Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT Ở NHNO VÀ PTNT HÀ TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.5 KB, 32 trang )

THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT Ở NHNO VÀ PTNT HÀ
TĨNH
1. Kết quả cho vay trực tiếp tới hộ sản xuất của NHNo&PTNT Hà Tĩnh
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và nhà nước đã có nhiều
chủ trương, chính sách để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt, chính sách
cho vay hộ sản xuất đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và nhận thức
của người dân, góp phần xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, giảm dần
từng bước khoảng cách giữa các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa với
khu vực đồng bằng, thành thị, vùng công nghiệp tập trung.
Để thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước tại địa phương, NHNo
Hà Tĩnh đã mạnh dạn đầu tư cho vay trực tiếp tới hộ. Sau gần 20 năm, tín dụng
Ngân hàng đã thực sự góp phần đổi mới đời sống kinh tế - xã hội tại địa phương,
tạo sự chuyển biến tích cực về kinh tế: Từ sản xuất mang tính tự cung, tự cấp sang
sản xuất hàng hoá; từ xản xuất nông nghiệp chủ yếu trồng lúa sang kết hợp với
trồng cây công nghiệp có giá trị cao; khôi phục và phát triển các làng nghề truyền
thống; khai thác tối đa nguồn tài nguyên và nhân lực mọi vùng kinh tế, đời sống
của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.
1.1. Giai đoạn 1991 – 1998
Bảng 7: Kết quả cho vay một số ngành nghề sản xuất
của NHNo&PTNT Hà Tĩnh giai đoạn 1991 -1998
Loại hình sản xuất Số lượt hộ Doanh số cho vay (tỷ đồng)
Nông, lâm, ngư, diêm nghiệp 426.019 1.028
Thủ công nghiệp 21.749 48
Thuỷ hải sản 39.474 92
Thương mại, dịch vụ 35.596 50
Cho vay đời sống 12.217 19
Ngành nghề khác 70.021 235
Nhờ xác định hướng đầu tư là tập trung cho vay trực tiếp hộ nên từ năm 1991
đến hết năm 1998 Ngân hàng đã cho 605.076 lượt khách hàng vay vốn với doanh số
cho vay 1.473 tỷ đồng. Doanh số thu nợ 1.247 tỷ đồng. Số hộ dư nợ đến ngày 31 – 12
– 1998 là 82 ngàn hộ, với dư nợ 228 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 70% trong tổng dư nợ.


Cho vay hộ sản xuất đã đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn để sản xuất,
kinh doanh và đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp. Việc khôi phục và
phát triển các ngành nghề truyền thống cũng được chú trọng, nhất là các ngành
nghề như: mộc Thái Yên (Đức Thọ). rèn Trung Lương (Hồng Lĩnh), sản xuất gạch
ngói và vật liệu xây dựng…
Để có nguồn vốn đầu tư cho kinh tế hộ, NHNo Hà Tĩnh đã tích cực tìm mọi
giải pháp để huy động vốn trên địa bàn, ngoài ra còn khai thác tối đa các nguồn tài
trợ uỷ thác đầu tư.
Hiệu quả đồng vốn tín dụng Ngân hàng thể hiện trên các mặt kinh tế - xã hội:
- Vốn NHNo&PTNT đã khắc phục dần tình trạng vay nặng lãi, bán lúa non ở
nông dân, tạo việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, góp phần xoá đói, giảm
nghèo.
- Thông qua sinh hoạt của các tổ vay vốn đã củng cố khối đoàn kết giúp đỡ
nhau trong cộng đồng, gắn bó hơn tình làng, nghĩa xóm, ổn định tình hình trật tự,
trị an trong thôn xóm, góp phần xây dựng nông thôn mới.
- Khai thác tối đa tiềm năng đất đai và lao động trên địa bàn. Chuyển dịch cơ
cấu cây trồng, vât nuôi. Từ sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa chuyển sang
các cây có giá trị kinh tế cao như: lạc, đậu, mía, chè, cam, bưởi… hình thành nên
những vùng trồng cây ăn quả tập trung như: cam bù Hương Sơn, Bưởi Phúc Trạch
Hương Khê…
- Cho vay hộ sản xuất đã đầu tư đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào nông
nghiệp như: chương trình lai sin hoá đàn bò, nạc hoá đàn lợn… Sản phẩm nông
nghiệp không chỉ tiêu thụ ở thị trường trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài
và được khách hàng quốc tế ưa thích. Kinh tế trên địa bàn tăng trưởng nhanh, thu
nhập của người dân ngày càng được nâng cao, đời sống được cải thiện từng bước.
- Người dân đã quen với sản xuất hàng hoá, biết tính toán hiệu quả kinh tế, có
ý thức tiết kiệm chi tiêu, tích luỹ cho mở rộng đầu tư sản xuất, làm giàu cho gia
đình và góp phần làm giàu cho xã hội.
1.2. Giai đoạn 1999 – 2004
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, nhu cầu về vốn cho các chương trình

