Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Hiện đại hóa văn học - bước ngoặt quan trọng của văn học hiện đại Việt Nam và Hàn Quốc (Nhìn từ hai tác giả tiêu biểu Hyun Jin Geon và Nam Cao)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.42 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC - BƯỚC NGOẶT QUAN TRỌNG </b>


<b>CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC </b>



(Nhìn từ hai tác giả tiêu biểu Hyun Jin Geon và Nam Cao)


PGS.TS Lê Hải Anh1


ThS. Park Gwi Ju2
<b>Tóm tắt: Việt Nam và Hàn Quốc cùng nằm trong một châu lục. Những biến </b>


động xã hội của hai đất nước có nhiều nét tương đồng. Năm 1945 cả Việt
Nam và Hàn Quốc đều giành được độc lập và bước sang kỷ nguyên mới.
Văn học vì thế cũng có những biến động tương tự. Nửa đầu thế kỷ XX, hai
nền văn học bước vào thời kỳ hiện đại hóa, chấm dứt thời kì văn học trung
đại - văn học chữ Hán. Bài viết nhìn lại q trình hiện đại hóa văn học của hai
nền văn học và nhìn sâu hơn vào 2 tác giả văn xuôi cụ thể - Hyun Jin Geon và
Nam Cao. Hai nhà văn có vị trí quan trọng và có những đóng góp to lớn cho
nền văn học hiện đại của hai quốc gia và là những nhà văn được chọn dạy
ở các cấp học trong chương trình giáo dục. Nghiên cứu hai nhà văn này còn
chỉ ra nét tương đồng của tư tưởng, quan niệm... trong sáng tác của họ và
thấy điểm thống nhất trong định hướng giáo dục của Việt Nam và Hàn Quốc.


<b>Từ khóa: văn học Hàn Quốc, văn học Việt Nam, hiện đại hóa, văn học so </b>


sánh, Hyun Jin Geon, Nam Cao.


<b>A. Đặt vấn đề</b>


Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia ở cùng châu lục, có chung người bạn
láng giềng là Trung Quốc và đều chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa và văn học
Trung Quốc. Cùng có một bối cảnh lịch sử tương đồng nữa đó là những ảnh hưởng
từ văn học phương Tây khi Nhật trị Hàn Quốc và Pháp trị Việt Nam từ cuối thế kỉ


XIX đến nửa đầu thế kỉ XX. Với những tiếp xúc văn hóa Phương Tây trên nhiều


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

phương diện, nền văn học của hai quốc gia có những biến chuyển mạnh mẽ nhằm
thoát khỏi thi pháp trung đại, hướng tới hiện đại hóa văn học. Q trình hiện đại
hóa văn học diễn ra trong nhiều năm với những đóng góp lớn lao của những người
mở đường, đặt bản lề quan trọng cho một nền văn học mới, hiện đại.


Hyun Jin Geon (1900 - 1943) là nhà văn lớn, một trong những cây bút tiên
phong, đặt nền móng cho thể loại truyện ngắn hiện đại, một trong những người
mở đường và dẫn dắt khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa, mở đường cho quá trình
hiện đại hóa văn học ở Hàn Quốc. Hyun Jin Geon là tác giả được chọn dạy ở trong
chương trình giáo dục Ngữ văn Hàn Quốc bậc học cấp 2 và cấp 3 với những tác
<i>phẩm: Ngày may mắn, Người vợ nghèo, Quê hương. Bậc đại học, Huyn Jin Geon </i>
là tác giả tiêu biểu trong học phần Chủ nghĩa hiện thực và văn học nửa đầu thế kỉ
<i>XX. Năm 2013, sách giáo khoa mới của Hàn Quốc chọn dạy tác phẩm Quê hương </i>
của ông trong chương trình cấp 3.


Nam Cao (1915 - 1954) là nhà văn lớn, là một trong ba phong cách truyện
ngắn hiện đại tiêu biểu Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, là nhà văn tiêu biểu cho văn
học theo khuynh hướng hiện thực, có vai trị hồn thiện q trình hiện đại hóa nền
văn học Việt Nam. Nam Cao là tác giả được chọn dạy trong chương trình giáo dục
<i>Ngữ văn Việt Nam ở các bậc học. Cấp 2 và cấp 3 chọn dạy các tác phẩm: Lão Hạc, </i>


<i>Đời thừa, Chí Phèo. Bậc đại học, Nam Cao là tác giả tiêu biểu trong học phần Văn </i>


học Việt Nam từ 1900 - 1945, cho khuynh hướng văn học hiện thực. Trong chương
trình sách giáo khoa mới đang biên soạn, Nam Cao là tác giả có định hướng được
chọn giảng dạy trong nhà trường.


Bài viết nhìn lại q trình hiện đại hóa văn học của hai nền văn học và nhìn


sâu hơn vào 2 tác giả văn xuôi cụ thể. Hyun Jin Geon và Nam Cao là hai nhà văn
có vị trí quan trọng và có những đóng góp lớn đối với nền văn học hiện đại của hai
quốc gia, những nhà văn được chọn dạy ở các cấp học trong chương trình giáo dục.
Nghiên cứu hai nhà văn này còn chỉ ra nét tương đồng của tư tưởng, quan niệm...
trong sáng tác của hai nhà văn lớn, tiêu biểu, vừa để thấy điểm thống nhất trong
định hướng giáo dục của Việt Nam và Hàn Quốc.


