Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.9 KB, 18 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG PHÁT
HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM
I TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG THẺ TẠI VIỆT NAM
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay được đánh giá là khá ổn định và đang trên
đà phát triển
1
. Hệ thống NHTM Việt Nam cũng có những thay đổi đáng kể đặc biệt
trong công nghệ thanh toán ngân hàng, đưa những phương thức thanh toán hiện đại
của thế giới tiếp cận với thị trường Việt Nam, đồng thời đưa các hoạt động của
ngân hàng Việt Nam vào thương trường quốc tế. Bối cảnh kinh tế thuận lợi này
chắc chắn sẽ tạo ra nhiều nhân tố tích cực, thúc đẩy quá trình phát triển dịch vụ thẻ
tín dụng - một phương tiện thanh toán thuận lợi, được chấp nhận rộng rãi - dần mở
rộng phạm vi sử dụng và thanh toán thẻ.
Trước hết, công nghệ tin học đang có điều kiện phát triển và ứng dụng rộng
rãi ở Việt Nam. Đây là một cơ sở tốt để tạo ra sự phát triển của dịch vụ thẻ thanh
toán. Nhận thức cũng như kiến thức của xã hội về công nghệ cũng sẽ thay đổi theo
hướng tích cực hơn.
Theo các chuyên gia kinh tế, với đà phát triển như hiện nay, trong vòng 05
năm tới, thu nhập của dân cư sẽ tăng từ 380USD/người/năm lên
600USD/người/năm
2
. Điều này cũng phù hợp với nghị quyết của Đại hội Đảng IX
là trong vòng 10 năm tới thu nhập bình đầu người sẽ đạt 700USD/người/năm. Tuy
vẫn là nước có mức thu nhập bình quân thấp, khoảng cách về thu nhập giữa các
nhóm dân cư vẫn còn lớn nhưng chắc chắn bộ phận dân cư có mức thu nhập cao sẽ
ngày càng tăng lên. Thêm vào đó, ngoài việc kiến thức xã hội về công nghệ được
phát triển một cách tự nhiên cùng với quá trình hội nhập và bước tiến của khoa học
cũng có nhiều thay đổi tiến bộ theo hướng thuận lợi cho ứng dụng sản phẩm mang
tính công nghệ như dịch vụ thẻ thanh toán. Hiện nay, dân cư các đô thị Việt Nam
chiếm khoảng 25 - 30% dân số trong cả nước, trong đó có một tỷ lệ cao những


người đang học tập và công tác ở độ tuổi dưới 45 có những kiến thức cơ bản về tin
học và khả năng tiếp nhận dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ. Như vậy, sau
5 - 7 năm nữa, đối tượng có khả năng tiếp nhận sản phẩm mới sẽ được mở rộng ra
lứa tuổi dưới 50 - 52 tuổi và chiếm tỷ trọng lớn trong những người trong độ tuổi
lao động ở thành thị. Cùng với thu nhập tăng, quỹ chi tiêu thường ngày của người
1 Báo cáo Phát tri n Vi t nam World Bank 2001–ể ệ
2 Nh trênư
dân cũng tăng tạo điều kiện cho họ dễ dàng chấp nhận sử dụng những dịch vụ ngân
hàng và phương tiện thanh toán mới.
Môi trường thương mại cũng sẽ thay đổi tích cực hơn với sự ra đời của các
trung tâm thương mại, dịch vụ, siêu thị, các cửa hàng tự chọn sẽ làm thay đổi tập
quán người tiêu dùng, tạo điều kiện để ứng dụng các cộng cụ thanh toán không
dùng tiền mặt.
Một nhân tố không thể thiếu là môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện
hơn tạo nên nền tảng cho việc ứng dụng các dịch vụ ngân hàng mới. Nhà nước ta
có chủ trương thực hiện nhà nước pháp quyền, xây dựng hệ thống pháp luật; Chính
phủ chắc chắn sẽ có những biện pháp nghiêm minh hơn về pháp luật để xây dựng
hệ thống văn bản dưới luật; công khai hoá thu nhập của mọi người dân; có giải
pháp huy động, không lãng phí tiền nhàn rỗi trong dân cư. Ngân hàng Nhà nước sẽ
có những chủ trương mang tính nguyên tắc mở đường cho các NHTM mạnh dạn
đầu tư, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới nhằm tăng tính cạnh tranh
và khả năng cạnh tranh và hội nhập của các NHTM. Trong điều kiện ấy, các quy
chế liên quan đến tín dụng, thanh toán, quản lý ngoại hối, kế toán còn nhiều vấn đề
trở ngại cho việc phát hành và thanh toán thẻ chắc chắn sẽ được bổ sung, chỉnh
sửa, hoàn thiện.
Với những điều kiện thuận lợi về mọi mặt, trong những năm tới đây, dịch vụ
thẻ thanh toán sẽ có những bước chuyển biến tích cực. Đó là chưa kể đến tốc độ
tăng trưởng ổn định của hoạt động kinh doanh thẻ những năm gần đây, có thể dự
báo một thị trường đầy tiềm năng cho thẻ tín dụng tại Việt nam của Vietcombank
nói riêng và các NHTM Việt Nam nói chung. Thành công bước đầu trong công tác

