Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN HẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.43 KB, 35 trang )

THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN
HẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THẺ Ở NGÂN
HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
Như trên đã nêu, với xu hướng phát triển chung của thế giới và triển vọng
rất lớn trong việc phát triển dịch vụ thẻ ở Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam (NHNTVN) - một trong những ngân hàng lớn của Việt Nam- muốn phát triển
theo hướng chung đó thì phải cần ứng dụng công nghệ thẻ vào hoạt động kinh
doanh của mình.
NHNT như đã biết là một ngân hàng lớn có nhiều kinh nghiệm trong công
tác thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế. NHNT trong nhiều năm qua luôn đi
đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Qua thực tế hoạt động và kinh doanh trong
lĩnh vực này, NHNT đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, đồng thời tạo được nhiều
mối quan hệ kinh doanh với các ngân hàng và tổ chức tài chính , tín dụng, kinh tế
lớn trong và ngoài nước. Do có những mối quan hệ rộng rãi này và nhờ vào bề dày
trong thanh toán quốc tế, NHNT cần phải ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động
của mình nếu ngân hàng không muốn bị tụt hậu so với thế giới. Đó cũng là một tất
yếu đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt nam nói chung.
Thẻ ra đời trên cơ sở những thành tựu của công nghệ thông tin. Ở Việt Nam
hiện nay công nghệ thông tin cũng như hệ thống thông tin liên lạc đang đạt được
những bước tiến vượt bậc, ví dụ như Việt Nam đã tạo ra nhiều mạng nội bộ ngoài
dịch vụ Internet có chất lượng tốt. Như vậy có hệ thống thông tin tốt, NHNT ứng
dụng công nghệ thẻ nhằm mở rộng hệ thống dịch vụ của mình để đáp ứng tốt nhu
cầu của khách hàng nhằm đạt hiệu quả cao trong dịch vụ thanh toán.
Như đã trình bày ở phần trên (chương I, phần II, 4), thẻ có rất nhiều tiện ích
không chỉ đối với khách hàng mà còn đối với cả ngân hàng như thanh toán gọn
nhẹ, nhanh chóng, an toàn thuận tiện... Do vậy, việc ứng dụng công nghệ thẻ là rất
cần thiết vì nhờ có ứng dụng công nghệ này, hệ thống ngân hàng Việt Nam nói
chung và NHNT nói riêng vừa có thể tranh được tụt hậu với ngân hàng khác, vừa
có thể tiếp cận và giao dịch được với các ngân hàng nước ngoài thì hệ thống Ngân
hàng Việt Nam mới phát triển được, từ đó giúp cho việc ổn định và phát triển kinh


tế dẫn đến ổn định về chính trị.
Vì thẻ có rất nhiều tiện ích nên các ngân hàng trên thế giới áp dụng nhiều
dẫn đến việc phát triển mạnh của dịch vụ thẻ, đồng thời dẫn đến sự cạnh tranh gay
gắt giữa các ngân hàng nhằm dành được thị phần lớn cho mình. Như vậy phát triển
dịch vụ thẻ là một xu thế khách quan nên buộc NHNT phải quan tâm, nếu không sẽ
bị giảm sức cạnh tranh, không tiến kịp với tốc đọ phát triển của thế giới.
Việt Nam đang mở cửa, do vậy đầu tư nước ngoài sẽ ồ ạt tràn vào thị trường
Việt Nam nhằm khai thác thị trường mới này. Là một ngân hàng trong nước, lại có
bề dày kinh nghiệm về thanh toán quốc tế, NHNT không thể không tăng cường áp
dụng những dịch vụ mới nhằm đáp ứng tốt nhu cầu trong nước để tranh thủ dành
thị phần trong sự cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng nước ngoài khác.
Như vậy, vì những lợi thế và nguyên nhân trên, NHNT không thể không áp
dụng thanh toán thẻ vào hoạt động kinh doanh của mình. Đây là một xu thế phát
triển chung của tất cả các ngân hàng.
II.THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN
THẺ TẠI NHNT VN
2.1 Công tác phát hành thẻ ở NHNT VN
2.1.1 Quy trình phát hành thẻ tại NHNT VN
NHNT VN hiện nay chỉ phát hành 2 loại thẻ tín dụng quốc tế là Visa Card
và Master Card. Thẻ tín dụng do NHNT phát hành là một phương tiện thanh toán
với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cung cấp căn cứ vào khả năng tài
chính, số tiền ký quỹ, tài sản thế chấp của khách hàng. Khách hàng có thể dùng thẻ
để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại 14 triệu điểm thanh toán, rút tiền mặt tại các
ngân hàng và các máy rút tiền ở Việt Nam cũng như ở các nước trên khắp thế giới.
Đây là một hình thức chi tiêu trước, trả tiền sau với thời hạn ưu đãi không thu lãi từ
10 đến 45 ngày. Khách hàng có thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền đã chi
tiêu vào cuối mỗi kỳ tín dụng theo sao kê hàng tháng.
Thẻ phát hành bao gồm hai loại: thẻ cá nhân và thẻ cá nhân do công ty uỷ
quyền sử dụng.
Thẻ công ty (do cá nhân được uỷ quyền sử dụng) là loại thẻ do các tổ chức