<b>B. Nội dung</b>


<i><b>1. Đời sống văn học và quá trình hiện đại hóa văn xi nửa đầu thế kỉ XX</b></i>


<i><b>1.1. Văn học Hàn Quốc</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cũ và ý thức tiếp nhận nền văn minh phương Tây mới mẻ, hiện đại. Trong lịch sử
văn học Hàn Quốc, tiểu thuyết (văn xuôi) là thể loại phù hợp và thể hiện đầy đủ
những biến động của xã hội Hàn Quốc. Tiểu thuyết mới vừa đóng vai trị là cầu nối
giữa tiểu thuyết cổ đại và tiểu thuyết hiện đại, vừa chứa đựng tư tưởng xã hội thời
kì khai hóa nhiễu loạn và dự đốn về tương lai, nói cách khác trong tiểu thuyết mới,
có cả đặc tính, chức năng của tiểu thuyết cổ đại và tiểu thuyết hiện đại. Và thời kì
<i>trọng tâm của nó là vào những năm 1900 - 1910 với các tác phẩm Máu và nước mắt </i>
<i>của Lee In Jik và Vô cảm của Lee Kwang Soo.</i>


Đặc trưng của tiểu thuyết mới là bắt đầu nhận thức về tính hư cấu của tiểu
thuyết và đề cập đến những vấn đề hiện thực, khác xa với tiểu thuyết cổ đại. Do đó
tiểu thuyết mới bắt đầu truyền tải những thơng điệp có ý nghĩa qua miêu tả hồn
cảnh và tâm lí nhân vật. Tuy nhiên, nó vẫn cịn mang tính chất của tiểu thuyết cổ
đại nên nếu xét trên phương diện văn phong hay chủ đề thì vẫn chưa hồn tồn
thốt khỏi lối văn cũ. Các tác giả tiêu biểu trong thời kỳ này là Lee In Jik, Lee
Hae Jo và Choi Chan Sik. Ngồi ra, thời kì này cũng thịnh hành các tiểu thuyết dịch
từ tiểu thuyết của Nhật. Một trong những người tiên phong mở đầu cho tư tưởng


hiện thực của tiểu thuyết Hàn Quốc chính là tác giả Lee Kwang Soo. Truyện dài


<i>Vô cảm của ông được đánh giá là một tác phẩm để đời của văn xuôi hiện đại Hàn </i>


Quốc. Trước tiên, nếu xét về phương diện nhận thức, thì tác phẩm đã làm nổi bật
lên cái tôi của các nhân vật. Bên cạnh đó các câu văn được viết theo lối văn xi
và đề cao tính hiện thực của thông tin. Trong tiểu thuyết mới, những miêu tả tinh
tế thông qua lời thoại đã phát triển một cách vượt bậc và việc đưa không gian, thời
gian cụ thể cũng làm cảm giác chân thực tăng lên bội phần. Vào những năm 1910,
tác phẩm này được biết đến như một “điểm khởi đầu” trong lịch sử văn xuôi Hàn
Quốc. Tinh thần nổi trội của thời kì này chính là tư tưởng khai sáng và khai hóa.
<i>Do đó, chủ đề của tiểu thuyết mới là theo đuổi sự khai hóa văn minh và Vơ cảm </i>
của Lee Kwang Soo là tác phẩm đã tái hiện một cách rất chân thực tinh thần mưu
cầu sự khai hóa này.1


Những năm 1920 được biết đến với cái tên “thời đại bần cùng hóa”. Vì Hàn
Quốc đang đối mặt với nguy cơ mất nước, bị Nhật thâu tóm quyền lực, nên các
tác giả cùng với mộng tưởng khai sáng tiến bộ chẳng thể nào tránh khỏi hồn cảnh
cùng cực, nghèo khổ. Thời kì này, cái đói khát và sự thống khổ tràn ngập trong
sáng tác văn học. Các tác giả tiêu biểu là Kim Dong In, Yeom Sang Seob, Hyun
Jin Geon và Na Do Hyang. Hyun Jin Geon cho thấy khuynh hướng chủ nghĩa hiện
thực phê phán thông qua một loạt các tác phẩm viết về cuộc sống nghèo khổ như


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cái nghèo làm nền tảng để tập trung làm bật lên mối tương quan giữa cá nhân với
<i>xã hội hơn là mâu thuẫn giữa người với người. Tác giả Na Do Hyang với Cối xay </i>


<i>nước cũng quan tâm tới cuộc sống đói nghèo nhưng chưa khắc họa rõ nét về nhận </i>


<i>thức hiện thực như trong các tác phẩm của Hyun Jin Geon. Và KAPE, Cái chết của </i>



<i>Park Dol, “Ngọn lửa hông” của Choi Seo Hae, khắc họa sâu đậm sự tuyệt vọng, </i>


bế tắc của cuộc sống nghèo đói. Dù trong hồn cảnh như vậy nhưng những năm
1920 cũng là thời kì hoạt động sáng tác diễn ra sôi nổi trong lịch sử văn học Hàn
Quốc. Thêm vào đó, sự du nhập của những khuynh hướng văn học từ phương Tây
vào Hàn Quốc thông qua Nhật cũng làm đời sống văn học Hàn Quốc sôi động hơn.
Và Hyun Jin Geon được đánh giá là người mở đường cho thể loại truyện ngắn Hàn
Quốc hiện đại với lối viết mỉa mai châm biếm, nhà văn đã đề cập đến thế tiến thoái
lưỡng nan giữa cá nhân và xã hội một cách tinh tế, sâu sắc.