thanh toán thẻ là đã vượt qua được tình trạng trì trệ làm giảm lòng tin của khách
hàng, cải thiện chất lượng dịch vụ thanh toán kịp thời, an toàn, chính xác có thể
sánh với nhiều nước trong khu vực.
Trong tương lai không xa, thẻ do các NHTM Việt Nam phát hành sẽ phù hợp
hơn với nhu cầu của nhiều tầng lớp dân cư. Hạn mức tín dụng và thanh toán thẻ sẽ
hạ thấp hơn hiện nay để mở rộng cho chi tiêu nội địa. Thẻ thanh toán sẽ không chỉ
được sử dụng để rút tiền mặt, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiếp nhận các dịch
vụ ngân hàng khác mà còn có thể sử dụng để gọi điện thoại, sử dụng như chứng
minh thư nhân dân… và tiến tới cũng sẽ phát hành loại thẻ liên kết giữa các ngân
hàng và các doanh nghiệp như bưu điện, xăng dầu, hàng không.
Với nhu cầu sử dụng thẻ phát triển, mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ cũng sẽ
mở rộng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thẻ sẽ được chấp nhận để trả tiền dịch
vụ điện nước, xăng dầu, thanh toán cước phí điện thoại, thanh toán học phí,… Dịch
vụ thương mại điện tử cũng sẽ phát triển ở Việt Nam và thẻ sẽ là phương tiện thanh
toán thuận lợi nhất trong loại hình giao dịch này. Số lượng cơ sở chấp nhận thẻ sẽ
không chỉ dừng lại ở con số hàng nghìn mà sẽ đạt tới hàng trăm nghìn. Lượng giao
dịch thanh toán thẻ được xử lý tự động đảm bảo an toàn và phòng ngừa rủi ro cho
hoạt động thẻ dự báo sẽ đạt tới khoảng 90%
3
.
II. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM
“Với phương châm luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt, mục tiêu
của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là duy trì vai trò NHTM hàng đầu ở Việt
Nam và trở thành một ngân hàng quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới. Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam cam kết xây dựng mô hình tổ chức tiên tiến theo các
chuẩn mực quốc tế; đa dạng hóa hoạt động; đi đầu về ứng dụng công nghệ ngân
hàng hiện đại nhằm cung cấp những dịch vụ tài chính ngân hàng chất lượng cao
cho mọi thành phần kinh tế. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ giữ vững niềm
tin với đông đảo bạn hàng trong và ngoài nước

4
.”
Đó chính là tầm nhìn chiến lược mà ban lãnh đạo ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam đề ra cho cho giai đoạn 2000-2005. Trên cơ sở đường lối chung này, mỗi
phòng nghiệp vụ sẽ có hướng hoạt động kinh doanh riêng của mình.
Dịch vụ thẻ của NHNT- một trong những dịch vụ ngân hàng hiện đại nhất -
còn gắn với hệ thống chương trình ngân hàng bán lẻ Silverlake Vietcombank
Vision 2010. Vì vậy, thời gian tới chiến lược kinh doanh thẻ rất được chú trọng.
Theo đó, chiến lược phát triển thẻ của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
như sau:
1. Thành lập Trung tâm Thẻ hoạt động độc lập. Hiện nay, phòng Quản lý
thẻ trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, có cơ cấu tổ chức
hoạt động giống như mọi phòng kinh doanh khác. Tới đây, ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam sẽ tách phòng Quản lý thẻ ra, thành lập Trung
tâm thẻ có cơ cấu hạch toán thu nhập, chi phí, lợi nhuận kinh doanh
độc lập để nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động quản lý thẻ, mở rộng
và chuyên môn hoá cho từng bộ phận: phát hành, thanh toán, cấp
phép, tra soát, quản lý rủi ro.
2. Củng cố các các sản phẩm hiện có, đưa ra các sản phẩm mới. Hiện
nay, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mới chỉ phát hành thẻ tín
dụng VCB –Visa, VCB-Mastercard và VCB Amex, cùng các loại thẻ
thanh toán, thẻ rút tiền mặt VCB Connect 24. Với mục đích đa dạng
hoá các loại hình thẻ, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, trong giai
3 Báo cáo c a Phòng qu n lý th , 12/2002ủ ả ẻ
4 Báo cáo Th ng niên NHNT 2001ườ
đoạn tới đây, ngoài việc củng cố các loại thẻ hiện có, Vietcombank dự
định sẽ đưa ra một số loại thẻ mới:
 Củng cố việc phát hành thẻ ATM, đặc biệt là triển khai hệ thống
ATM quốc tế – cho phép rút tiền mặt bằng bất cứ loại thẻ nào như
thẻ Quốc tế (thẻ tín dụng quốc tế Visa, MasterCard, thẻ Maestro,