làm đơn xin sử dụng thẻ và chịu trách nhiệm thanh toán bằng nguồn tiền của mình.
Thẻ cá nhân: là thẻ do cá nhân sử dụng và chịu trách nhiệm thanh toán bằng
nguồn tiền của mình.
Mỗi loại thẻ được chia làm hai hạng: thẻ vàng và thẻ chuẩn.Thẻ vàng có
hạn mức chi tiêu tối thiểu là 50 triệu VND, tối đa là 90 triệu VND.
Thẻ chuẩn có hạn mức tín dụng thấp hơn hạn mức tối thiểu của thẻ vàng, 50
triệu VND và có số tiền tối thiểu là 10 triệu VND.
* Đối tượng phát hành và sử dụng thẻ:
- Các các nhân được các tổ chức, công ty sau đây uỷ quyền (là đại diện hợp pháp)
xin phát hành và sử dụng thẻ: các cơ quan Nhà nước, đoàn thể; các doanh nghiệp
(bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); các tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao và các
tổ chức nước ngoài khác tại Việt Nam.
- Các cá nhân đủ 18 tuổi trở lên, không mất trí, không phải là người đang chấp hành
án hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp dưới 18 tuổi thì cá nhân phải
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có bảo lãnh của một người thứ ba (bố, mẹ,
người đỡ đầu) theo pháp luật của Việt Nam.
- Người nước ngoài: Ngoài yêu cầu trên phải có thời hạn cư trú và làm việc tại Việt
Nam bằng thời hạn phát hành thẻ + 40 ngày.
Các tổ chức, cá nhân nêu trên có thể mở tài khoản tiền gửi tại NHNT hoặc
tại các ngân hàng thương mại khác nhưng các tổ chức, cá nhân đó phải có năng lực
tài chính lành mạnh ( như đối với tổ chức thì cần phải có khả năng trả nợ, không có
nợ qua hạn đối với NHNT; đối với cá nhân thì có thu nhập ổn định, có uy tín).
Trong trường hợp không có những điều kiện nêu trên thì họ có thể thế chấp, cầm
cố hoặc ký quỹ.
CHỦ THẺ
CHI NHÁNH PHÁT HÀNH
TRUNG TÂM THẺ
* Các bước phát hành thẻ tín dụng tại NHNT
(1) Chủ thẻ đến ngân hàng làm thủ tục xin phát hành thẻ