Những năm 1920 vừa là điểm khởi đầu vững chắc cho văn xuôi hiện đại Hàn
Quốc đồng thời cũng được gọi là thời kì đặc trưng của văn xi hiện đại. Những
sáng tác thời kì này đều thể hiện sự u ám, trầm uất và khuynh hướng văn học
phương Tây được du nhập lúc bấy giờ, nên có thể nói nó mang đến một diện mạo
mới, gây ảnh hưởng không nhỏ đến q trình sáng tác văn xi sau này.1


Những năm 30, văn xuôi chủ yếu tập trung vào sự phân chia thành thị và nông
thôn, một số về đề tài lịch sử. Thời kỳ này xuất hiện nhiều các tác phẩm văn xuôi
tâm lý, tác phẩm của các nữ văn sĩ và bên cạnh đó cũng bắt đầu xuất hiện những tác
phẩm ủng hộ Đế Quốc Nhật do sự đàn áp mạnh mẽ về văn hóa. Có những tác phẩm
<i>sử dụng lối viết trào phúng để tố cáo xã hội thời bấy giờ như Tầng lớp trí thức và </i>


<i>bánh xèo, Nước đục, hay những tác phẩm của Yu Chingo nói về cuộc sống thành </i>


<i>thị của thực dân như Thầy Kim và giáo sư T, Nữ thợ dệt. Lee Hyo Seok với Cái </i>


<i>đèn đỏ bị đánh vỡ đã nêu những mâu thuẫn giữa giai cấp thượng lưu và dân nghèo </i>


<i>thành thị. Còn Park Tae Won với tác phẩm Khung cảnh bờ mương đã cho thấy sự </i>
quan sát tỉ mỉ và tinh tế về cuộc sống đầy bất lực và mang bệnh của tầng lớp trí


thức… Ngồi ra cịn có những sáng tác về đề tài nông thôn của các tác giả như Lee
Kwang Soo, Sim Hoon Hye, Lee Moo Young, Park Young Jun, Lee Tae Jun, Kim
Yu Jeong, Kim Jeong Han… Thời kỳ này có sự gia tăng số lượng văn học nữ giới
với các tác giả tiêu biểu có Park Hwa Sung, Kang Kyeong Ae, Baek Shin Ae, Choi
Jeong Hee. Từ giữa những năm 30 các sáng tác đi sâu vào khắc họa con người, đời
sống tinh thần của con người.


Trước khi giải phóng (1945) khơng khí của văn học Hàn Quốc ảm đạm vì
phải chịu sự đàn áp, cưỡng chế vơ cùng mạnh mẽ của Nhật thơng qua chính sách
thực dân hóa, hạn chế ngơn ngữ báo chí, dùng theo tên Nhật Bản. Và kết quả là


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

phân chia thành người khuất phục trước Nhật, bán nước và người từ bỏ cuộc sống
giàu sang, không chịu khuất phục, ngoài ra một số nhà văn khác cũng phải chịu sự
khốn khổ khi đứng giữa ngã ba đường của sự tuyệt vọng, cạn kiệt sức lực. Những
tác giả tiêu biểu của thời kỳ này gồm có Hwang Soon Won, Choi Myong Ik, Jeong
Bi Seok, Kim Sa Ryang, Choi In Ok, Kwak Ha Shin, Choi tae Woong, Im Ok In...


Các tác giả tiêu biểu tạo nên hình thức và ý nghĩa của truyện ngắn Hàn Quốc
bắt đầu từ năm 1920 là Kim Dong In, Yeom Sang Seob và Hyun Jin Geon. Kim
Dong In đã phát triển quan điểm, nội dung tư tưởng qua cái nhìn của nhân vật ở
ngơi thứ nhất “tơi”, Yeom Sang Seob thì lại miêu tả nội tâm nhân vật một cách rõ
nét thông qua lối viết tự bộc bạch, cịn Hyun Jin Geon lại dùng chính những trải
nghiệm trên cuộc sống đời thực mà ông đang sống để mà quan sát, suy ngẫm về
một xã hội cận đại mà những người dân bị đè xuống tận đáy cùng.


<i><b>1.2. Văn học Việt Nam</b></i>


Năm 1858, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bọn
chúng đã thực hiện những chính sách và thủ đoạn đàn áp, thống trị thâm độc, dã
man làm cho xã hội Việt Nam nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân


tộc với thực dân Pháp, mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân với giai cấp địa chủ
phong kiến.


