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có tác động rất lớn đến chất lượng hoạt đơng tín dụng của
ngân hàng. Mơi trường kinh doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên ngoài tác động
đến họat động tín dụng của ngân hàng, mơi trường kinh doanh có tác động mạnh
mẽ đến mọi họat động của ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng. Hoạt động
tín dụng của ngân hàng ln diễn ra trong một bối cảnh kinh tế cụ thể như tốc độ
tăng trưởng hay suy thoái kinh tế, mức độ ổn định của đồng tiền, của tỷ giá hối
đoái các chỉ số chứng khoán trên thị trường, lãi suất vay vốn tỷ suất đầu tư.. mỗi sự
thay đổi của các yếu tố trên đều có tác động tích cực hay tiêu cực đến họat động
kinh doanh và theo đó tình hình của hoạt đơng tín dụng của ngân hàng cúng biến
đổi theo. Vì vây nhà quản trị phải biết phân tích và dự đoán xu hướng phát triển
của để điều chỉnh mục tiêu của tín dụng cho phù hợp.
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển lành mạnh, các chủ thể tham gia vào
nền kinh tế hoạt động có hiệu quả kéo theo chất lượng hoạt động tín dụng cũng
được nâng lên .
Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là tổng hòa các quy định của pháp luật liên quan đến
họat động của ngân hàng. Họat động kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
nhiều thành phần, các họat động tín dụng vừa phải chịu sự chi phối điều chỉnh bởi
các quy chế pháp luật chung của các doanh nghiệp vừa phải chịu sự chi phối riêng
của các tổ chức tín dụng. Một mơi trường tín dụng đồng bộ, ổn đinh thơng thống
vừa tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh thuận lợi, vừa đảm bảo cho các tổ
chức tín dụng họat động hiệu quả an tồn từ đó nâng cao được chất luợng tín dụng
của bản thân. Ngược lại sẽ gây khó khăn, thậm chí cịn gây cản trở hạn chế cho
họat động tín dụng.
Khoa học cơng nghệ
Ngày nay khoa học kĩ thuật đang trở thành lực lượng chủ yếu thúc đầy sự phát
triển. Hàm lượng khoa học kĩ thuật có khuynh hướng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn
trong các sản phẩm dịch vụ. Tổ chức tín dụng nào nắm bắt và áp dụng kịp thời các
thành tựu khoa học kĩ thuật sẽ có điều kiện và lợi thế trong cạnh tranh và nâng cao
chất lượng tín dụng. Để đổi mới cơng nghệ điều này vừa địi hỏi ngân hàng phải bỏ
ra chi phí lớn đồng thời phải có các biện pháp tiếp cận và ứng dụng công nghệ cho
phù hợp với sự phát triển với sự đa dang trong hoạt động kinh doanh
Môi trường tự nhiên
Thiên tai, hạn hán, lũ lụt,… sẽ ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh sản xuất của
khách hàng từ đó nó sẽ tác động tới chất lượng của các khoản cho vay.
Mơi trường chính trị xã hội
Mơi trường chính trị gây khơng ít khó khăn cho các nhà hoạt động tín dụng.
Những rủi ro về chính trị có thể khơng lường trước được, những quy định về pháp