(2) Nhận được hồ sơ yêu cầu sử dụng thẻ, chi nhánh kiểm tra theo quy chế về việc
phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của Tổng Giám đốc NHNT.
Nếu có sai sót hoặc chưa đầy đủ, chi nhánh yêu cầu khách hàng chỉnh sử bổ sung.
(4)
(1)
(5) (2)(3)
Trong vòng 4 ngày kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ, chi nhánh có
trách nhiệm thẩm định bộ hồ sơ và quyết định chấp nhận hay từ chối phát hành thẻ.
Trường hợp chấp nhận, chi nhánh có trách nhiệm phân loại khách hàng để làm rõ
các yếu tố sau: hạng thẻ vàng hay thẻ thường, hạn mức tín dụng, thời hạn thẻ.
Sau khi duyệt hồ sơ và xác định các yếu tố trên, chi nhánh điện cho Trung
ương (Trung tâm thẻ) qua mạng nội bộ yêu cầu phát hành ngay trong ngày làm
việc, đồng thời mở hồ sơ khách hàng để theo dõi những thông tin cần thiết.
- Điện yêu cầu phát hành thẻ phải được trưởng phòng duyệt. Đồng thời chi nhánh
gửi Fax cho trung tâm thẻ giấy yêu cầu phát hành thẻ đã được giám đốc chi nhánh
duyệt.
- Nhận được điện yêu cầu và giấy yêu cầu sử dụng thẻ của khách hàng, trung tâm
thẻ tiến hành các bước sau:
+ Kiểm tra đối chiếu các thông tin trên file với các thông tin nhận qua Fax,
sau đó cập nhật thông tin và tạo hồ sơ khách hàng tại trung tâm thẻ.
+ In thẻ bằng máy chuyên dụng.
+ Xác định mã số các nhân của chủ thẻ (trường hợp thẻ được dùng để rút
tiền mặt tại các máy ATM).
+ Tạo hồ sơ quản lý thẻ với các thông tin cần thiết theo quy định.
(3) Nhận được yêu cầu của chi nhánh, trung tâm thẻ hoàn thiện việc cá nhân hoá thẻ
và gửi thẻ về chi nhánh giao cho khách hàng trong vòng 3 ngày làm việc kể từ khi
nhận được đủ hồ sơ từ chi nhánh phát hành thẻ. Thẻ được gửi trong thư bì kín bằng
thư bảo đảm, mã số cá nhân phải được gửi bảo đảm bằng phong bì tách riêng với
thẻ.
(4) Tại chi nhánh phát hành, sau khi nhận được thẻ đã cá nhân hoá và mã cá nhân thì

thông báo cho khách hàng đến nhận.
Trước khi giao thẻ cho khách hàng, chi nhánh yêu cầu chủ thẻ ký vào mặt
sau của thẻ. Sau đó, chủ thẻ có thể hoàn toàn sử dụng thẻ cho hoạt động thanh toán
tiền hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền mặt.
(5) Cuối mỗi tháng, chi nhánh phát hành sẽ nhận sao kê chi tiết những khoản khách
hàng đã tiêu trong tháng được gửi đến từ trung tâm thẻ và gửi cho khách hàng để
yêu cầu chủ thẻ thanh toán.
2.1.2 Phân tích và đánh giá kết quả công tác phát hành thẻ tại NHNT
Cho đến nay, NHNT đã tiến hành Master Card đã được gần 10 năm và Visa
Card được gần 5 năm. Khoảng thời gian từ 1995 trở về trước, trong những bước đi
chập chững ban đầu, NHNT chỉ phát hành được 302 thẻ trong vòng gần 3 năm. Bắt
đầu từ năm 1996, cùng với sự khởi sắc của thị trường thẻ Việt Nam, tình hình phát
triển thẻ tại NHNT đã có những bước tiến rõ rệt thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tình hình phát hành thẻ Master Card qua các năm
(1996- 2002)
Chi tiêu
Năm
Số thẻ phát hành Doanh số sử dụng
Số thẻ
(cái)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
Doanh số (triệu
VND)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
1996 389 - 17.065 -
1997 419 + 7,7% 17.722 + 3,8%
1998 340 - 0,19% 31.000 + 74,9%
1999 650 + 91% 29.000 - 6,5%

2000 184 - 71,7% 29.658 + 2,3%
2001 626 + 240,2% 32.933 + 11,1%
2002 1060 + 69.3% 50.200 +52,4%
(Nguồn: Phòng kinh doanh thẻ NHNT - năm 2002)
Bảng 2: Tình hình phát hành Visa Card
Đơn vị: Triệu VND
Chi tiêu
Năm
Số thẻ phát hành Doanh số sử dụng
Số thẻ
(cái)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
Doanh số
(triệu VND)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
1998 1305 - 17.000 -
1999 720 - 41,8% 36.000 + 111,8%
2000 1.143 + 58,8% 39.683 +10,2%
2001 2.431 + 112,7% 92.227 +132,45
2002 6.650 173,5% 204.530 +121,8%
(Nguồn: Phòng kinh doanh thẻ NHNT –năm 2002)
Nhìn vào bảng tổng kết trên ta thấy trong năm 1996 có sự tăng vọt về số
lượng Master Card phát hành so với các năm trước, bất chấp sự cạnh tranh trong
hoạt động phát hành từ phía ngân hàng cổ phần Châu á. Số thẻ phát hành năm 1996
cao hơn tổng số thẻ đã phát hành 3 năm trước (1996 là 389 thẻ còn tổng số thẻ 3
năm trước là 302 thẻ). Sự khởi săc này một phần bắt nguồn từ sự ổn định về kinh
tế và tiền tệ trong nước. Trong năm 1996, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn
định, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, thương mại quốc tế cũng đạt được những kết

