Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.4 KB, 28 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC PHÁT
HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG
VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH VÀ THANH
TOÁN THẺ TẠI NHNT VIỆT NAM
1.1 Định hướng phát triển thẻ thanh toán trong hệ thống NHVN
Trước một tình hình thực tế là tình hình sử dụng quá nhiều tiền mặt trong
nền kinh tế không có dâú hiệu giảm đi mà còn có xu hướng tăng lên gây nhiều khó
khăn cho nền kinh tế và các cơ quan quản lý nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cùng
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang có hoạt động cụ thể nhằm đẩy
mạnh phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ở Việt Nam.
Định hướng phát triển nghiệp vụ thẻ ở nước ta trong thời gian tới phải mang
tính tập trung, đồng bộ, đều khắp, vừa kết hợp tận dụng mọi nguồn lực của các
ngân hàng, nhất là các ngân hàng có mạng lưới rộng khắp. Khuyến khích các ngân
hàng tham gia vào hoạt động thẻ, kể cả các chi nhánh ngân hàng tại các tỉnh. Các
ngân hàng phối kết hợp với nhau trong việc xây dựng một hệ thống máy móc kỹ
thuật nhằm làm cho quá trình thanh toán được thuận lợi, nhanh chóng, tránh tình
trạng việc ai nấy làm như hiện nay. Ngân hàng Nhà nước sẽ xúc tiến để chuẩn bị
cho ra đời một trung tâm thanh toán trong tương lai nhằm quản lý và tạo điều kiện
thanh toán nhanh chóng cho các ngân hàng.
Trong giai đoạn tới hứa hẹn có nhiều ngân hàng tham gia vào thanh toán
thẻ và như vậy thị trường thẻ sẽ trở nên sôi động hơn. Cho đến nay, ngoài các ngân
hàng đi trước trong hoạt động này như NHNT VN, ngân hàng cổ phần Á châu... đã
và đang có nhiều ngân hàng khác nhập cuộc với nhiều mức độ khác nhau. Ngoài
ra còn nhiều ngân hàng khác đang trong quá trình chuẩn bị và học tập kinh nghiệm.
Ngân hàng nhà nước sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho các ngân hàng này tham gia hoạt
động thẻ một cách nhanh chóng, đồng thời là chiếc cầu nối liên kết các ngân hàng
để cùng giúp nhau phát triển nghiệp vụ thanh toán này. Bên cạnh đó, Ngân hàng
Nhà nước sẽ triển khai hàng loạt máy ATM dành cho thẻ quốc tế và nội địa. Trong
những năm tới, thẻ là thị trường rộng lớn bỏ ngỏ cho các ngân hàng, các tổ chức tài
chính trong và ngoài nước.


Trong tháng 9 năm 1998, một hội thảo với chuyên đề “mở rộng phạm vi sử
dụng và phát hành thẻ ở ngân hàng Việt Nam” đã được tổ chức tại Việt Nam. Tại
hội thảo, nhiều chuyên gia ngân hàng đã tham dự và đã mở rộng ra một triển vọng
to lớn cho việc phát triển thẻ ở Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng
Nhà nước sẽ có kế hoạch tổ chức một cuộc hội thảo chuyên đề như trên nhằm
chuẩn bị tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của một trung tâm thanh toán bù trừ thẻ ,
séc và có thể là hối phiếu thương mại.
1.2 Định hướng phát triển của NHNT trong hoạt động phát hành và
thanh toán thẻ
Phát hành và thanh toán thẻ chưa phải là một nghiệp vụ lớn tại NHNT VN.
Nếu đem so sánh lợi nhuận thu được từ hoạt động này với thu nhập của toàn ngân
hàng, ta có thể thấy rõ điều này. Tuy nhiên trong chiến lược phát triển của ngân
hàng, ban lãnh đạo ngân hàng vẫn coi trọng công tác này. Trong những năm trước
mắt, phát hành và thanh toán thẻ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh ở NHNT. Đặc biệt
ngân hàng sẽ dành phần lớn số phí thu được từ hoạt động này để tái đầu tư và các
mặt của công tác phát hành và thanh toán thẻ.
