Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Doanh nghiệp Nhà nước ở thời kỳ trước đây hiện tại và tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.5 KB, 25 trang )

Doanh nghiệp Nhà nước ở thời kỳ trước đây hiện tại và tương lai
1- Những đặc trưng cơ bản của việc hình thành và phát triển của hệ
thống doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được hình thành ở Miền
Bắc từ năm 1954 và ở Việt Nam trở sau 1975, dựa trên 3 bộ phận chủ yếu sau:
- Một là, do quốc hữu hoá các doanh nghiệp của chính quyền cũ
- Hai là, do Nhà nước ta xây dựng từ nguồn vốn của ngân sách hoặc vốn
nợ và viện trợ của các nước, các tổ chức quốc tế - Đặc biệt các nước XHCN
cũ.
Ba là, do việc cải tạo các xí nghiệp của các nước tư bản trong nước khi
tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các giai cấp tư sản.
Do hình thái từ nhiều nguồn khác nhau như vậy, nên hệ thống doanh
nghiệp Nhà nước ở nước ta có đặ trưng lĩnh vực khác biệt do với các nước
trong khu vực và trên thế giới, đó là:
Các doanh nghiệp Nhà nước được xây dựng trên cơ sở những quan
điểm rất khác nhau, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, cơ
cấu kinh tế tự lực tự cường, phát triển kinh tế đã phương và xây dựng huyện...
Mặc dù có nhiều thiếu sót mà HĐ 6 đã phê phán, doanh nghiệp Nhà nước đã
có đóng góp lịch sử to lớn và đang chiếm vai trò rất quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân.
a- Quy mô các doanh nghiệp phần lớn là nhỏ bé, cơ cấu phân tán điều
này được thể hiện trên các phương diện sau:
* Về số lượng lao động
Trên 2/3 tổng số doanh nghiệp Nhà nước có sổ lao động dưới 200 người
chỉ có khoảng 4% doanh nghiệp có sổ lao động trên 1000 người. Những doanh
nghiệp có hàng trục ngàn công nhân viên với xuất hiện trong ngành khai
khoáng. Do quy mô lao động trong phần lớn các doanh nghiệp thuộc diện nhỏ
bé, nếu dẫu có hàng chục ngàn đơn vị 13 lao động trong toàn khu vực doanh
nghiệp Nhà nước để chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội
chưa đến 6%. Riêng lao động trong công nghiệp Nhà nước, mới chiếm khoảng
2% lao động xã hội


* Về mức độ tích tụ vốn xét mức độ tích tụ vốn. Doanh nghiệp Nhà
nước còn nhiều hạn chế, phần lớn có mức vốn quá thấp có thể thấy được
thông qua biểu sau:
Mức độ tích tụ (30.3.93)
Công ty
Tổng doanh
nghiệp Nhà
nước
Doanh nghiệp Nhà
nước Trung ương
Doanh nghiệp
Nhà nước ĐP
Số lượng

cấu
Số lượng

cấu
Số lượng

cấu
Tổng DNNN 8750 100 1655 100 7095 100
Vốn < 1 tỷ 4285 49 241 14,6 4044 57
1 < 5 tỷ 2865 32,7 570 34,4 22.95 32,3
5 < 25 1199 13.7 561 33,9 638 9.0
25: 100 187 3,3 195 11,8 9,2 1,3
> 100 114 1,3 88 5,3 26 0,4
Như vậy gần một nửa doanh nghiệp Nhà nước chỉ có vốn < tỷ đồng,
chia đều 20% doanh nghiệp Nhà nước có vốn > 5 tỷ đồng, cả nước chỉ có 401
doanh nghiệp có số vốn trên 20 tỷ. Số doanh nghiệp lớn với số vốn trên 100 tỷ