như cải tạo vườn tạp; trồng cây lâu năm, cây ăn quả, cây lấy gỗ; cho vay mua các
máy móc, thiết bị, phương tiện sản xuất như: máy cày, máy bừa, máy tuốt lúa, công
nông… tăng cao nên tỷ trọng dư nợ trung hạn giai đoạn này lớn hơn nợ ngắn hạn.
Quyết định 67/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về một số chính
sách tín dung Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn” ra đời tạo
điều kiện thuận lợi cho cả khách hàng và Ngân hàng trong việc đi vay và cho vay
hộ sản xuất. Để thực hiện hiệu quả QĐ, NHNo Việt Nam đã cùng Trung ương Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ ký kết các thông tư liên tịch số 2308, 02 cùng
phối hợp để tạo mạng lưới chuyển tải vốn đến thị trường Nông nghiệp, nông thôn,
từng bước xã hội hoá công tác Ngân hàng. Riêng trong năm 2000 đã thành lập,
củng cố hơn 7000 tổ vay vốn thông qua các tổ chức Hội Phụ nữ, Hội Nông dân.
Từ năm 1999 đến năm 2004 đã cho vay 583.98 lượt hộ vay với doanh số cho
vay 4.542 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 70% doanh số cho vay của chi nhánh. Doanh số thu
nợ 3.529 tỷ đồng, trong đó cho vay qua tổ 2.060 tỷ đồng với hơn 250 ngàn lượt hộ.
Bảng 8: Kết quả cho vay môt số ngành nghề sản xuất
của NHNo&PTNT Hà Tĩnh giai đoan 1999 – 2004
Loại hình sản xuất Số lượt hộ Doanh số cho vay (tỷ đồng)
Nông, lâm, ngư, diêm nghiệp 355.264 2.967
Thủ công nghiệp 25.406 568
Thuỷ hải sản 21.365 581
Thương mại, dịch vụ 49.851 823
Cho vay đời sống 39.368 962
Ngành nghề khác 92.244 1.359
Vốn của Ngân hàng đã góp phần cải tạo được hàng ngàn ha vườn tạp để trồng
cây ăn quả, cây lấy gỗ (Kỳ Anh, Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ), cải tạo và xây
dựng mới 7.500 ha ao hồ đầm để nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu (Kỳ Anh, Nghi
Xuân, Thạch Hà, Cẩm Xuyên), hình thành nên những vùng sản xuất tập trung, phát
triển mạnh kinh tế hàng hoá trên địa bàn tỉnh.
Ngoài ra, NHNo Hà Tĩnh còn tiến hành khảo sát, phân loại 1.200 trang trại,
thiết lập quan hệ tín dụng với các trang trại nhằm khai khai thác tốt hơn tiềm năng