Visa Plus…) hay thẻ nội địa do các ngân hàng trong nước phát
hành. Việc này đã được triển khai tốt trong năm 2002 và sẽ được
nâng cấp chất lượng dịch vụ trong hai năm 2003 và 2004.
 Phát hành thẻ ghi nợ, cho phép khách hàng chi tiêu trên số dư tài
khoản của mình mà không phải chịu lãi suất tín dụng nhưng cũng có
thể tiêu quá số dư nếu được sự cho phép của ngân hàng.
 Phát hành thẻ liên kết (Co- brand) với các tổ chức, công ty trong
nước như hàng không, bưu điện, du lịch… với mục đích khai thác
hiệu quả nhất đối tượng khách hàng chung của các đơn vị có mối
quan hệ làm ăn thường xuyên, lâu dài…
 Phát hành thẻ công ty (Corporate/Business Card). Thẻ này phát
hành theo yêu cầu của các công ty, cho nhân viên của các công ty.
Chi tiêu của thẻ sẽ do công ty thanh toán.
3. Mở rộng mạng lưới CSCNT. Đây tiếp tục là một chính sách trọng tâm
của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: giảm phí đối với các CSCNT
có doanh số thanh toán lớn, ổn định, trang bị thêm một số máy EDC,
CAT cho các CSCNT của NHNT. Đồng thời tiếp tục tăng thêm số
CSCNT mới.
4. Triển khai chấp nhận thanh toán trên Internet, E-commerce: dần đưa
thẻ do Vietcombank phát hành vào thanh toán trên mạng Internet với
các giao dịch điện tử.
5. Đầu tư vào các chiến lược marketing để mở rộng thị trường sử dụng
và thanh toán thẻ: tăng chi phí cho marketing để nghiên cứu phát triển
các loại thẻ mới, quảng cáo, khuyến mại cho khách hàng sử dụng và
thanh toán thẻ
5
.
III. CÁC GIẢI PHÁP MỞ RỘNG KINH DOANH THẺ TẠI NGÂN HÀNG
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
Thẻ là phương tiện thanh toán, sử dụng chủ yếu cho chi tiêu và mua sắm cá

nhân thay thế cho tiền mặt. Nếu như các NHTM Việt Nam có thể phổ biến việc sử
dụng thẻ cho khoảng 5-10% dân số cả nước nhằm vào các đối tượng đang sinh
5 Báo cáo c a Phòng qu n lý th NHNT, 2001ủ ả ẻ
sống ở các thành phố, thị xã và tạo điều kiện cho việc sử dụng thẻ ở hầu hết các
điểm cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho chi tiêu cá nhân thì số lượng thẻ ở trong
nước có thể lên tới con số hàng nghìn thẻ mỗi năm, lớn gấp hàng trăm lần so với số
lượng thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành hiện nay. Vấn đề đặt ra là các
ngành chức năng sẽ trợ giúp như thế nào và Vietcombank nói riêng cũng như các
NHTM nói chung sẽ triển khai những biện pháp gì để khai thác được tiềm năng đó
trong những năm tới.
Hệ thống ngân hàng tại một số nước châu Á như Trung Quốc, Singapore,
Đài Loan, Malayxia… đã đạt được những thành công trong lĩnh vực thẻ chỉ trong
một thời gian ngắn nhờ sự phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan và sự hỗ
trợ đặc biệt của chính phủ.
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài này cố gắng đưa ra một số
giải pháp cũng như kiến nghị để thúc đẩy mở rộng phát hành và thanh toán thẻ tín
dụng tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
1. Vietcombank – Ngân hàng phát hành
1.1 Hoàn thiện và đơn giản hoá quy trình phát hành:
Hiện nay, Vietcombank phát hành thẻ chủ yếu dựa trên thế chấp và ký quỹ
với mức ký quỹ là 125% hạn mức thẻ đồng thời quy trình thẩm định phát hành thẻ
của Vietcombank cũng rất chặt chẽ. Với cách thức ngân hàng sẽ không lo rủi ro
không thu được nợ nhưng lại gây ra nhiều khó khăn cho khách hàng muốn sử dụng
thẻ dẫn đến số lượng thẻ hạn chế.
Chính vì vậy, để tiến tới tăng số lượng thẻ phát hành trước hết Vietcombank
cần hoàn thiện và đơn giản hơn nữa quy trình phát hành thẻ. Khách hàng sử dụng
thẻ không chỉ đơn thuần làm phương tiện thanh toán mà còn như một phương thức
tăng khả năng tài chính ngắn hạn. Vì vậy, thẩm định để phát hành thẻ nên xét đến
tính ổn định của thu nhập, uy tín của khách hàng và coi đó là hình thức đảm bảo
(tín chấp) một cách linh hoạt hơn là cứ cứng nhắc với các điều kiện về thế chấp, ký