chiếm chỉ hơn 1% số doanh nghiệp.
Mức trang bị vốn cho 1 lao động của doanh nghiệp Nhà nước là
31.160.000 trong đó của doanh nghiệp Nhà nước 6B thương mại là
110.330.000 còn Nhà nước 12.620.000
b- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu: từ một số ít doanh nghiệp Nhà
nước được đầu tư vốn, phần lớn doanh nghiệp Nhà nước đã được thành lập
khá lâu, có trình độ kinh tế thấp, công nghiệp lạc hậu. Theo báo cáo điều tra
của bộ khoa học kỹ thuật- môi truờng cho thấy trình độ công nghệ trong các
doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam kém các nước khác từ 3 đến 4 thế hệ
(30 đến 40 năm) có doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ từ những năm 30 -
40. Nhiều thiết bị sau 14 - 15 năm mới được thay đổi trong khi ở các nước
khác là 5 năm. Theo số liệu thống kê, trong công nghệ có gần 26% thiết bị do
Liên Xô cung cấp, 24% của các nước Đông Âu gần 20% của các nước
ASEAN trên 18% là của các nước khác còn lại là tự chế.
Với cơ cấu đầu tư kỹ thuật, như trên ta thấy tránh đồng vộ của các
doanh nghiệp thấp, chỉ mới các 28% doanh nghiệp Nhà nước có trang thiết
bị tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ. Mức sử dụng thay thiết bị chỉ đạt 50%
công suất, do điều kiện kỹ thuật như vật và khả năng cung cấp tài chính của
Nhà nước cho doanh nghiệp Nhà nước giảm nên tình trạng máy móc thết bị
cũng yếu kém. Trên 50% TSLĐ của doanh nghiệp Nhà nước đã hao mòn
quá 1/2 chỉ có 26% TSLĐ hao mòn dưới 30%.
Với những gì đã nêu trên, nhiều doanh nghiệp khó có khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế và ngay cả với hãng nước ngoài trên thị trường
nội
địa vì hao phí vật chất quá lớn.
Có báo cáo còn cho thấy chỉ có khoảng 15% sản phẩm của ta đạt chất
lượng xuất khẩu 70% có thể tiêu thụ trong nội địa. số sản phẩm không tiêu
thụ được đã chiếm 10% tổng số lưu động của các doanh nghiệp, làm cho sự
khan hiếm về vốn cũng trở lên trầm trọng và gay gắt hơn.
c- Việc phân bổ về ngành và vùng còn bất hợp lý

Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước của chúng ta chủ yếu được bố trí ở
các thành phố lớn, nhiều vùng của đất nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, nguồn lao động dồi dào song dường như các doanh nghiệp không
có; Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu Long...
Phân bổ doanh nghiệp Nhà nước theo ngành như sau:
Ngành Số doanh nghiệp Tỷ trọng %
Công nghiệp 2271 39,7
Nông nghiệp 661 10,1
Lâm nghiệp 423 6,5
XD 1034 15,8
GTVT 236 3,6
Bưu điện 3 0,1
Thương nghiệp DV 1774 27,1
Ngành khác 142 2,2
Các ngành có nhiều vốn nhất là
Năng lượng 15039 tỷ
GTVT 4654
Công nghiệp nhẹ 3757
nông nghiệp và CNThực phẩm 3491
Thương mại 3433
Xây dựng 2157
Mức trang bị vốn cho 1 lao động không hợp lý
Thương nghiệp dịch vụ 35,3T/người
GTVT 34,5
Công nghiệp 30,6
Trong khi đó
Xây dựng 8,2
Lâm nghiệp 8,1
Nông nghiệp 13,9
2- Doanh nghiệp Nhà nước ở thời kỳ trước đây (KHHTT)

Vì nhận thức rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có 2 thành phần
TKQD và tập thể, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo nên Nhà nước
ta đã giành sự ưu tiên đặc biệt cho việc phát triển hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước. Nhờ đó hệ thống doanh nghiệp Nhà nước phát triển hết sức nhanh
chóng các doanh nghiệp Nhà nước có mặt ở khắc mọi ngành mọi lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân, có doanh nghiệp Nhà nước ở Trung ương, địa phương
theo thống kê đến 1989 cả nước có 12094 doanh nghiệp Nhà nước các loại với
trên 90% tổng số lao động kinh tế, cán bộ khoa học, quản lý được đào tạo có
hệ thống của cả nước.
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã đóng vai trò chủ yếu trong việc
sản xuất và cung cấp cho xã hội các lực lượng sản xuất, hàng hoá, dịch vụ tiêu
dùng cá nhân và xã hội
Điện phát ra chiếm 100%
Thép 100%
Máy cắt gọt kim loại 100%
Máy bơm nước 100%
Xi măng 100%
BCVT thông 100%
Vận tải đưởng sắt
Thuốc tân dược 100%
Giấy 100%
Bia chai 100%
Thuốc lá 100%
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong việc đóng
góp cho ngân sách Nhà nước.
Năm 1989 tổng số thuế Nhà nước thu được là 3128 tỷ trong đó thuế
thực thi công nghiệp thương nghiệp 308 tỷ, thuế XNK 383 tỷ, riêng thuế thu
từ KTQD đạt 2019 tỷ chiếm 64% có thuế nước trong thời kỳ này doanh
nghiệp Nhà nước đã đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân
3- Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Khi chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp
như trước nữa, mặt khác lại bị các thành phần kinh tế cạnh tranh lĩnh vực
mạnh mẽ, do vậy hàng loạt doanh nghiệp Nhà nước không trụ nổi buộc phải
phá sản hoặc giải thể.
Số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhiều kể từ năm 1990 - 1993
Thời gian Số doanh nghiệp Nhà
nước TT
Tỷ trọnh so với 1989
(%)
21 - 12 - 1989 12084 100
01 - 01 - 1992 9190 77
31.12.1992 8750 72
01.06.1993 7060 58.4
Trong tổng số 7060 doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động (01.08.93)
cũng có tới 375 doanh nghiệp không có khả năng tồn tại cần phải tiếp tục xử
lý.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng trên thực tế việc sắp xếp lại chỉ được tiến
hành ở các doanh nghiệp Nhà nước của địa phương còn doanh nghiệp Nhà
nước Trung ương vẫn tăng lên 16% và việc sắp xếp lại diễn ra không đáng kể
Mặc dù các doanh nghiệp Nhà nước từ năm 89 - 93 đã giảm gần 1 nửa
song có sự đổi mới về tổ chức quản lý, về kỹ thuật và công nghệ của các
doanh nghiệp Nhà nước còn lạc hậu nên sản xuất của hệ thống doanh nghiệp
Nhà nước vẫn tăng các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong
nhiều ngành kinh tế đặc biệt là trong những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư
lớn, công nghệ, kỹ thuật cao và ngành sản xuất và cung ứng loại hàng hoá và
dịch vụ công cộng. Đồng thời hệ thống doanh nghiệp Nhà nước vẫn là thành
phần kinh tế đóng góp nhiều nhất cho ngân sách Nhà nước
1990 1991 1992