kinh tế vườn; rừng.
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, nhu cầu vay vốn để đầu tư ứng dụng
các tiến bộ công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng. Mức vay vốn tăng
dần lên theo từng thời kỳ, phù hợp với nhu cầu về đầu tư sản xuất. Từ bình quân
0,4 triệu/lượt hộ năm 1991 tăng lên 4 triệu/lượt hộ năm 1995, năm 2000 bình quân
5 triệu/lượt hộ và năm 2004 lên tới 9 triệu/lượt hộ vay. Cho vay sản xuất nông
nghiệp chủ yếu chủ yếu tập trung: cải tạo vườn tạp, trồng các loại cây công nghiệp
có giá trị cao …Cho vay ngành thuỷ hải sản chủ yếu tập trung xây dựng , cải tạo
các ao đầm nuôi thuỷ sản xuất khẩu. Chỉ tính riêng năm 2003, nhằm đổi mới công
nghệ, kỹ thuật đối với đối với sản xuất nông nghiệp, NHNo Hà Tĩnh đã cho vay
308 dự án trung hạn; trong đó có 35 dự án đánh bắt, 41 dự án nuôi trồng thuỷ sản,
93 dự án nuôi hươu, 78 dự án nuôi trâu bò, 61 dự án khôi phục và phát triển làng
nghề, cho 27 ngàn hộ vay nhập giống ngô lai mới năng suất cao…
Cùng với việc mở rộng cho vay hộ cả quy mô và chiều sâu NHNo Hà Tĩnh đã
mở rộng cho vay nhu cầu đời sống đối với cá nhân, hộ gia đình, cho vay hợp tác
lao động nước ngoài, nhất là các thị trường như: Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan…
Tính đến cuối năm 2004, dư nợ cho vay đời sống lên tới 263 tỷ đồng với 18.935
khách hàng vay; dư nợ cho vay đi xuất khẩu lao động 36 tỷ, số khách hàng vay
gồm 2.585 hộ.
Bên cạnh cho hộ sản xuất vay kinh doanh, tiêu dùng… NHNo đã thực hiện cho
vay xoá đói giảm nghèo có hiệu quả. Tính đến cuối năm 2002 đã cho vay 266 tỷ đồng
xoá đói giảm nghèo với hơn 145 ngàn lượt hộ, góp phần giảm tỷ lệ hộ đói nghèo.
Cho vay hộ sản xuất kinh doanh đã thực sự góp phần đổi mới nhiều mặt đời
sống kinh tế xã hội trong toàn tỉnh:
- Sản lượng lương thực tăng nhanh. Bộ mặt nông thôn khang trang hơn, đời
sống vật chất tinh thần của người dân được nâng cao.
- Cải tạo, trồng mới được trên 3.000 ha cây ăn quả: Bưởi Phúc Trạch (Hương
Khê), cam bù (Hương Sơn)…
- Phát triển mạnh chăn nuôi đàn hươu, trâu, bò, lợn. dê…
- Từng bước khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống; ngoài ra

còn phát triển thêm các ngành nghề mới, đặc biệt trong lĩnh vực chế biến sản phẩm
nông nghiệp.
- Thương mại dịch vụ phát triển, đặc biệt là du lịch biển tại các khu du lịch:
Thiên Cầm, Thạch Hải, Xuân Thành…
1.3. Giai đoạn 2005 – 2008
Sau 15 năm thực hiện cho vay hộ sản xuất, NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã rút ra
được nhiều bài học kinh nghiệm thiết thực. Vì vậy, công tác cho vay hộ giai đoạn
này đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận:
- NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã xác định đúng chiến lược kinh doanh, chiến lược
khách hàng, xây dựng chiến lược thị phần và thị trường thích hợp, với phương
châm: lấy nông nghiệp, nông thôn làm thị trường chủ yếu với khách hàng tiềm
năng, khách hàng chính là hộ sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở khai thác các thế
mạnh về mạng lưới hoạt động, Ngân hàng đã bố trí cơ cấu đầu tư hợp lý, đáp ứng
kịp thời nhu cầu vay vốn của các hộ sản xuất kinh doanh.
- Ngân hàng thường xuyên bám sát các chương trình kinh tế địa phương như:
chương trình chăn nuôi bò, chương trình nuôi trồng thuỷ sản, chương trình phát triển
doanh nghiệp, chương trình xuất khẩu lao động… để tập trung ưu tiên nguồn vốn cho
vay thuận lợi, kịp thời, giúp các hộ thực hiện mục tiêu sản xuất, kinh doanh hiệu quả.
- Thường xuyên cải tiến biện pháp tổ chức cho vay, cải tiến thủ tục bộ hồ sơ
cho vay đúng quy chế, đồng thời tạo thuận lợi cho các hộ vay vốn được tiếp cận
nguồn vốn tín dụng một cách kịp thời nhất.
- Tiếp tục phối hợp với Hội Nông dân và Hội Phu nữ để củng cố mạng lưới tổ
vay vốn, nâng cao chất lượng hoạt động tổ, lồng ghép ngày càng nhiều chương
trình hoạt động của các tổ chức Hội với hoạt động của Ngân hàng, góp phần thực
hiện xã hội hoá nhanh hoạt động Ngân hàng.
- Đặc biệt, thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ, NHNN và
NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã tiến hành hỗ trợ lãi suất đối
với các hộ vay vốn. Kết quả cụ thể tính đến ngày 30 tháng 2 năm 2009 như sau:
+Tổng số hộ được hỗ trợ lãi suất: 1840 hộ.
+ Doanh số cho vay hộ được hỗ trợ lãi suất: 1978.840,8 triệu đồng.