quả đáng kể, từ đó thu hút được lượng lớn khách nước ngoài tới Việt Nam. Chính
sự ổn dịnh về kinh tế và tiền tệ đã ảnh hưởng tích cực tới công tác phát hành thẻ tại
NHNT. Ngoài những nguyên nhân trên còn có những nguyên nhân chủ quan từ
chính bản thân ngân hàng. Trong hai năm 1995, 1996, NHNT lần lượt trở thành
thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ quốc tế lớn nhất đó là Visa và Master
Card. Với việc trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ lớn này, NHNT
đã củng cố được lòng tin của khách hàng và vị thế của mình trên thị trường thẻ
Việt Nam. Đây chính là tiền đề quan trọng giúp ngân hàng đạt được kết quả như
vậy.
Sang đến năm 1997, số lượng Master Card phát hành tiếp tục tăng nhưng
với tốc độ chậm chạp. Cả năm 1997 ngân hàng phát hành được 419 thẻ , tăng 30
thẻ (tăng 7,7%) so với năm 1996. Tuy nhiên doanh số sử dụng thẻ tăng không
nhiều (từ 17.065 triệu VND lên17.722 triệu VND), tăng 3,8% so với năm 1996. Sự
giảm sút phát hành thẻ chủ yếu là do khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu nổ ra ở
một số nước Châu á vào tháng 7. Số thẻ được phát hành chủ yếu tập trung vào thời
gian đầu của năm 1997. Trong nửa cuối của năm, mặc dù đồng Việt Nam vẫn
tương đối ổn định, nhưng do tâm lý lo sợ khủng hoảng sẽ lan tới Việt Nam nên tiến
độ phát hành thẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trong năm 1998, tình hình kinh tế của Việt Nam không có dấu hiệu khả
quan hơn, thêm vào đó là hai lần điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà Nước tạo ra
những cơn sốt đô la trên thị trường tư nhân đã ảnh hưởng không tốt tới công tác
phát hành thẻ tại NHNT. Tổng số thẻ Master Card phát hành trong năm chỉ đạt 340
thẻ với doanh số sử dụng là 31.000 triệu VND. Tuy doanh số sử dụng có tăng hơn
so với năm 1997 nhưng có cũng không cho ta thấy những dấu hiệu tích cực vì số
thẻ giảm qúa nhiều so với năm 1997: giảm 97 thẻ, giảm 0,19%. Nguyên nhân chủ
yếu là do sự mất giá của đồng Việt Nam. Số thẻ phát hành đa phần được sử dụng ở
nước ngoài bằng USD vì vậy khi quy về đồng Việt Nam có sự tăng trưởng về số
lượng.
Cũng trong năm này, NHNT bắt đầu phát hành thẻ Visa Card. Sự xuất hiện
của Visa Card cũng là một nguyên nhân làm giảm số lượng Master Card phát hành.