* Đối với nghiệp vụ phát hành thẻ
Tập trung nỗ lực để đẩy mạnh công tác phát hành thẻ, từng bước đưa công
tác này trở thành hoạt động chính trong hoạt động thẻ tại ngân hàng.
Phối hợp phòng thẻ với các phòng ban khác như phòng tín dụng, phòng hối
đoái nhằm tạo nên sự nhịp nhàng trong phát hành thẻ, đưa nghiệp vụ phát hành thẻ
thực sự trở thành một hình thức cho vay mới của ngân hàng.
Xúc tiến các chương trình tiếp thị, quảng cáo, khuyến mãi lớn nhằm giới
thiệu sản phẩm mới của ngân hàng.
Xem xét, nghiên cứu việc liên kết phát hành thẻ với các tổ chức tín dụng
như các cá nhân, tổ chức kinh doanh, tổ chức xã hội khác. Nghiên cứu nhằm đa
dạng hoá các sản phẩm thẻ tín dụng phục vụ nhu cầu sử dụng thẻ khác nhau của
khách hàng.
Tiếp tục nghiên cứu để cho ra đời các sản phẩm thẻ phục vụ nhu cầu chi
tiêu đang tăng lên của các công ty, tổ chức như thẻ mua sắm, thẻ công ty. Trong đó

có thể nghiên cứu tiếp tục khai thác việc phát hành và ứng dụng, kết hợp công
nghệ thẻ chíp và thẻ từ để tạo ra loại thẻ mang nhiều chức năng khác nhau trên
cùng một tấm thẻ.
Căn cứ vào tình hình thực tế phát hành và thanh toán thẻ nội địa VCB Card,
thẻ rút tiền tự động ATM, NHNT tạm thời không nhân rộng loại thẻ này nhằm tiếp
tục nghiên cứu hoàn thiện, củng cố mạng lưới thanh toán thẻ nội địa để cho ra đời
một loại thẻ hoàn thiện nhất trong tương lai.
* Đối với nghiệp vụ thanh toán thẻ
Đảm bảo hoạt động ổn định của phần mềm quản lý và xử lý cấp phép, thanh
toán cũng như tăng cường phối kết hợp chặt chẽ với bưu điện.
Tiếp tục tăng cường công tác Marketing để duy trì và phát triển các
ĐVCNT; mở rộng mạng lưới ĐVCNT đến các điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ
mới, tiếp tục duy trì chính sách khách hàng như hiện nay đối với các ĐVCNT.
Nghiên cứu kết hợp thanh toán thẻ với các nghiệp vụ khác của ngân hàng
nhằm đảm bảo cung cấp các sản phẩm ngân hàng một cách đồng bộ và có sức cạnh
tranh nhất.
Tiếp tục đầu tư cho việc tự đọng hoá tại các ĐVCNT, nâng cao chất lượng
dịch vụ thanh toán thẻ.
Tăng cường sự hợp tác với các ngân hàng chưa thanh toán thẻ để mở rộng
mạng lưới ngân hàng đại lý và mở rộng mạng lưới ĐVCNT của NHNT trên toàn
quốc.
* Về tổ chức con người
Tuyển thêm một số nhân viên mới từ bên ngoài kết hợp với việc chuyển số
nhân viên ở bộ phận khác sang để đáp ứng đầy đủ nhu cầu đặt ra.
Các nhân viên cũ và mới tiếp tục tập huấn trong nước và nước ngoài. Các
chương trình đào tạo sẽ được cải tiến cho phù hợp với sự thay đối nhanh chóng của
công nghệ thẻ trên thế giới.
Gây dựng tình đoàn kết trong các nhân viên để học hỏi lẫn nhau và giúp
nhau hoàn thành công việc chung.