Sau hai cuộc khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu sắc
theo hướng hiện đại. Đô thị phát triển, xuất hiện lớp công chúng văn học mới (tầng
lớp tư sản, tiểu tư sản, thợ thuyền và dân nghèo thành thị), sự du nhập của văn hoá
phương Tây, báo chí và các nhà xuất bản phát triển mạnh... đã thúc đẩy văn học phải
đổi mới theo hướng hiện đại hoá trên mọi phương diện về quan niệm thẩm mĩ, về hệ
thống thi pháp (tính quy phạm, hệ thống ước lệ tượng trưng, tính chất sùng cổ, phi
ngã... đã bị phá bỏ). Các thể loại văn học phát triển mạnh và phong phú (thơ, tiểu
thuyết, truyện ngắn, kịch, phóng sự, phê bình văn học...). Chữ quốc ngữ được sử
dụng rộng rãi và thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm. Các nhà văn sáng tác mang tính
chun nghiệp hơn... Vào thời kì này, do đặc thù xã hội, văn học cũng có sự phân
biệt về hệ ý thức (ý thức hệ tư sản và ý thức hệ vô sản). Sự khác nhau giữa hệ ý thức
đã làm nảy sinh các dòng văn học khác nhau. Tuy nhiên, các bộ phận văn học khác
nhau lại có ảnh hưởng qua lại, làm cho bức tranh của nền văn học Việt Nam thêm
phong phú, đa dạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Phách... Đến những năm ba mươi của thế kỉ XX, cái tôi thực sự được khẳng định như
một xu thế tất yếu, trở thành khuynh hướng vận động chung của cả nền văn học. Sự
khao khát sống và sống trong cái tôi cảm xúc chân thật của mình đã làm cho con người
của thời đại này cảm thấy rõ sự gò bó của lễ giáo phong kiến. Khơng phải ngẫu nhiên
<i>mà khi các nhà văn Tự lực văn đoàn phất lá cờ chống lễ giáo phong kiến, các nhà Thơ </i>


<i>Mới mãnh liệt bày tỏ tình cảm, hy vọng và cả những buồn đau trong sâu thẳm tâm </i>


hồn, lập tức được cơng chúng nồng nhiệt đón nhận


Những nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố, Nguyên Hồng,... qua những sáng tác của mình đã phơi bày sự bất cơng của


xã hội, đấu tranh để đòi quyền sống cho những con người khốn khổ, tủi nhục nhất,
những con người “bé nhỏ”, “dưới đáy” của xã hội. Vấn đề mà các tác giả hiện thực
này chú ý là vấn đề giai cấp, vấn đề xã hội. Trong số những cây bút hiện thực ấy,
Nam Cao là nhà văn thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa
và khát vọng sống xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người. Ở Nam Cao,
ý thức cá nhân gắn với đời sống và ý thức xã hội, là sự hoà hợp giữa con người cá
nhân và con người xã hội. Chứng kiến con người vật vã trước nỗi khổ áo cơm, Nam
Cao nhận thức sâu sắc rằng: “Chừng nào người còn phải giật của người từng miếng
ăn thì mới có ăn, chừng nào một số người còn phải giẫm lên đầu những người kia
để nhơ lên, thì lồi người cịn phải xấu xa, bỉ ổi, tàn nhẫn và ích kỷ. Chất độc ở
<i>ngay trong sự sống” (Sống mòn). Ý thức cá nhân ở Nam Cao gắn liền với nỗi đau </i>
của nhà văn trước thực tế cuộc sống, trước kiếp làm người trong xã hội thực dân.
Hơn thế, nó cịn “biểu hiện trình độ tự giác của con người cá thể về sự tồn tại có ý
nghĩa của mình trong đời sống và thái độ khẳng định ý nghĩa ấy”1<sub>. Cái tôi ấy của </sub>


<i>Nam Cao đã hố thân vào những nhân vật trí thức như Điền (Giăng sáng), Hộ (Đời </i>


<i>thừa), Thứ (Sống mòn)... đến những nhân vật nông dân, những kẻ khốn cùng như </i>


<i>Lão Hạc (Lão Hạc), Chí Phèo (Chí Phèo),... qua đó thể hiện tư tưởng nhân văn </i>
sâu sắc và mới mẻ của ơng trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với cộng đồng, với
xã hội và nhân loại.


Cơng cuộc hiện đại hố văn học thể hiện trước nhất ở phương diện hình thức
nghệ thuật. Hiện đại hố văn học được bắt đầu bằng sự hình thành của nền văn xuôi
quốc ngữ. Đầu thế kỉ XX, việc sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác vẫn còn rất khiêm
tốn. Người ta vẫn sử dụng chữ Hán và chữ Nơm là chính. Nhưng văn học Hán Nôm
không phải là văn học đại chúng, công chúng hầu hết rất ít người sử dụng được chữ
Hán - Nơm. Hiện đại hố văn học buộc phải tính đến vấn đề chữ viết. Chữ quốc
ngữ là loại chữ dễ sử dụng, ngôn ngữ viết dựa trên ngôn ngữ nói, ngơn ngữ đời


sống nên nó phong phú, gần gũi với mọi tầng lớp trong xã hội. Chữ quốc ngữ được


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

sử dụng rộng rãi sẽ tạo nên một lớp công chúng mới đông đảo, nó sẽ thúc đẩy nền
văn xi Việt Nam phát triển. Cùng với việc truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ là
sự xuất hiện của báo chí và dịch thuật. Báo chí là nơi giới thiệu nhiều thể loại văn
học mới, giới thiệu những sáng tác bằng chữ quốc ngữ, giúp người đọc làm quen
với cách viết hiện đại, buộc phải loại trừ lối văn biền ngẫu, rườm rà... Ở Việt Nam,
ngơn ngữ báo chí được coi như những bước đi ban đầu cho ngôn ngữ văn xi hiện
đại. Từ báo chí, dịch thuật đến sáng tác là con đường hình thành và phát triển nền
văn xuôi quốc ngữ Việt Nam.