Visa Card là một loại thẻ nổi tiếng trên thế giới, với số ĐVCNT không thua kém
Master Card. Bản thân ngân hàng đã gia nhập tổ chức thẻ quốc tế Visa Card từ năm
1996, với hai năm chuẩn bị để phát hành Visa Card, cùng với những kinh nghiệm
đã thu được từ hoạt động phát hành Master Card nên ngay trong năm đầu tiên phát
hành Visa Card, NHNT đã phát hành được 1305 thẻ với doanh số sử dụng thẻ là
17.000 triệu VND. Ta thấy rằng tuy số lượng thẻ được phát hành nhiều nhưng
doanh số sử dụng lại không cao lắm. Nguyên nhân là do thẻ Visa Card đến tháng
4/1998 mới được phát hành. Tuy nhiên trong năm đầu tiên số lượng phát hành thẻ
như vậy là rất khả quan.
Năm 1999, việc phát hành Visa Card bị chậm lại đáng kể. Số thẻ phát hành
trong năm chỉ còn hơn một nửa so với năm trước (năm 1998 là 1305 thẻ còn năm
1999 giảm xuống chỉ còn720 thẻ, giảm 585 thẻ với tỷ lệ giảm 41,8%). Nguyên
nhân chủ yếu là do máy in thẻ Visa Card bị hỏng không khắc phục được trong hai
tháng cuôí quý 3 mà lại không có máy dự phòng nên buộc khách hàng phải chuyển
sang dùng Master Card hoặc sang ngân hàng khác. Tuy nhiên, doanh số sử dụng lại
tăng lên do khách hàng đã bắt đầu quen sử dụng Visa Card (từ 17.000 triệu VND
của năm 1998 lên 36.000 triệu năm 1999, tăng 111,8%.
Trong khi Visa Card phát hành giảm mạnh thì Master Card tăng lên đáng
kể. Việc Master Card phát hành năm 1999 tăng lên 650 thẻ, tăng thêm 310 thẻ với
tỷ lệ tăng 91%so với năm 1998 một phần do khách hàng sử dụng Visa Card chuyển
sang. Tuy nhiên phải tính đến khâu tiếp thị của NHNT. Trong năm 1999, NHNT đã
đẩy mạnh mở rộng số cơ sở chấp nhận thẻ, tích cực giới thiệu và quảng cáo cho thẻ
Master Card. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế xã hội có những cguyển biến tích cực.
Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ khá ổn định. Trong cả năm 1999, không có
lần sốt giá USD nào. Giá USD bình quân ở mức 14.060 VND. Sự ổn định tiền tệ
đã tạo thêm động lực cho khách hàng sử dụng thẻ tín dụng do Việt Nam phát hành
nói chung và NHNT phát hành nói riêng.
Tuy số Master Card phát hành tăng lên rõ rệt nhưng doanh số sử dụng lại
không tăng nhanh chứng tỏ việc sử dụng loại thẻ này vẫn còn tương đối ít. Sở dĩ
như vậy là do trong năm 1999, chính phủ đã đưa ra chính sách kích cầu nên đã làm

giảm giá của một số mặt hàng tiêu dùng trong nước. Hoạt động kinh doanh nhà
hàng khách sạn, du lịch có chiều hướng giảm (có nơi giá khách sạn giảm xuống tới
30%). Thẻ tín dụng của NHNT có một phần sử dụng trong nước nên doanh số sử
dụng giảm xuống.
Sang đến năm 2000, tình hình phát hành 2 loại thẻ này tuy có tăng nhưng
còn chậm. Trong năm nay lại xảy ra sự chênh lệch số thẻ phát hành giữa Visa Card
và Master Card. Số lượng thẻ Master Card giảm nhiều, khoảng 466 thẻ (giảm
71,7%) so với năm 1999. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do thói quen
sử dụng thẻ Visa Card, một phần là vì thời gian đầu máy in thẻ của NHNT không
in được do loại thẻ Master Card có độ kháng từ cao nên buộc phải nâng cấp, buộc
các chủ thẻ phải chuyển sang dùng thẻ Visa. Tuy nhiên, doanh số sử dụng thẻ
Master Card lại không giảm mà lại tăng chút ít so với 1999, tăng 2,3%. Như vậy
chứng tỏ khách hàng cũng đã dần quen thuộc với sử dụng thẻ Master Card.
Ngược lại so với Master Card, năm 2000 số lượng thẻ Visa đã tăng lên đáng
kể, lớn nhất trong 3 năm gần đây, với số lượng 1.143 thẻ, tăng 523 thẻ, với tỷ lệ
tăng 58,8% so với năm 1999. Đạt được thành tích như vậy, một phần là do sự nỗ
lực của cán bộ phòng thẻ trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tăng
cường việc khuếch trương quảng cáo cho sản phẩm dịch vụ này, một phần là do
máy in thẻ Visa Card đã được sửa chữa, ít trục trặc như những năm trước, do đó đã
không gây ấn tượng khó chịu cho chủ thẻ. Qua đây có thể nhận thấy rằng khả năng
việc mở rộng phát hành Visa Card là rất triển vọng. Vì vậy NHNT cần chú ý đến
hoạt động phát hành Visa Card.
Tổng chi tiêu của chủ thẻ đối với hai loại thẻ năm 2000 đã tăng lên nhiều
hơn so với năm 1999 là 15% (từ 61.000 triệu VND năm 1999 lên 69.340 triệu
VND năm 2000) chứng tỏ việc sử dụng thẻ của khách hàng đã trở nên quen thuộc
và đã có sự tự tin về thẻ do NHNT phát hành hơn.
Sang năm 2001, hoà cùng với xu thế đi lên của nền kinh tế đất nước trong
năm đầu của thế kỷ 21, doanh số phát hành thẻ tại NHNT VN cũng đánh dấu một
bước phát triển vượt bậc. So với năm 2000, tổng số thẻ phát hành cho cả hai loại
thẻ là Visa và Master Card là 3.057 thẻ, tăng 131,7%, đưa tổng số thẻ từ khi phát