1- Tốc độ phát triển kinh tế (GDP)
của nền kinh tế
5,32 6,0 8,3
2- Tỷ trọng kinh tế quốc doanh 34,0 36 40
3- Tỷ lệ đóng góp của quản trị kinh
doanh trong ngân sách Nhà nước
65 69 73
Tuy có những đổi mới quan trọng, có những bước tiến đáng kể trên
nhiều lĩnh vực, Nhưng hiện tại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước có những tồn
tại hết sức lớn, đó là:
Số lượng nhiều và phân tác: đến thời điểm 1/6/19939 còn 7060 doanh
nghiệp Nhà nước nếu là 576 doanh nghiệp. Không còn hoạt động thì doanh
nghiệp Nhà nước vẫn còn 6544 đơn vị trong đó 4573 doanh nghiệp do địa
phương quản lý và 1971 doanh nghiệp do Trung ương quản lý, trong đó doanh
nghiệp do địa phương quản lý trải khắp 53/53 tỉnh thành phối, Nơi ít nhất là
Trà Vinh 19 doanh nghiệp nhiều thành phố Hồ Chí Minh 458 doanh nghiệp.
Số doanh nghiệp trung ương thuộc 37 bộ và các cơ quan trung ương, nhiều
nhất là bộ Nông nghiệp mà doanh nghiệp thuộc phân 352 doanh nghiệp. Có
nhiều cơ quan trung ương không cần thiết phải thành lập doanh nghiệp nhưng
cũng có từ 1 đến vài chục doanh nghiệp như Ban Việt Kiều trung ương, UB
dân tộc miền núi Trung tâm khoa học và công nghệ quốc gia.
Các doanh nghiệp còn phân tán ở khắp các ngành nghề sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế. Trong đó nhiều ngành không nhất thiết phải có quốc
doanh hoặc không cần tập trung nhiều doanh nghiệp như vậy ví dụ:
CN:
- Sản xuất vật liệu xây dựng 358 doanh nghiệp
- Gỗ lâm sản 139 doanh nghiệp
- LTTP 403 doanh nghiệp
Nông lâm nghiệp
Trồng trọt 291 doanh nghiệp