Từ đầu thế kỉ XX đến năm 1920 đã có một số sáng tác viết bằng văn xuôi quốc
<i>ngữ như : Chuyến đi Bắc kì năm Ất Hợi (1876), Chuyện đời xưa (1986) của Trương </i>
<i>Vĩnh Ký; Thầy Lazazo Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản... nhưng những tác </i>
phẩm này chưa có được sự bứt phá rõ rệt trong cách tân nghệ thuật vì phần lớn tác
giả chặng đường này vốn xuất thân Nho học, họ chưa dễ dàng thoát khỏi những
ràng buộc của thi pháp văn học thời kì trung đại.


Những năm 20 của thế kỉ XX, văn xuôi quốc ngữ đạt nhiều thành tựu đáng ghi
nhận. Nhiều nhà văn viết tiểu thuyết xuất hiện, đặc biệt ở miền Nam Việt Nam có Hồ
<i>Biểu Chánh (Chúa Tàu Kim Qui - 1922, Cay đắng mùi đời - 1922, Cha con nghĩa </i>


<i>nặng - 1929...), Phú Đức (Châu về Hiệp Phố - 1926, Lửa lịng - 1929), Bửu Đình </i>


<i>(Nghĩa tình khẳng khái - 1923...)... ở miền Bắc Việt Nam có Đặng Trần Phất (Cành </i>


<i>lê điểm tuyết - 1921, Cuộc tang thương -1923), Hoàng ngọc Phách (Tố Tâm -1925), </i>


<i>Tản Đà (Giấc mộng lớn - 1929), Trọng Khiêm (Kim Anh lệ sử - 1925), Nguyễn </i>
<i>Trọng Thuật (Quả dưa đỏ -1925)... Về truyện ngắn, chặng đường này ở ngoài Bắc </i>


<i>nổi trội hơn cả là tác phẩm của Phạm Duy Tốn (Sống chết mặc bay, 1918) và Nguyễn </i>
<i>Bá Học (Câu chuyện một tối tân hôn, 1921). Đây cũng là chặng đường mà các nhà </i>
văn nỗ lực trong việc hồn thiện câu văn xi quốc ngữ. Tuy nhiên, dấu ấn của thi
pháp trung đại vẫn còn khá sâu đậm. Ba mươi năm đầu thế kỉ được coi như giai
đoạn giao thời giữa văn học trung đại và văn học hiện đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Từ chủ trương viết theo lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, có tính cách An Nam,
văn xi Tự lực văn đoàn đã làm một cuộc cách tân, bứt phá ngoạn mục. Sự mới mẻ,
giản dị, tinh tế trong các trang văn của những bậc “trí thức”ấy đã mang lại những giá
trị đáng kể cho công cuộc hiện đại hố văn học dân tộc. Nhưng nó cũng sớm trở nên
kiểu cách, sáo mòn trước lối viết linh hoạt, giàu sức sống của Nguyễn Công Hoan,
Vũ Trọng Phụng; lối viết uyển chuyển, tinh tế nhưng cũng rất chân thực của Thạch
Lam, Nguyễn Tn, Tơ Hồi; lối viết đa dạng, vừa góc cạnh, gân guốc, vừa tinh tế
của Nam Cao.


Suốt gần nửa thế kỉ, văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đã đạt được những thành tựu
lớn lao trong q trình hiện đại hố nền văn học dân tộc. Cơng cuộc hiện đại hố
được tiến hành dần từng bước, với sự đóng góp của nhiều tác giả trên nhiều lĩnh
vực. Là người kết thúc một trào lưu văn học, cũng là người đi sau cùng trong cơng
cuộc hiện đại hố văn học, Nam Cao vừa kế thừa, vừa phát huy cá tính sáng tạo của
mình và đã là một trong số nhà văn quan trọng kết thúc vẻ vang và hoàn thiện cơng
việc hiện đại hố văn học nước nhà.


<i><b>2. Những nhà văn tiêu biểu</b></i>


<i><b>2.1. Hyun Jin Geon (1900 – 1943)</b></i>


Tác giả Hyun Jin Geon hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ mà người tri thức luôn
bị bàng hồng, hỗn loạn dù họ có ở tại vị trí nào đi chăng nữa, họ cũng khơng thể
tìm thấy chính mình, khơng thể tìm thấy cái “tơi” riêng có, họ đang mắc kẹt trong


xã hội thuộc địa. Những bối cảnh đó chính là nền tảng trải dài trong suốt cuộc đời
và sự nghiệp của ông


Sinh ra trong thời đại Phong kiến thối nát, kìm hãm con người nhưng Hyun Jin
Geon được tiếp nhận nền giáo dục mới của thời kì cận đại nên ơng chịu ảnh hưởng
khơng nhỏ của sự giao thoa về văn hóa giữa hai thời kì. Sống trong khơng khí đầy
biến động của xã hội, ơng đã có mối quan tâm đặc biệt về mâu thuẫn xảy ra giữa
những tầng lớp trong xã hội và lấy đó làm đề tài lớn trong các tác phẩm của ơng.
Ơng bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình với bút danh là Hyun Jin Geon vào năm
1920, đây là thời kì làn sóng văn học mới bắt đầu ươm mầm tại Hàn Quốc. 1