hành đến nay là hơn 9000 thẻ. Số thẻ phát hành tăng nhiều như vậy là so NGNT đã
tìm nhiều biện pháp khắc phục để hạn chế những nguyên nhân yếu kém trước đây.
Cụ thể là NHNT đã cải tiến công nghệ , đầu tư nhân lực, trí tuệ, nâng cao trình độ
nghiệp vụ, nhằm mục tiêu đem đến cho khách hàng một chất lượng dịch vụ cao
hơn. Vì vậy, cho tới nay máy in thẻ rất ít khi bị hoảng vặt, chất lượng in thẻ bảo
đảm hơn, đẹp hơn, không còn tình trạng ảnh của chủ thẻ bị hỏng, phai mờ như
trước đây, cho phép NHNT tăng thời hạn hiệu lực của thẻ lên 2 năm, theo nguyện
vọng của các chủ thẻ.
Tuy nhiên, máy in thẻ dự phòng cho tới nay vẫn chưa được trang bị một
cách đồng bộ, còn chắp vá, chưa có một hệ thống sự phòng về máy in thẻ. Sang
năm 2002, khi triển khai phát hành thẻ ATM, khối lượng thẻ sẽ là rất lớn. Nếu
không kịp trang bị máy dự phòng, thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng thẻ
để chi tiêu hoặc đi công tác xa, ngân hàng sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu một
cách kịp thời, dễ xảy ra sự mất tín nhiệm của khách hàng.
Mặc dù NHNT đã thực hiện phát hành khuyến mại một tháng miễn phí
thường niên cho thẻ Master, nhưng số lượng thẻ của cả hai loại thẻ do NHNT phát
hành vẫn còn chưa cân đối. Tuy trong 2001, số lượng phát hành thẻ của cả hai loại
thẻ đều tăng lên rõ rệt. Tuy thẻ Visa có số lượng phát hành cao hơn hẳn so với thẻ
Master Card, nhưng nếu tính về sự tăng trưởng phần trăm của từng loại thẻ qua
một năm thì thẻ Master lại có độ tăng trưỏng cao hơn. Thẻ Visa phát hành được
2.413 thẻ, trong khi đó số thẻ được phát hành của Master Card là 626 thẻ. Với con
số này, so với số lượng thẻ phát hành năm 2000 thì năm 2001 thẻ Visa Card tăng
112,7% và thẻ Master Card tăng 240%. Đây là một kết quả thực sự khả quan cho
sự phát triển thẻ ở Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng, nhất là trong giai đoạn
tăng trưởng của nền kinh tế đất nước hiện nay.
Biểu đồ 1: Biểu đồ tình hình phát hành thẻ Visa và Master Card tại
NHNT VN (1996- 2000)
0
1000
2000

3000
4000
5000
6000
7000
1996 1998 2000 2002
Master Card
Visa Card
Từ biểu đồ 1 ta thấy mặc dù phát hành sau nhưng số lượng thẻ Visa Card là
lớn hơn rất nhiều so với Master Card. Điều này chứng tỏ thẻ Visa Card có uy tín
với khách hàng nhiều hơn. Tuy nhiên do có sự chênh lệch qua nhiều giữa hai loại
thẻ nên NHNT bên cạnh việc tăng số lượng Visa Card cũng cần có những chính
sách thích hợp để cả hai loại thẻ được phát triển đồng đều.
Biểu đồ 2: Tình hình chung về phát hành thẻ ở NHNT VN
(1996-2002)

×