quỹ. Để làm tốt điều này, Vietcombank cần phát triển hơn nữa mạng lưới tài khoản
cá nhân và phối hợp với một số công ty, doanh nghiệp để khuyến khích họ trả
lương cho nhân viên vào tài khoản tại Vietcombank rồi căn cứ vào đó có thể xác
định tình hình hoạt động tài chính của từng cá nhân để khuyến khích sử dụng thẻ.
Ngoài ra, những bất cập trong phát hành thẻ cũng cần được nhìn nhận và
phải khắc phục những thủ tục phiền hà trong phát hành thẻ tại chi nhánh phát hành
như thủ tục tiếp nhận hồ sơ, trong đó có cả đơn xin phát hành có sự phê duyệt của
giám đốc chi nhánh, thủ tục lưu giữ hồ sơ… Quá trình này cần sửa đổi, đơn giản
hoá để dễ dàng thuận lợi cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn, hiệu quả
của quá trình thẩm định.
1.2 Thực hiện chiến lược Marketing rộng rãi:
Hiện nay thẻ còn là một phương tiện thanh toán tương đối mới ở Việt Nam.
Vì vậy, rất cần quảng cáo, tiếp thị cho sản phẩm thẻ đến mọi đối tượng khách hàng
hàng khác nhau. Trong khi đó, khâu marketing thẻ của các ngân hàng thương mại
Việt Nam và của Vietcombank còn chưa hiệu quả. Đại đa số người tiêu dùng và
phần lớn người cung cấp dịch vụ, tiện ích trong nước đều chưa quen loại hình
thanh toán bằng thẻ thay cho tiền mặt. Thẻ mới chỉ phổ biến trong một số ít dân cư,
chủ yếu là cán bộ ngân hàng, quan chức chính phủ, những người có người thân
sinh sống, học tập và làm việcở nước ngoài, và một số ít trí thức. Vì vậy, muốn cho
thẻ được sử dụng rộng rãi thì rất cần có một chiến lược marketing thẻ với các chính
sách tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại mạnh mẽ… đến mọi tầng lớp dân cư.
 Đầu tư cho quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát
thanh, truyền hình…) hay các panô quảng cáo trên đường phố. Làm các chương
trình tìm hiểu cũng như giải đáp thắc mắc về thẻ trên truyền hình, phổ biến kiến
thức về thẻ cho mọi đối tượng dân cư. Đồng thời, Vietcombank cũng nên thực hiện
các hoạt động tài trợ cho các cuộc thi kiến thức, trò chơi kinh tế…để nhân đó
truyền bá về thẻ cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng.
Ngoài ra, công nghệ thông tin phát triển, Internet cũng là một phương tiện
hữu hiệu để quảng cáo cho sản phẩm thẻ cũng như cho Vietcombank-NHPH.
 Dựa vào tâm lý khách hàng thích mua hàng hoá với giá rẻ, Vietcombank có thể ký