+ Dư nợ cho vay hộ được hỗ trợ lãi suất: 1978.840,8 triệu đồng.
+ Lãi suất được hỗ trợ: Chưa phát sinh.
+ Tổng số bộ hồ sơ đề nghị hỗ trợ lãi suất đã nhận trong tháng: 1840 bộ.
+ Số hồ sơ đã được hỗ trợ lãi suất: Chưa phát sinh.
+ Số bộ hồ sơ đã được thẩm định nhưng không giải quyết: Không.
Chính sách hỗ trợ lãi suất là một chính sách rất thiết thực, nhằm giúp các hộ
ổn định và mở rộng hoạt động SXKD trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều
khó khăn. Nhưng qua kết quả trong một tháng đầu thực hiện, đã bộc lộ một số khó
khăn, vướng mắc như: Khách hàng đúng đối tượng được hỗ trợ lãi suất nhưng
không tập hợp được đủ bộ chứng từ hóa đơn tài chính, hàng hoá mua bán trên thị
trường thực tế phát sinh nhưng không có đủ chứng từ xuất nhập hàng hoá; Khách
hàng chủ yếu là hộ nông dân vay món nhỏ, trong một món vay tồn tại cả đối tượng
được hỗ trợ và không được hỗ trợ nên khó bóc tách; Nhiều khách hàng không nhận
thức được cơ chế chính sách; Khối lượng công việc tăng lên rất nhiều, chi phí
lớn…
Bảng 9: Tình hình dư nợ hộ SXKD qua các năm 2005-2008
Chỉ tiêu
Năm
Dư nợ hộ SXKD (tỷ
đồng)
Tổng dư nợ
(2) (tỷ đồng)
Tỷ trọng (3)(%)
(3)=(1)*100/(2)
2005 1241 1476 84,08
2006 1479 1790 82,63
2007 2174 2631 82,63
2008 2613 3074 85,00
Qua bảng 9 và biểu đồ 1 ta nhận thấy: Dư nợ hộ tăng đều qua các năm, năm
2006 tăng so với năm 2005 là:1479 – 1241 = 238 tỷ đồng, tương ứng 19,18%; năm

2007 tăng so với năm 2006 là: 2174 - 1479 = 695 tỷ đồng, tương ứng 46,99%; năm
2008 tăng so với năm 2007 là: 2613 - 2174 = 439 tỷ đồng, tương ứng 20,19 %. Và
dư nợ hộ đều chiếm một tỷ trọng lớn (hơn 80%) trong tổng dư nợ. Điều đó chứng
tỏ cho vay hộ sản xuất là một hoạt động khá quan trọng, đóng góp nhiều vào kết
quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Tĩnh.
Chỉ tiêu
Năm
Số hộ dư nợ (hộ) Tổng dư nợ cho vay hộ (triệu
đồng)
Bình quân dư nợ một hộ (triệu
đồng/hộ)
2005 100930 1241000 12,30
2006 109499 1479000 13,51
2007 103727 2174000 20,96
Bảng 10: Bình quân dư nợ một hộ thời kỳ 2005-2008
2008 102016 2613000 25,61
Nhận xét: Với nhiều chính sách linh hoạt và phù hợp, giai đoạn này,
NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã mạnh dạn hơn trong công tác cho các hộ. Bình quân dư
nợ của các hộ tăng đều qua các năm. Đặc biệt, năm 2008, trong điều kiện nền kinh
tế gặp nhiều khó khăn, số dư nợ bình quân vẫn lên tới trên 25 triệu đồng/hộ. Nhờ
đó các hộ có thêm điều kiện đầu tư vào phát triển sản xuất, chuyển từ sản xuất nhỏ
lẻ sang sản xuất hàng hoá, làm ăn lớn,… Từ đó, nâng cao khả năng cạnh tranh trên
thị trường.
Bảng 11: Dư nợ cho vay đối với một số chương trình kinh tế tại
địa phương năm giai đoạn 2005 -2008
Chỉ tiêu Số dư nợ
(triệu đồng)
Số hộ dư nợ Nợ quá hạn
(triệu đồng)
Cho vay kinh tế trang trại 36889 534 92