Chăn nuôi 192 doanh nghiệp
Trồng rừng 257 doanh nghiệp
* Kỹ thuật và công nghệ lạc hậu:
Mặc dù trong những năm qua, kỹ thuật và công nghiệp sản xuất của
các nhà doanh nghiệp đã được đổi mới khá nhiều. Tuy nhiên so với Nhà
nước trong khu vực và trên thế giới kỹ thuật và công nghệ của nước ta vẫn
phụ thuộc vào lạc hậu, trình độ trang bị cho người lao động còn thấp theo
báo cáo của tổng cục thống kê vốn trang bị cho một bình quân của doanh
nghiệp Nhà nước mới đạt 245 thuộc đồng. Trong đó ngành trang bị cho là
khu nghiệp dịch vụ đạt 35,5 (Tđ) giao thông vận tải 34,5 (Tđ) thấp nhất là
lâm nghiệp 8,1 và xây dựng 8,2.
Điều đáng quan tâm là nhiều doanh nghiệp tiến hành đổi mới kỹ
thuật và công nghiệp phát triển nhưng do những lý do lại đi nhập các loại
kỹ thuật và công nghệ lạc hậu đã bị thế giới thải. Theo báo cáo của bộ công
nghiệp thì thời gian qua có 70% các doanh nghiệp của bộ đã nhập về cac
loại thiết bị và công nghệ lôi thôi.
* Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp:
Chuển sang cơ chế mới, các doanh nghiệp Nhà nước đều có người cố
gắng duy trì và phát triển sản xuất, gìn giữ đội ngũ lao động bằng cách cải tiến
kỹ thuật mở rộng mặt hàng kinh doanh, không ít doanh nghiệp đã có tiến bộ
đáng kể. đó là những lỗ lực rất đầy triển vọng xong hiệu quả kinh tế đối với
Nhà nước chưa có bước tiến tương xứng.
Tuy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước mấy năm nay
bắt đầu được phục hồi và phát triển nhưng hiệu quả lại có xu hướng giảm. Tỷ
xuất lợi nhuận bình quân năm 1992 tính trên vốn sử dụng là 4,8%/năm và tính
trên doanh thu trên tháng là 3%.
Đó là tỷ suất lợi nhuận quá thấp so với tỷ lệ lạm phát và lãi suất ngân
hàng.
Hầu hết các ngành sản xuất vật chất sử dụng vốn với hiệu quả thấp.
Ngành công nghiệp chiếp 36% tổng số vốn sử dụng và trên 50% tổng số

vốn ngân sách cấp của khu vực doanh nghiệp Nhà nước nhưng tỷ suất lợi
nhuận trên 1 đồnh vốn chỉ đạt 4,6% năm trong tổng kim ngạch xuất khẩu các
thành phần phẩm chỉ chiếm 6,8% là thiết thực và nông sản 18,5 nguyen liệu
và dầu thô
Ngành giao thông vận tải, đạt 4,2% ngành nông nghiệp đạt 2,3% các
ngành dịch vụ có điều kiện quay vòng vốn nhanh song tỷ suất lợi nhuận không
cao. Ngành thương nghiệp dịchh vụ 7,4 trong đó nội thương 6,0%, ngoại
thương 6,4%, thương nghiệp tổng hợp 9,4%, du lịch 17,2% dịch vụ 15,8%.
Trong tổng số 6544 doanh nghiệp còn hoạt động chủ có 12,8% trong
các doanh nghiệp sản xuất vật chất có tỷ suất lợi nhuận từ 15% năm trở lên và
4,3% trong các ngành dịch vụ có tỷ suất lợi nhuận từ 20% năm trở lên
7,6DN có tỷ suất lợi nhuận từ 8 - 15 % năm 47,6% có tỷ xuất lợi nhuận
dưới 8% năm không có kỹ năng hoàn trả nợ vay vốn.
Đáng lưu ý là gần 11,6% sản xuất kinh doanh thua lỗ và 12% không có
loại nhuận tức là 1/4 doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh không có lãi và
năm1992 còn bị thua lỗ 451 tỷ đồng trong số này có 1142 doanh nghiệp đã
thành lập lại theo nghị định 388 cổ phần. Theo ban thanh toán công nợ, hiện
còn 3000 tỷ đồng vốn tín dụng của các doanh nghiệp Nhà nước đã giải thế,
không đòi được về ngân sách phải gánh chịu.
Nếu tính cả giá trị tài nguyên, đất đai nhà xưởng được sử dụng mà hiện
nay chưa tính hoặc chưa đủ mức hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp nữa.
Nhiều nguyên nhân làm cho hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà
nước thấp song trong đó có một nguyên nhân hết sức quan trọng là tiêu hao
vật chất quá cao.
Năm 1990 Năm 1991 Năm 1992
- Tiêu hao vật chất trong tổng sản
phẩm xã hội toàn nền kinh tế
48,68 49,55 51,69
- Doanh nghiệp Nhà nước 60,06 60,86 61,34
Ngoài doanh nghiệp Nhà nước 43,07 42,97 44,81

* Sự đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách chưa tương
xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó, cũng như với tiền lực của doanh
nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng phần lớn trang thiết bị hiện đại của
nền kinh tế quốc dân, hầu hết cán bộ được đào tạo được vay 80% tổng số vốn

×