* Về công nghệ và kỹ thuật

Đầu tư thêm một số máy móc hiện đại kết hợp với nâng cấp và hoàn thiện
tiếp hệ thống máy móc hiện có; dần dần đồng bộ hoá hệ thống máy móc kỹ thuật
dùng trong lĩnh vực thẻ; định kỳ mời chuyên gia nước ngoài sang bảo dưỡng các
thiết bị phục vụ phát hành và thanh toán thẻ.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC PHÁT HÀNH VÀ
THANH TOÁN THẺ TẠI NHNT VN
2.1. Giải pháp cho việc phát hành thẻ tại Vietcombank
2.1.1 Thực hiện chiến lược Marketing một cách mạnh mẽ và đồng bộ
Đối với các nước phát triển thì thẻ là phương tiện thanh toán tiện ích và
thiết yếu, nhưng đối với Việt Nam, tuy thẻ ra đời được hơn 10 năm nhưng nó vẫn
còn là một phương tiện thanh toán mới mẻ. Đại đa số dân chúng quan niệm rằng
thẻ là thẻ là một phương tiện thanh toán của người nước ngoài và của những người
giàu có, không phù hợp với những người dân bình thường có mức thu nhập bình
thường và thấp. Quan niệm này xuất phát từ chỗ mọi người chưa được hiểu và biết
đến những tiện ích thực sự của thẻ, họ coi việc sử dụng thẻ là phức tạp, không đảm
bảo chắc chắn, đôi khi họ không hình dung được nếu phát hành một tấm thẻ thì
phải làm những gì, và sử dụng nó như thế nào- chắc là “rích rắc” lắm và phí nộp
chắc phải cao lắm. Đó là chưa kể đến những người dân sống ở nông thôn, đa phần
là dân trí thấp, họ còn chưa hiểu và chưa hình dung được khái niệm thẻ như thế
nào huống chi là nói đến sử dụng thẻ. Vì vậy, phổ biến, tiếp thị và quảng cáo một
cách đồng bộ và sâu rộng đến mọi tầng lớp dân cư là một vấn đề cốt yếu để có thể
mở rộng thị trường thẻ đầy tiềm năng ở Việt Nam. Nhưng hiện nay, khâu
Marketing thẻ của NHTM Việt Nam và Vietcombank chưa rộng rãi và hiệu quả.
Việc thực hiện một chiến lược Marketing rộng rãi và đồng bộ có thể thông qua các
hình thức:
Đẩy mạnh quảng cáo trên các phương tiệ thông tin đại chúng như: báo chí,
truyền hình, hay các pano quảng cáo trên đường phố... Với báo chí ta có thể viết
nên những nét độc đáo nhất của thẻ và sự thuận lợi của khách hàng khi sử dụng
thẻ; trên truyền hình có thể làm các chương trình tìm hiểu cũng như giải đáp các
thắc mắc về thẻ, để từ đó phổ biến những kiến thức rộng rãi tới mọi đối tượng dân

cư. Đồng thời, Vietcombank cũng nên thực hiện các hoạt động tài trợ cho các trò
chơi kiến thức, trò chơi kinh tế...để nhân đó truyền bá về thẻ cũng như các dịch vụ
khác về ngân hàng.
Ngoài ra, công nghệ thông tin phát triển, Internet cũng là phương tiện hữu
hiệu để quảng cáo cho sản phẩm thẻ nói riêng và Vietcombank nói chung.
Tổ chức các buổi toạ đàm, nói chuyện về thẻ tín dụng tại các trường đại học
kèm theo các chương trình văn hoá. Thẻ là một vấn đề mới mà đội ngũ sinh viên
luôn muốn tiếp thu cái mới. Do đó, các buổi toạ đàm sẽ đạt được kết quả cao.
Thông qua đội ngũ sinh viên năng động sẽ có thể phổ biến thẻ đến được nhiều
người. Mặt khác họ có thể là nhóm khách hàng tiềm năng của ngân hàng trong
tương lai.
Dựa vào tâm lý khách hàng muốn mua hàng hoá với giá rẻ, Vietcombank có
thể ký hợp đồng đại lý với một số ĐVCNT như: siêu thị, cửa hàng, khách sạn...để
họ chấp nhận giảm giá khi khách hàng thanh toán bằng thẻ của Vietcombank phát
hành. Đổi lại, Vietcombank sẽ trả khoản phí do giảm giá đó cho các ĐVCNT khi
nhận được hoá đơn thanh toán thẻ từ các ĐVCNT này đưa đến. Mặt khác, các
ĐVCNT sẽ được Vietcombank giới thiệu với khách hàng khi phát hành thẻ cho họ.