Cho vay trồng chè 1314 917 53
Mua sắm nông cụ 69883 5129 1925
Thuỷ hải sản 233483 12154 3789
Cho vay xuất khẩu lao động 126569 8558 5745
Cho vay nhu cầu đời sống 1650382 69026 13664
Tổng 2118520 96368 25268
Từ bảng 11 có thể thấy: Công tác cho vay hộ sản xuất đã thực sự bám sát các
chương trình kinh tế địa phương để cho vay nhiều loại đối tượng, đa dạng hoá cơ
cấu đầu tư, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng
sản xuất hàng hóa, giúp các hộ tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông
thôn mới.
Hiệu quả của công tác cho vay hộ đối với các chương trình kinh tế tại địa
phương thể hiện trên các mặt cụ thể sau:
- Hoạt động cho vay kinh tế trang trại: Với các chính sách giao đất, khoán
rừng, đấu thầu và khai hoang, phục hoá, phát triển kinh tế hộ, nhiều hộ đã có tích
luỹ vốn, có lao động, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, mở rộng quy mô sản xuất
hàng hoá, hình thành các trang trại. Thực hiện nghị quyết số 03/2000/NP-CP ngày
02/2/2000 của chính phủ về đầu tư và phát triển kinh tế trang trại, quyết định
423/2000/QĐ-NHNN1 ngày 22/9/2000 của thống đốc ngân hàng nhà nước về
chính sách tín dụng đối với kinh tế trang trại, giai đoạn này, NHNo&PTNT Hà
Tĩnh đã cho vay hộ đối với 1235 trang trại. Ngân hàng đã cho các chủ trang trại
vay vốn cải tạo vườn tạp, trồng cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc…
Nhờ được vay vốn của Ngân hàng, giá trị sản phẩm hàng hoá của các trang
trại ngày một tăng cao. Năm 2008, giá trị hàng hoá, dịch vụ bình quân một trang
trại ước đạt 119,2 triệu đồng. Loại hình trang trại có giá trị hàng hoá cao nhất là
trang trại chăn nuôi, đạt bình quân 169,8 triệu đồng/trang trại; thấp nhất là trang
trại trồng trọt đạt bình quân 83,1 triệu đồng. Tỉ suất hàng hoá dịch vụ bán ra bình
quân một trang trại đạt trên 80%. Thu nhập bình quân đạt 43,6 triệu đồng/trang
trại, cao gấp 3,2 lần so với các hộ dân khác trong tỉnh.
Hiện nay, các trang trại đã sử dụng 6793 lao động, bình quân 5,5 lao