<i>Năm 1920, tác phẩm Hoa hy sinh đăng trên báo “Khai thiên” đánh dấu bước </i>
đầu tiên trong sự nghiệp văn chương của Hyun Jin Geon, đến năm 1921 ông lần
<i>lượt cho ra đời các truyện ngắn như Người vợ nghèo, Xã hội khuyên xúi giục rượu </i>
và nhận được nhiều sự quan tâm, yêu thích trong văn đàn. Sau khi bút danh Hyun
Jin Gun chính thức xuất hiện trên văn đàn Hàn Quốc thì ơng đã viết báo cho các tờ
như báo Joseon, báo Thời Đại, báo Đông Á …


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Sáng tác của Hyun Jin Geon miêu tả về cuộc sống của tầng lớp dân nghèo
trong xã hội thực dân. Trong sáng tác của mình, ơng đã chia thế giới ra thành hai
nửa, một nửa thế giới được nhìn bằng con mắt của người tri thức, một nửa còn lại
được nhìn bằng con mắt của người dân nghèo, từ đó ơng cho chúng ta những cảm
giác chân thật về tác phẩm, về những mâu thuẫn, đối nghịch nằm trong nó. Cái tên
thân mật “người tri thức” để gọi một tầng lớp khác biệt với những tầng lớp khác
trong xã hội, thế nhưng cái tên ấy lại khơng cho ta thấy được những diện mạo tích
cực của bản thân nó, ngược lại, tác giả cho ta thấy được cả tính tính cực, tính tiêu
cực gọi chung là tính hai mặt của tầng lớp tri thức cũ.


Hyun Jin Geon là tác giả sáng tác theo phong cách hiện thực phê phán với
<i>lối viết mỉa mai châm biếm. Mặc dù thuật ngữ “Hiện thực phê phán” (realism) đã </i>


xuất hiện và đứng vững trên văn đàn Hàn Quốc từ lâu nhưng phải cho đến thời kì
của Hyun Jin Geon thì sức sống của Chủ nghĩa hiện thực trong văn học cận đại
mới phát huy được sức mạnh thật sự. Hyun Jin Geon vừa khắc họa một cách nổi
bật hiện thực của xã hội đương thời đồng thời cũng mang những nét đặc sắc trong
văn hóa với những tình cảm sâu sắc của cá nhân thông qua những hiện thực lịch sử
thời đại và những trải nghiệp trực tiếp của chính ơng. Thơng qua lối viết mỉa mai,
Huyn Jin Geon đã viết bằng cái nhìn khách quan của mình dưới góc nhìn từ xa so
<i>với sự việc. Tuy tác phẩm đầu tay của ơng Hy sinh hóa (1920) vấp phải những lời </i>
<i>phê bình gay gắt nhưng sau đó với những tác phẩm như Vợ nghèo (1921), Xã hội </i>


<i>xúi giục uống rượu (1921), Một ngày may mắn (1924)... ông đã không ngừng phát </i>


triển kĩ thuật trần thuật và đồng thời cũng truyền tải đến độc giả những câu chuyện
về một thế giới thực và khắc họa được bối cảnh thực tế của Hàn Quốc thời kì thực
dân qua cái nhìn khách qua.


Huyn Jin Geon được đánh giá là một trong những tác giả kiến lập hình thức
truyện ngắn.1<sub> Các tác phẩm của Huyn Jin Geon đều có đặc trưng chung là theo chủ </sub>


nghĩa tả thực. Ông chú trọng những câu chuyện xung quanh mình và hiện thực
cuộc sống thơng qua những trải nghiệm. Nhân vật xuất hiện trong tác phẩm của
Hyun Jin Geon luôn nỗ lực để vượt qua những khó khăn tưởng chừng như khơng
thể vượt qua được trong cuộc sống. Dù có thất bại, họ vẫn luôn quyết tâm khắc
phục gian khổ. Bởi vậy, Hyun Jin Geon trong văn đàn đương đại, luôn được đánh
giá như một nhân tài lạ thường mà phi thường trong nghệ thuật và là một trong
những nhà văn thể hiện cái nhìn đa chiều về hiện thực cuộc sống, tác động tới độc
giả bằng giá trị nhân văn, tỉnh táo, khách quan mà vẫn lay động thức nhận hết sức
sâu sắc. Vì thế sáng tác của Hyun Jin Geon không chỉ được giới nghiên cứu quan
tâm mà cịn rất có giá trị trong giáo dục thế hệ trẻ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i><b>2.2. Nam Cao (1915 – 1951)</b></i>


<i>Sáng tác của Nam Cao xuất hiện sau cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên (Tố Tâm) </i>
hơn mười năm, chưa đầy năm năm sau Tự lực văn đoàn và những cây bút hiện thực
(Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng), Nam Cao thuộc chặng đường
cuối cùng của q trình hiện đại hố văn học. Quá trình sáng tác của Nam Cao đan xen
giữa những tác phẩm viết theo cảm hứng lãng mạn (buổi đầu) đã có những tác phẩm
<i>viết bằng cảm hứng hiện thực (như bài thơ Tiếng khóc bên đường, các truyện Nghèo, </i>