Thực hiện theo cách này, không những tạo ra đòn bẩy khuyến khích khách hàng sử
dụng thẻ vì được giảm giá, mà còn giúp các ĐVCNT tăng doanh số bán hàng. Tất
nhiên giải pháp này chỉ thực hiện trong một giai đoạn ngắn cho đến khi thẻ do
Vietcombank phát hành trở nên quen thuộc với khách hàng.
Tăng cường việc tiếp cận, khuyến mại và quảng cáo với các công ty lớn và
những đối tượng khách hàng tiềm năng như các công ty liên doanh; các văn phòng
đại diện nước ngoài tại Việt Nam; các cán bộ công nhân viên của một số nghành có
thu nhập cao như dầu khí, điện lưc, bưu điện, hàng không...; các chủ doanh nghiệp
tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước;...
Đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra nhiều hình thức thẻ mới phù hợp: Hiện nay,
NHNT mới chỉ phát hành các loại thẻ như là Master thẻ Visa, ATM, cần mở rộng
thêm các hình thức thẻ mới có hạn mưc tín dụng thấp hơn loại thẻ chuẩn (dưới 10
triệu) để phù hợp hơn với các hình thức chi tiêu trong nước... nhằm phục vụ nhu

cầu đa dạng, phong phú của khách hàng, đồng thời thoả mãn cả đối với những đối
tượng khách hàng có thu nhập trung bình.
Tuy nhiên, trong việc thực hiện chiến lược Marketing đối với các ngân hàng
thương mại Việt Nam và NHNT còn một vấn đề tương đối khó khăn bởi vì đối với
một loại hình kinh doanh chưa thực sự phát triển mà sử dụng một nguồn chi phí
quá lớn để quảng cáo trong khi chưa hẳn chắc chắn sẽ thành công một cách tối đa
và nhanh chóng thì còn là một mạo hiểm lớn trong lĩnh vực kinh doanh. Do vậy,
vấn đề tồn tại ở đây là chi phí từ đâu ra và có thể thu hồi được chi phí trong một
khoảng thời gian nhất định hay không. Phương pháp tốt cho điều kiện hiện nay là
Marketing thẻ nên nhằm vào các đối tượng khách hàng mục tiêu là dân cư thành
thị và các thành phố lớn, những người có thu nhập tương đối cao và ổn định,
thường xuyên có những khoản chi tiêu dịch vụ như đi công tác trong và ngoài
nước, nghỉ ngơi tại khách sạn, buôn bán kinh doanh hàng hóa... Ngoài ra, một bộ
phận lớn nữa là các nhà đầu tư, chuyên gia nước ngoài,... có nhu cầu chi tiêu
thường ngày lớn. Một bộ phận nữa có xu hướng tăng lên là học sinh, sinh viên đi
học ở nước ngoài được gia đình bảo lãnh sử dụng thẻ ở nước ngoài.
Như vậy, thực hiện chiến lược Marketing thẻ một cách đồng bộ, rộng rãi là
rất cần thiết. Nhưng dể thực hiện một cách hiệu quả nhất thì các ngân hàng cần tìm
ra được nhóm khách hàng tiềm năng và từ đó có những biện pháp đẩy mạnh hoạt
động Marketing nhằm biến những khách hàng tiềm năng đó thực sự trở thành
khách hàng của ngân hàng.
2.1.2 Hoàn thiện và đơn giản hoá quy trình phát hành thẻ
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng trong nước và nước
ngoài trên thị trường hiện nay, để trở thành một ngân hàng có quy mô và uy tín
trong lĩnh vực phát hành thẻ là một điều vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh
doanh thẻ tại NHNT VN. Theo xu hướng này, khách hàng có quyền lựa chọn cho
mình một ngân hàng mà họ cho là có uy tín nhất và các thủ tục tiến hành nhanh
gọn nhất. Chính vì vậy, cùng với uy tín của mình, Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam cần hoàn thiện hơn nữa quy trình phát hành thẻ.
Hiện nay, Vietcombank phát hành thẻ dựa trên thế chấp và ký quỹ với mức

quỹ là 125% hạn mức thẻ, đồng thời quy trình thẩm định phát hành thẻ của
Vietcombank cũng rất chặt chẽ. Với cách làm việc này, tất nhiên ngân hàng sẽ
không lo rủi ro, nhưng lại gây khó khăn cho khách hàng muốn sử dụng thẻ dẫn đến
số lượng thẻ phát hành của ngân hàng chưa được cao.