hợp đồng đại lý với một số siêu thị, cửa hàng để họ chấp nhận giảm giá khi khách
hàng thanh toán bằng thẻ của Vietcombank phát hành. Đổi lại, Vietcombank sẽ có
chế độ thưởng cho CSCNT tính trên % số tiền trên hoá đơn thanh toán bằng thẻ
Vietcombank. Các CSCNT sẽ được Vietcombank giới thiệu với khách hàng khi
phát hành thẻ cho họ. Thực hiện theo cách này, không những tạo ra đòn bẩy
khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ mà còn giúp các CSCNT tăng doanh số bán
hàng, chủ thẻ được giảm giá. Tất nhiên, giải pháp này chỉ thực hiện trong một giai
đoạn ngắn cho đến khi thẻ do Vietcombank phát hành trở nên quen thuộc với
khách hàng.
 Tăng cường việc tiếp cận, khuyến mại để quảng cáo về sử dụng thẻ cho
những đối tượng khách hàng tiềm năng như các công ty lớn, công ty liên doanh,
các văn phòng đại diện nước ngoài ở Việt Nam…, phối hợp với họ để phát hành
một số lượng thẻ lớn cho nhân viên của họ với các điều kiện ưu đãi hơn.
 Đầu tư cho việc nghiên cứu, đưa ra những sản phẩm thẻ mới: thẻ công
ty, thẻ liên kết, thẻ ATM kiêm thanh toán, thẻ có hạn mức tín dụng thấp (hạn mức
nhỏ hơn 10 triệu) để chi tiêu trong nước… nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng, phong
phú của khách hàng đồng thời thoả mãn cả đối với những đối tượng khách hàng có
thu nhập trung bình…
Trong điều kiện hiện nay, marketing thẻ nên nhằm vào đối tượng khách
hàng mục tiêu là dân cư ở thành thị gồm những người làm việc trong cơ quan nước
ngoài, cơ sở liên doanh, văn phòng đại diện quốc tế đặt trụ sở tại Việt Nam hay
những người làm việc trong những ngành có thu nhập cao như dầu khí, bưu điện,
hàng không, chủ doanh nghiệp… Đây là những đối tượng có thu nhập cao, ổn định
lại hay có điều kiện đi du lịch nước ngoài, công tác trong và ngoài nước, ăn uống ở
nhà hàng, nghỉ ở khách sạn… Ngoài ra còn có một bộ phận lớn người nước ngoài
là các nhà đầu tư, chuyên gia nước ngoài… có nhu cầu chi tiêu thường ngày lớn.
Một bộ phận nữa có xu hướng tăng lên là học sinh, sinh viên đi học tập ở nước
ngoài được gia đình bảo lãnh sử dụng thẻ ở nước ngoài. Trên đây là những đối
tượng khách hàng chính mà Vietcombank cần chú ý khi marketing, phát triển việc
phát hành thẻ.

1.3 Hợp lý hoá chi phí sử dụng thẻ:
Hiện nay, chi phí sử dụng thẻ còn nhiều bất hợp lý. Ngoài phí thường niên,
chủ thẻ còn phải trả thêm lãi suất cho khoản tín dụng chi tiêu, phí chậm trả, phí rút
tiền mặt, phí cấp thẻ lần đầu tiên… Các khoản phí này làm cho việc sử dụng thẻ trở
nên đắt hơn nhiều so với chi tiêu bằng tiền mặt. Thêm nữa, lãi suất đối với tín dụng
thẻ cao hơn so với lãi suất tín dụng thông thường là một điều bất hợp lý. Vì vậy,
hợp lý hoá các loại phí cho sử dụng thẻ là một điều cần chú ý điều chỉnh để mở
rộng hơn nữa việc phát hành thẻ.
1.4 Tăng cường mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế để mở rộng phạm
vi sử dụng thẻ:
Trên cơ sở mối quan hệ sẵn có, Vietcombank phải thường xuyên củng cố
hơn nữa và mở rộng mối quan hệ với các Tổ chức thẻ quốc tế, trọng tài quốc tế,
các ngân hàng trong và ngoài nước. Mối quan hệ này sẽ giúp cho Vietcombank có
được uy tín trên thương trường, các sản phẩm thẻ của Vietcombank có điều kiện
thanh toán dễ dàng, thuận lợi cho người sử dụng thẻ. Đồng thời, thông qua các mối
quan hệ chặt chẽ này, Vietcombank có thể có được các thông tin thường xuyên, cập
nhật liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ để ngày càng hoàn thiện hoạt động
phát hành của mình, theo kịp sự tiến bộ của thế giới.
2. Vietcombank – Ngân hàng thanh toán
Thanh toán thẻ vốn là một thế mạnh của Vietcombank trên thị trường Việt
nam. Nhưng trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, Vietcombank cũng cần có
những biện pháp để hoạt động thanh toán ngày càng đem lại lợi nhuận lớn hơn.
2.1 Mở rộng mạng lưới CSCNT:

×