động/trang trại, trong đó lao động của chủ trang trại chiếm tỷ lệ khoảng 44%, còn
lại là lao động thuê ngoài. Việc thu hút lao động, giải quyết việc làm của các trang
trại đã làm giảm bớt áp lực do thiếu việc làm, góp phần tăng tích luỹ, xoá đói giảm
nghèo ở vùng nông thôn.
Đặc biệt, trong các năm 2005, 2006, 2007, không có chủ trang trại nào quá hạn
nợ. Năm 2008, do điều kiện kinh tế khó khăn, có một số chủ đã nợ quá hạn, dù
không đáng kể, tuy nhiên NHNo&PTNT Hà Tĩnh cũng nên có biện pháp quan tâm
kịp thời để loại hình kinh tế này có điều kiện phát triển, tương xứng với tiềm năng
của mình.
- Hoạt động cho vay trồng chè: Với chủ trương phát triển kinh tế, đặc biệt ở
những vùng kinh tế mới, NHNo&PTNT đã mạnh dạn cho các hộ vay trồng chè, và
bước đầu có nhiều kết quả khả quan. Trong giai đoạn này, Ngân hàng đã cho vay
trồng chè trên 1500 lượt hộ, đầu tư cải tạo và trồng mới trên 5000 ha vườn chè, thu
hút trên 1000 lao động. Thu nhập bình quân của lao động trồng chè trên 950 nghìn
đồng/lao động.
Trong các năm 2005, 2006, 2007 hoàn toàn không có nợ quá hạn. Tuy nhiên,
năm 2008, tất cả các hộ vay đều quá hạn, đây là một biểu hiện đáng lo ngại, Ngân
hàng cần có biện pháp kịp thời khắc phục, để có thể thu hồi nguồn vốn của mình,
mà vẫn đảm bảo phát triển vùng kinh tế mới.
- Về cho vay mua sắm nông cụ: Ngân hàng đã đầu tư vốn, giúp các hộ có điều
kiện cải tạo, mua sắm nông cụ, máy móc, phương tiện. Nhờ nguồn vốn của Ngân
hàng, các hộ đã mua mới được hơn 1000 chiếc máy cày, 380 máy bừa, trên 400
công nông…
- Cho vay ngành thuỷ hải sản chủ yếu tập trung vào cải tạo ao đầm nuôi trồng
thuỷ hải sản. Trong năm 2008, NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã đầu tư cho lĩnh vực khai
thác thuỷ sản là 11.458 triệu đồng để đóng mới, mua sắm và sữa chứa 127 tàu đánh
cá, phục vụ cho 158 hộ dân có phương tiện khai thác thuỷ sản. Đầu tư nuôi trồng
thuỷ sản là 90.325 triệu đồng để san ủi và cải tạo 408 ha đìa tôm. Trong giai đoạn
này, sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 11.350 tấn/năm; đạt 124%
kế hoạch. Thu nhập của lao động trong ngành thuỷ hải sản ước đạt trên 1,2 triệu

đồng/lao động/tháng.
Các chỉ tiêu về số dư nợ, số hộ dư nợ và số nợ quá hạn đều tăng lên tương
xứng, chứng tỏ việc cho vay này đang đi đúng hướng.
- Cho vay đời sống: Với chủ trương mở rộng cho vay hộ cả chiều rộng và
chiều sâu, nên Ngân hàng đã mở rộng hơn hoạt động cho vay nhu cầu đời sống.
Trong giai đoạn này, Ngân hàng đã cho trên 95.268 lượt hộ vay vốn, với số vốn
hơn 2.578.896 triệu đồng
- Cho vay xuất khẩu lao động: Kết hợp với các trung tâm giới thiệu việc làm,
các trung tâm dạy nghề… Ngân hàng đã giúp nhiều hộ có điều kiện xuất khẩu lao
động. Từ năm 2005 đến năm 2008, Ngân hàng đã giới thiệu và cho 156.569 lượt hộ
vay vốn, với số tiền trên 186.597 triệu đồng. Thu nhập trung bình của một lao động
đi xuất khẩu lao động khoảng 300 USD/tháng. Nhờ đó, không ít gia đình đã thoát
nghèo, vươn lên có cuộc sống sung túc, hàng ngàn ngôi nhà khang trang được mọc
lên, thay thế những ngôi nhà tranh, mái lá trước đây.
Như vậy, trong các hoạt động cho vay hộ nhằm phát triển kinh tế tại địa
phương, mô hình cho vay trang trại là mô hình đem lại thu nhập bình quân cao
nhất cho người lao động. Tuy nhiên, hiện nay, số trang trại được vay vẫn chưa
nhiều; Ngân hàng nên chú ý hơn đến đối tượng này để nâng cao hơn nữa hiệu quả
đầu tư.

×