Với những tiện ích thật sự của thẻ, khách hàng sử dụng thẻ không chỉ đơn
thuần làm phương tiện thanh toán mà còn tăng khả năng tài chính ngắn hạn. Vì
vậy, trong quá trình thẩm định để phát hành thẻ ngân hàng cũng nên xét đến tính
ổn định của thu nhập, uy tín của khách hàng và có thể coi đó là một hình thức đảm
bảo phát hành thẻ chứ không cần đòi hỏi khách hàng ký quỹ hay thế chấp tài sản
nữa. Nghĩa là các điều kiện về thế chấp và ký quỹ trong phát hành thẻ có thể xử lý
linh hoạt hơn tuỳ vào từng đối tượng khách hàng.
Để làm tốt điều này, Vietcombank cần đẩy manh việc mở rộng tài khoản cá
nhân tại ngân hàng. Huy động mở tài khoản cá nhân sẽ giúp lượng khách hàng của
ngân hàng tăng lên, thu hút lượng vốn trong các tầng lớp dân cư một cách triệt để.
Từ đó có được cơ sở theo dõi tình hình tài chính của khách hàng, mặt khác phối
hợp với một số công ty, doanh nghiệp để khuyến khích cho họ trả lương cho nhân
viên vào tài khoản tại Vietcombank, như vậy có thể giảm thiểu được rủi ro của
ngân hàng, lại có thể thu hút được một lượng khách hàng lớn sử dụng thẻ.
2.2.3. Hợp lý hoá chi phí sử dụng thẻ
Hiện nay, chi phí sử dụng thẻ còn nhiều bất hợp lý, chưa phù hợp với thực
trạng tiêu dùng và sử dụng của khách hàng đặc biệt là đối tượng khách hàng là
người dân Việt Nam. Trong khi sử dụng thẻ, ngoài phí thường niên thì chủ thẻ phải
trả thêm các khoản khác như lãi suất cho khoản tín dụng chi tiêu, phí trả chậm, phí
rút tiền mặt, phí xin cấp phép... Các khoản chi phí này làm cho việc sử dụng thẻ đắt
hơn nhiều so với chi tiêu bằng tiền mặt. Thêm nữa, lãi suất đối với tín dụng thẻ lại
cao hơn so với tín dụng thông thường là một điều bất hợp lý. Theo thực trạng
thống kê, số khách hàng sử dụng thẻ chủ yếu là người nước ngoài (chiếm 75%),
còn số khách hàng là người Việt Nam chỉ chiếm 25% so với doanh số dử dụng thẻ.
Đây là một sự bất cân bằng lớn bởi vì người Việt Nam với những khoản chi tiêu ít
thì họ có thể sử dụng trực tiếp bằng tiền mặt chứ không cần dùng đến phương tiện

thẻ thanh toán với một lượng chi phí lớn hơn hẳn như thế. Trong điều kiện hiện
nay, khách hàng là người Việt Nam đại bộ phận đều cho rằng tỷ lệ phí, lãi áp dụng
cho các giao dịch thẻ của NHNT là quá cao.
Với mức phí hiện tại, các cá nhân người Việt Nam có thu nhập hàng tháng
từ 2 triệu trở lên cũng khó có thể sử dụng thẻ được. Vì vậy, chi phí sử dụng thẻ ảnh
hưởng trực tiếp đến doanh số phát hành và sử dụng thẻ. Để doanh số này ngày
càng tăng lên và có sự cân bằng giữa lượng khách hàng trong nước và nước ngoài
thì NHNT cần có những chính sách hợp lý hoá các loại chi phí cho việc phát hành
và sử dụng thẻ, đặc biệt là đối với những khách hàng trong nước có mức thu nhập
chưa cao.
Trong năm 2001 vừa qua, NHNT VN đã có những thay đổi đáng kể nhằm
tăng cao doanh số phát hành và sử dụng thẻ, cụ thể như: quy định cho giám đốc
các ngân hàng cơ sở được quyền quyết định phát hành tín chấp cho các chủ thể xét
thấy có uy tín. Đồng thời, có thể nâng hạn mức tín dụng cho các chủ thẻ có chu cầu
đột xuất một cách hợp lý mà không lấy phí hoặc bảo lãnh cho những chủ thẻ đi
công tác đột xuất mà chưa trả nợ được trên sao kê trong một khoảng thời gian nhất
định.