<i>Một bà hào hiệp, Cái chết của con mực...). Sáng tác của Nam Cao cho thấy một giọng </i>


văn mới hình thành, có cái đắng chát về một thực tại lam lũ, phi lý. Cảm quan hiện
<i>thực ấy đã trở thành ý thức hoàn toàn tự giác ở Chí Phèo và những tác phẩm sau đó của </i>
nhà văn. Ngòi bút của Nam Cao là ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt, là tiếng nói “đau
<i><b>khổ”, “cất lên từ những kiếp lầm than”, từ những kiếp “sống mịn” khơng lối thốt. </b></i>


Thuộc lớp nhà văn ở cuối chặng đường q trình hiện đại hóa, Nam Cao vừa
được thừa hưởng từ lớp đàn anh đi trước nhưng cũng ln nỗ lực hết mình. Sáng tác
của Nam Cao vừa bình dị, chân thực nhưng cũng rất sâu xa, trí thức. Gân guốc, sống
động nhưng khơng xơ bồ, dễ dãi; tinh tế, uyển chuyển mà không sáo rỗng... Với học
vấn, ý chí và sự tinh nhạy, mỗi lần cầm bút nhà văn đều có ý thức lựa chọn phương
thức diễn đạt vừa để phù hợp với đối tượng miêu tả, vừa qua ngơn ngữ có thể truyền
tải những vấn đề sâu sắc, phức tạp của cuộc sống, của con người - những điều mà
nhiều khi chỉ nằm trong cảm nhận, ở khoảng lặng... những điều không thể viết ra.


Nam Cao thường viết về cuộc sống xung quanh mình, thậm chí viết về chính bản
thân mình. Mỗi trang văn của ơng thấm đẫm tư tưởng tình cảm của con người nhà văn
- con người có trái tim nhân hậu, gắn bó ân tình với những con người nghèo khổ. Nam
Cao thường hay “đóng cũi sắt tình cảm”, ít bộc lộ mình. Ngay từ khi còn nhỏ, Nam Cao
đã được theo bà nội và gia đình đến nhà thờ mỗi tuần. Những quy định, tiêu chí sống của


người theo đạo Thiên Chúa đã ngấm vào máu Nam Cao từ thuở thiếu thời. Sám hối, ăn
năn, suy xét bản thân đã trở thành đời sống đạo đức của người trí thức Nam Cao. Người
đọc có thể nhận thấy, rất nhiều nhân vật của Nam Cao biết ăn năn, sám hối và những
trang văn ấy thường là những trang văn hay, làm lay động lòng người.


Cuộc sống và tính cách ấy đã in đậm trong các sáng tác của Nam Cao. Đọc
các tác phẩm của ông, người đọc có thể nhận ra đó là một nhà văn sống nội tâm,
sâu sắc và rất hay suy tư, luôn luôn day dứt trước những vấn đề liên quan đến nhân
phẩm, nhân cách, lối sống của con người. Cá tính ấy đã làm nên một lối văn “lạnh
lùng mà sôi nổi, tàn nhẫn mà độ lượng, chua chát mà thương cảm. Văn Nam Cao
không ru mà lay tỉnh, không ve vuốt mà như quất vào người”1<sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao, dù viết về người nơng dân hay người
trí thức, mỗi trang văn của ơng đều tha thiết tình u và khẳng định những giá trị
tốt đẹp của con người. “Phải cố tìm mà hiểu”, phải xem xét đằng sau cái biểu hiện
dù là điên khùng, lưu manh (như Chí Phèo), dù bề ngồi có vẻ gàn dở, lẩm cẩm
(như Lão Hạc), dù là so đo, tính toán (như Thứ, San, Oanh...) họ vẫn là con người
và cịn có những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện, chân chính mà chỉ có con người
mới có. Suy tư, dằn vặt, trăn trở về cuộc sống, về kiếp người, những trang viết của
Nam Cao thường đạt tới một tầm khái quát nhân sinh to lớn nên đề tài dù hẹp mà
tư tưởng thì rộng lớn, sâu sắc.


Kỵ nhất cái lối viết văn “thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào”, Nam Cao
tự mình tìm cho mình một lối đi riêng, khơng màng đến “thị hiếu tầm thường của
độc giả”, khơng bị “rợp bóng” bởi các cây đại thụ đàn anh. Những cạnh tài của ông
đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ
tàn nhẫn của con người biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình”1<sub>. Điều đó cũng </sub>


được hình thành từ khát vọng khẳng định mình của Nam Cao. Khát vọng ấy được
nhà văn gửi gắm qua lời tuyên ngôn của Hộ (Đời thừa): “Văn chương không cần


đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi,
và sáng tạo những gì chưa có...”.


Nam Cao luôn thể hiện một khả năng sắc bén trong việc nắm bắt, khám phá
những tầng sâu của cuộc sống, của con người, đồng thời thể hiện những cảm xúc,
suy nghĩ chân thực của nhà văn về cuộc sống và con người. Với cảm hứng phân
tích và lí giải hiện thực, “khám phá con người trong con người”, khi viết về người
trí thức như trong “Đời thừa”, “Sống mịn” hay người nơng dân như trong “Lão
Hạc”, “Chí Phèo” … Nam Cao đều có cái nhìn đa chiều, thấy cả “rồng phượng
lẫn rắn rết” trong mỗi con người, làm thức tỉnh những giá trị cao đẹp của con
người và dành sự cảm thông thương xót, cơ hội sửa sai cho mỗi tội lỗi… Với sự
da diết và sâu sắc, với cá tính sáng tạo và lòng nhân ái và cả sự tự trọng của con
người đời thường và người nghệ sĩ Nam Cao, sáng tác của nhà văn luôn để lại sự
lay động, thức tỉnh và trân trọng đến người nghiên cứu, người đọc và thế hệ trẻ.
<b>C. Kết luận</b>


Văn chương ngày càng đổi mới theo hướng hiện đại nhằm bắt kịp xu thế thời
đại và những diễn biến phức tạp của cuộc sống. Cuộc sống đa chiều đòi hỏi văn
học phải mang tính đối thoại, khơng thể sử dụng cái nhìn đơn nhất, lời văn đơn


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

giọng đối với thế giới và con người. Thay đổi thi pháp sáng tác, quan niệm về văn
chương là nhu cầu tất yếu của mỗi nền văn học. Những bước đi đầu tiên của những
người góp phần làm thay đổi diện mạo nền văn học luôn luôn đầy thách thức, địi
hỏi cái nhìn khách quan, thấu đáo, sâu sắc và bản lĩnh với một trái tim nồng ấm có
khả năng làm lay động tâm thức mọi thế hệ. Nam Cao và Hyun Jin Geon tuy ở hai
đất nước khác nhau nhưng tài năng và tâm huyết của họ đã gặp một bối cảnh xã
hội giống nhau khiến cho ngòi bút họ tỏa sáng, trở thành những trụ cột quan trọng
của nền văn học mới ở hai quốc gia. Sáng tác của họ khơng nằm lại ở giá trị đương
thời mà cịn có giá trị nhân sinh sâu sắc. Và họ đã trở thành những tác gia có sức


lan tỏa, có tầm giáo dục cho mọi thế hệ. Sáng tác của họ không chỉ là kết tinh của
nỗ lực sáng tạo và những gì tha thiết nhất trong tâm thức đối với dân tộc mà cịn là
tài sản vơ giá ghi nhận bước trưởng thành, tính chất hiện đại của văn xuôi sau chưa
nhiều ngày rời bỏ thi pháp trung đại.


Việc trân trọng những nhà văn có tầm và có tâm, đưa sáng tác của họ vào
chương trình giáo dục các cấp cho thấy điểm tương đồng trong định hướng giáo
dục của hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc. Trong cuộc sống ngày hôm nay,
chúng ta cần hướng tới và mong muốn thế hệ trẻ có được sự nhận thức đúng đắn về
xã hội, ý thức dân tộc và giá trị làm người, cũng như cần giáo dục thế hệ trẻ phải
có sự nỗ lực và bản lĩnh sáng tạo khơng ngừng. Sáng tác của hai nhà văn Hyun Jin
Geo và Nam Cao có thể đáp ứng được định hướng đó.


<b>Tài liệu tham khảo</b>


<i>1. Kim Seon Hak, Luận cương văn học, Tài liệu văn học, 2012.</i>
<i>2. Kim Seon-Yong, Khái luận văn học, Tài liệu văn học, 2014.</i>


<i>3. Kim Dong-Sik, Con đường dẫn đến bộ mặt của Joseon trong Tuyển tập tiểu </i>


<i>thuyết Hyun Jin Geon. NXB Văn học và Tri thức, tr.358, 2008.</i>


<i>4. Lee Jae-sun, Lịch sử tiểu thuyết cận đại Hàn Quốc, Hong Sung Sa, tr.216, </i>
1979.


<i>5. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của các nhà văn, </i>
NXB Giáo dục Việt Nam, tr43, 1991.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>MODERNIZATION OF CULTURE - IMPRESSIVE </b>


<b>IMPRESSIONS OF MODERN LITERATURE IN </b>




<b>VIETNAM AND KOREA </b>



(Looked at from the two authors Hyun Jin Geon and Nam Cao)


Assoc.Prof Ph.D Le Hai Anh1


MA. Park Gwi Ju2
<b>Abstract: Korea and Vietnam lie on the same continent. Both countries also </b>


have a lot of similarities in social changes. In 1945, Korea and Vietnam gained
independence, and by entering a new age, both literatures experienced a
similar shift. In the first half of the 20th century, both countries’ literary worlds
entered the modern age as the medieval literature (Chinese letter literature)
came to an end. This thesis illuminates the modernizing the process of both
countries’ literary worlds and thoroughly examines the authors Hyun Jin
Geon and Nam Cao. Hyun Jin Geon and Nam Cao contributed greatly to both
countries’ literature and took an important position, and have been selected
by both countries’ education curriculum. Studying both of these authors can
not only reveal the similarities between the pure and clear ideology and
perspective in their creative activity but also reveal the similarities in both
countries’ intention of education.


<b>Keywords: Korean literature, Vietnamese literature, modernism, comparative </b>


literature, Hyun Jin Geon, Nam Cao.


1 University of Education;


</div>

<!--links-->

×