Để mở rộng hơn nữa nghiệp vụ phát hành thẻ, ngân hàng cần có thêm
những chính sách, chương trình khuyến khích khách hàng như có thể tặng một
tháng lãi suất cho những thẻ mới phát hành, hay giảm phí thường niên trong một
khoảng thời gian nhất định nào đó. Ngoài ra, cần điều chỉnh lãi suất đối với tín
dụng thẻ sao cho luôn ở mức thấp hơn hoặc bằng với lãi suất tín dụng thông
thường.
Thực hiện được như vậy, chắc chắn doanh số phát hành và sử dụng thẻ sẽ
tăng lên do yếu tố tâm lý của khách hàng. Có thể trong thời gian đầu doanh số thu
phí của ngân hàng không cao, nhưng trong một tương lai không xa, ngân hàng sẽ
có một tiềm năng cho lĩnh vực phát hành và sử dụng thẻ.
2.1.3 Đào tạo và củng cố hơn nữa nguồn nhân lực của ngân hàng
Trong con mắt của khách hàng thì nhân viên chính là hình ảnh của ngân
hàng. Mọi cư xử, hoạt động của đội ngũ nhân viên có ảnh hưởng trực tiếp đến bộ

mặt và uy tín của ngân hàng. Chính vì vậy mà công tác đào tạo và củng cố nguồn
nhân lực của một ngân hàng là yếu tố cần thiết.
Với cơ cấu 20% nhân viên là đội ngũ tiến sĩ, hơn 70% nhân viên ở trình độ
đại học và dưới 10% tôt nghiệp các trường cao đẳng, tại chức, NHNT VN có một
đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, vững chuyên môn, đảm bảo tốt công
việc của mình. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế
giới và tiềm năng của hoạt động kinh doanh thẻ thì như vậy là chưa đủ. Trong hoạt
động kinh doanh thẻ, chúng ta chưa có các chuyên gia hàng đầu, các cán bộ quản
lý điều hành và các cán bộ nghiệp vụ ngoài trình độ ngoại ngữ tương đối phải có
một trình độ kiến thức nhất định.
Do vậy, để nâng cao chất lượng và số lượng phát hành thẻ nói riêng và kinh
doanh thẻ nói chung, Vietcombank cần có những biện pháp, chính sách đầu tư cho
nguồn nhân lực cả về lượng và về chất. Các cán bộ quản lý điều hành ngoài những
nỗ lực của bản thân phải được tham gia các khoá học dài hạn, bài bản, có thời gian
thực tập để có kiến thức chuyên sâu và trình độ nghiệp vụ vững vàng trong kinh
doanh thẻ. Cũng cần tổ chức tập huấn nghiệp vụ hoặc cử đi học tại các tổ chức thẻ
quốc tế để thường xuyên bổ xung, nâng cao trình độ. Ngoài ra không thể thiếu các
kế hoạch tuyển chọn, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ mới đáp ứng yêu cầu công
việc và vận hành tốt những máy móc thiết bị hiện đại.
Trong nghiệp vụ phát hành thẻ, các nhân viên giao dịch cũng góp phần
đáng kể trong việc thu hút khách hàng. Khi khách hàng đến ngân hàng giao dịch,
trong tiếp đón niềm nở, tận tình, chu đáo, nhân viên giao dịch có thể hướng dẫn
cho khách hàng những tiện ích của thanh toán thẻ với một thủ tục đơn giản... sẽ
giúp khách hàng cảm thấy thoải mái và mong muốn được sử dụng thẻ. Muốn vậy,
ngân hàng cần mở các lớp đào tạo về cả chuyên môn lẫn tâm lý để mọi nhân viên
đều có khả năng nắm bắt tâm lý khách hàng, luôn tạo tâm lý thoải mái, vui vẻ, tin
tưởng vào khách hàng. Đây là yếu tố quan trọng để khuyến khích, thu hút khách
hàng.
2.1.4 Tạo ra nhiều hình thức mới mẻ phù hợp với điều kiện của Việt Nam

×